Văn 2

- THÁNG NĂM VÀ NHỮNG ĐƯỜNG HOA PHƯỢNG TÍM

- ĐOẢN KHÚC CHO NGÀY THÁNG

- LỐI XƯA BỖNG LẠI VỀ

THÁNG NĂM VÀ NHỮNG ĐƯỜNG HOA PHƯỢNG TÍM

* Kính gửi đến quý Thầy Cô trường Trung Học Ngô Quyền để chia sẻ niềm hạnh phúc của một học trò cũ đã được duyên may nối nghiệp nhà giáo, tiếp tục cuộc hành trình tuyệt vời của quý Thầy Cô, những người lái đò đã tận tụy đưa biết bao đoàn khách trẻ đến bờ bến tương lai. VTND

Tháng năm, Cali vẫn còn lành lạnh vào những buổi sáng khi tôi thức giấc chuẩn bị đưa các con đi học. Dọc đường từ nhà đến trường, hai hàng cây “jacaranda”(mà tôi vẫn gọi là hoa phượng tím) đã bắt đầu nở rộ những chùm hoa tím xanh ngan ngát, màu tím xanh nhẹ nhàng, thanh thoát làm dịu cả đoạn đường dài. Và như thế, tôi biết rằng mùa hè đang đến. Ở Việt Nam, mùa hè bắt đầu với những cành phượng đỏ nở rực cả góc trời, với tiếng ve kêu ra rả buồn xót xa, thì ở đây chỉ có hoa “jacaranda” và nắng ấm. Không biết từ bao giờ tôi đã yêu thích màu hoa “jacaranda”, thích ngang qua những con đường có trồng hoa rợp bóng, nhìn những cánh tím nhỏ li ti trải đầy trên đất, thêu từng mảng trên không, tôi cảm thấy dường như mình đang đi trong một giấc mơ.

Giấc mơ đưa tôi đến với những ngày xưa cũ, những kỷ niệm không thể nào quên, có con đường dẫn đến trường, nơi tôi bắt đầu nghiệp “gõ đầu trẻ”, con đường cũng có hai hàng cây trải dài hàng mấy cây số, thành cả rừng cây, mà khi nhớ lại vẫn thấy chập chùng trong ký ức, những thâm tình với bạn bè, đồng nghiệp, với học trò mà đôi lúc hồi tưởng vẫn nghe bồi hồi, ấm áp trong tim. Thế nên, hơn tháng nay, qua những nhắc nhở của bạn bè và học trò cũ cho ngày Hội Ngộ của ngôi trường Trung Học Long Thành sắp tới, lòng hoài cảm càng trỗi dậy mảnh liệt, như thúc dục tôi phải làm một điều gì đó để đền lại những nợ nần không vay mà có, trong suốt thời gian sống dưới mái trường này. Vì vậy, khi được đề nghị phụ trách việc thực hiện một quyển Đặc San cho lần hôi ngộ đầu tiên lịch sử sau hơn ba mươi năm xa cách của trường Trung Học Long Thành, tôi cho đó không phải là một tình cờ ngẫu nhiên mà là một cơ duyên để được tỏ bày, đền đáp nợ ân vậy.

Trước tháng 10 năm 1974, tôi vẫn chưa biết Long Thành nằm ở đâu? xa xôi hẻo lánh tới cỡ nào? nên khi cầm sự vụ lệnh trên tay, thấy địa chỉ là trường trung học Long Thành, tôi đã “ngậm ngùi” cho thân phận mình vì nghĩ rằng chắc phải là một nơi “đèo heo hút gió” nào đó. Nhưng đến lúc được bác Tư Sanh, bạn thân của ba tôi chở đến trường để xem… dân cho biết sự tình trước khi thực sự bước xuống... cuộc đời, tôi mới ngạc nhiên, thích thú và cảm thấy mình thật may mắn. Mặc dù đã đi Vũng Tàu nhiều lần, nhưng chưa bao giờ tôi để ý đến cái tên Long Thành, một thị trấn nhỏ nằm giữa đường đi Biên Hòa - Vũng Tàu và đặc biệt hơn hết là dọc đường, lúc gần đến nhiệm sở mới, có nhiều rừng cao su, đẹp quá! Từ Biên Hòa đi Long Thành, qua khỏi dốc 47, cầu Nước Trong, Tam An, An Lợi, vừa đến Phước Nguyên là đã thấy dọc hai bên đường những hàng cây cao su trùng trùng, thẳng tắp chạy dài như vô tận.

Hôm đó, ngồi phía sau trên chiếc Honda của Bác Tư, tôi đã say sưa ngắm nhìn cảnh trí hai bên đường như lần đầu được chiêm ngưỡng một bức tranh tạo hóa thật công phu. Những tàn lá xanh trên cao như giao đầu khắn khít, đổ tràn bóng mát xuống mặt đường, khiến tôi cảm thấy lòng nhẹ nhàng, êm ái như đang lạc vào một hang động được kết bằng lá cây và bóng mát. Tôi thầm nghĩ, mai mốt nhất định mình sẽ tìm dịp đi dưới những hàng cây này, vào sâu trong rừng kia, chắc là thú vị lắm!

Chắc cũng cùng cảm xúc như tôi hôm ấy, anh Viện, dạy Toán, trong những ngày cả trường cùng vào trong khu “nhà Tây” (còn gọi là đồn điền sở Shíp)- là một khu nhà lớn sang trọng nằm sâu phía trong rừng cao su,- nghe nói trước kia là nhà ở của gia đình một người Pháp, chủ nhân sở cao su này - để học tập chính trị sau 30 tháng Tư, đã sáng tác hai câu thơ thật lãng mạn khi cả bọn cùng đi bộ lang thang về nhà sau buổi học:

“Rừng cây rồi lại rừng cây.

Sao ta chỉ thấy áo bay một người!”

Không biết có phải là để tặng cho chị Huyền dạy Sử Địa như một số bạn bè đã nói với nhau chăng?

Trước khi đến trường phải ngang qua khu Chợ Chiều, Văn Hải, rồi đến khu Phước Lộc. Trường nằm ngay trên trục lộ chính giao thông giữa Sài Gòn – Vũng Tàu. Cổng trường là hai cái trụ cao lớn với tấm bảng ghi bốn chữ Trung Học Long Thành chỉ cách mặt đường quốc lộ 15, lúc nào cũng nườm nượp xe cộ, khoảng 3 mét, đối diện với khu chợ Long Thành. Nếu không nhờ cái cổng lớn nằm nhô ra gần mặt đường này, thì người ta sẽ khó mà tìm ra, vì trường nằm ẩn sâu vào phía trong.

Khi Bác Tư quẹo xe rẽ vào cổng, tôi thoáng thất vọng vì cái khung cảnh khá đặc biệt trước mắt. Bên trái cổng là một cái giếng, lao xao tiếng nói cười của các bà, các chị đang chờ lấy nước với thùng, gánh ngổn ngang. Bên phải là một quán chè nhỏ, rất đơn sơ nhưng đầy khách. Thấy xe lạ vào trường họ tò mò ngoái đầu nhìn chăm chú. Khoảng đường từ cổng vào trường tuy ngắn mà đất đá gập ghềnh. Chiếc xe dằn lên xóc xuống, khiến tôi phải bám chặt yên, cứ sợ lơ đễnh một tí sẽ bị rơi ngay xuống đất. Hôm đó là ngày nghỉ, sân trường vắng lặng, im ắng. Ba dãy lớp nằm giao lại như hình chữ U, nối với văn phòng Hiệu Trưởng và văn phòng Giáo Sư tạo thành một khối hình vuông. Tường gạch, mái ngói, trông cũng sạch sẽ, khang trang. Tôi thở phào nhẹ nhõm, may quá cứ tưởng phải về một chỗ “nhà quê” nào đó, tường rơm, vách lá thì chỉ… có chết! Văn phòng đóng cửa, nên Bác Tư dẫn tôi đến nhà của thầy Ân, tổng giám thị, nằm ngay phía sau trường học để hỏi thăm và giới thiệu “lính mới”. Lúc tôi vào, Thầy Ân đang xếp thời khóa biểu cho các lớp, sau khi nói chuyện và nhận dạy môn Quốc văn, tôi được thầy Ân báo rằng sẽ có một đợt giáo sư mới về trường cùng lúc với tôi. Tôi nghe lòng vui mừng vì biết rằng dù gì mình cũng sẽ có “đồng minh” trong cái buổi ban đầu… lưu luyến ấy, chứ không đến nỗi sẽ lạc lõng, cô đơn một mình giữa… chợ đời. Tôi lên xe trở về Biên Hòa với một tâm hồn phơi phới, đầy thiện cảm và hứng thú, ít nhất cũng bởi cái hình ảnh bên ngoài khá khang trang của ngôi trường và sự cởi mở của thầy tổng giám thị dù chưa biết đồng nghiệp và xếp mình rồi sẽ thế nào đây?

Tôi trở lại trường một tuần sau đó để trình diện với ông Hiệu trưởng Vũ Đỗ Chung và nhận thời khóa biểu, mọi việc diễn tiến thật dễ dàng và thuận lợi. Ông Hiệu trưởng hòa nhã, thoải mái, các nhân viên làm việc trong văn phòng vui vẻ, thân mật. Về trường cùng với tôi đợt này có chị Kiêm Anh, Chinh và Thu Ba. Vì vừa đi dạy, vừa đi học tiếp đại học, nên tôi được xếp cho dạy 2 ngày thứ sáu và thứ bảy, mỗi ngày 8 tiếng. Sáng sớm từ Biên Hòa đón xe xuống trường, ghé văn phòng một chút, có khi đi thẳng luôn tới lớp. Buổi trưa thì đến nhà chị Hai ăn cơm, nghỉ ngơi một chút để chờ giờ lên lớp buổi chiều, (nhà chị Hai nằm phía bên kia đường ngay ngã ba đối diện với đường đi vào bến xe và khu chợ, nơi các thầy cô giáo thường đến ăn cơm trưa và nghỉ ngơi.). Buổi chiều, tan học xong là đi thẳng ra con lộ trước cổng trường, đón xe về lại Biên Hòa. Thế nên, thời gian này, tôi chưa quen biết nhiều với các anh chị đồng nghiệp ở trường, phần không có giờ, phần vì nhút nhát, lại biết mình là nhân vật nhỏ tuổi nhất trường, nên cũng hơi ngần ngại. Có một lần, trong giờ chơi, đang đứng lớ ngớ trước cửa văn phòng, chị Thảo dạy Hóa, lớn hơn tôi vài tuổi, được kể là hoa khôi trong các cô giáo trẻ, về trường trước tôi vài tháng, đi ngang qua, dừng lại ngó tôi rồi nói: “Nè, đi dạy đừng có mặc áo dài trắng, nhìn giống học trò lắm. Gặp mấy đứa con trai học trò lớp lớn, tụi nó làm bộ không biết mình là cô giáo, tụi nó chọc ghẹo cho là quê một cục đó à nha!”. Tôi cười cười nhìn chị chống chế: “Tại em thích mặc áo dài trắng.”. Chị Thảo lại trừng mắt nhìn: “Ừ, thì nói cho biết vậy thôi. Tui bị rồi đó.”. Nghe lời chị, tôi về nhà sắm thêm vài chiếc áo dài màu khác để trông có vẻ người lớn và để cho học trò dễ phân biệt hơn, như lời chị Thảo đã cảnh cáo.

Sau 30 tháng Tư, chúng tôi không còn được đi đi, về về mỗi ngày như trước nữa, chương trình giáo dục mới, bắt buộc chúng tôi phải ở lại trường nhiều hơn, vừa giảng dạy, vừa học tập lại vừa lao động, chế độ ăn ở tập thể được khuyến khích mọi nơi, nên chúng tôi phải tìm chỗ trọ cho cả tuần làm việc. Điều này không ngờ lại tạo điều kiện cho các giáo viên gần gủi, thân thiết với nhau hơn, sống tập thể cho chúng tôi tình cảm thân thiết không chỉ ở chỗ bạn bè mà còn xem nhau như anh chị em ruột thịt vậy. May mắn cho chúng tôi, ở trường có chị Ngô Thanh Hương, dạy Sử Địa, là dân địa phương, chị có một ngôi nhà khá to, nằm gần chợ, ngay phía sau trường tiểu học Long Thành, dù đã bị hư hại khá nhiều sau những ngày cuối của cuộc chiến, nhưng cũng còn đủ tiện nghi để cho chúng tôi gồm 11 người trú ngụ, miễn phí. Ngoài các bậc “tiền bối” như “Đại ca” Trị, “Nhị ca” Vinh, các chị Hương, Kiều Phượng, Hoa, Dậu, Xuyến, thì Chinh, Thảo, Thu Ba và tôi được xem như là nhóm cô giáo trẻ của trường mà các ông Tú, Tiến, Thuận, Phong không nhớ ông nào đã đặt tên cho là “quatre J” (Chinh “J…” (xin lỗi, tôi không nhớ được tên đặt cho Chinh , Thảo “Jolie”, Thu Ba “Joyeux”, Ngọc Dung “Jeune”) và gọi ngôi nhà chúng tôi ở là “Ngô Gia Trang”. Vì là nhỏ tuổi nhất trường nên tôi rất được nuông chiều. Các anh chị bạn đồng nghiệp coi tôi như là một đứa em nhỏ nên đối xử rất thân tình, thường hay quan tâm, nhắc nhở. Nhớ khoảng cuối năm 76, phòng giáo dục đến trường có ý thuyên chuyển tôi về trường Phước Thái, đang cần giáo viên dạy môn Văn, với lý do trong tổ Văn, tôi là người độc thân, trẻ tuổi nhất, không có gì vướng bận. Phải đi. Tôi vừa tức vừa sợ vì nghe nói Phước Thái là khu… trại cùi, mà lại ở vùng kinh tế mới,, nên đã bật khóc ngon lành trước mặt hai cán bộ phòng giáo dục và các bạn đồng nghiệp cùng Tổ, sau khi “tuyên bố” là sẽ xin nghĩ dạy vì gia đình đã có một đứa em gái đi dạy ở tận Bình Tuy, và một em trai đang đi học ở mãi tận Bảo Lộc. Trưa hôm đó, tôi về nhà vẫn còn đang “ấm ức”, vì chắc rằng mình sẽ phải từ gìã trường Trung Học Long Thành này rồi, lại gặp Cao quốc Tiến dạy Anh Văn, một nhân vật hay “xuất khẩu thành thơ” của nhóm thầy giáo trẻ trong trường, người mà mỗi khi đến thăm bốn đứa chúng tôi, chưa tới cửa đã nghe phán trước một câu “sấm truyền” bất hủ: “Một ngày mà tớ không trông thấy các cô là ngày ấy tớ thẹn thùng với gương!”, mặc dù bao năm cùng dạy chung dưới một mái trường, chưa bao giờ thấy anh “có tình ý” với cô nào cả. Ông Tiến chạy xồng xộc vào nhà… mắng ngay một hơi: “Cái cô này làm gì phải khóc, có gì thì cứ thủng thẳng mà nói, mà tính. Lớn rồi chứ bộ còn con nít 17, 18 tuổi sao mà động tí là khóc, nhất là không thèm khóc trước mặt… cán bộ, nhớ chưa?” Không biết anh nói thật hay nói đùa, mà gương mặt anh cứ “đằng đằng sát khí”, cứ đi tới đi lui, vòng vòng trong căn phòng chật hẹp vừa là phòng ăn vừa là chỗ ngủ của anh Trị, anh Vinh. Tôi cảm động mà lại tức cười nên nói: “Tính làm sao được mà tính, nói hết hoàn cảnh ra rồi đó, họ không chịu thì tức quá phải khóc chớ sao!”. Vậy mà anh chàng vẫn đi tới đi lui cằn nhằn tôi suốt buổi hôm đó. Không ngờ, hôm sau vào trường, Thầy giám thị Kham báo cho tôi biết là phòng giáo dục đã quyết định không chuyển tôi về Phước Thái nữa. Tôi mừng đến suýt… khóc thêm lần nữa và nghĩ thầm trong bụng: biết đâu là tại nhờ mình khóc, họ thấy “cảm động” quá nên mới đổi ý. Bạn bè đến thăm hỏi, chia vui với tôi, thật là sung sướng!

Trong khoảng thời gian này, mặc dù có nhiều biến đổi, khó khăn hơn trong cuộc sống, nhưng sau những giờ dạy ở trường về đến nhà trọ buổi tối, chúng tôi vẫn vui vẻ, thoãi mái bày ra các trò chơi giải trí thật thú vị, mà thường là do anh Vinh khởi xướng.

Tôi vẫn nhớ và thích nhất những buổi “Nhạc thính phòng” được “tổ chức” khi nhà có khách như anh Bình, chị Châm, ông Thuận, Tiến… sang chơi. Lúc thì làm ở phòng ăn, dưới chân cầu thang, lúc thì ở trên phòng ngủ của các chị. Chúng tôi ngồi quây quần thành vòng tròn, đèn chỉ để một bóng… mờ mờ, ảo ảo. Một người tình nguyện hoặc được chỉ định sẽ bắt đầu chương trình bằng những lời dẫn hay một bài hát với giọng thì thầm, nho nhỏ và người bên cạnh cứ thế mà tiếp tục phiên mình. Ai không biết hát thì kể chuyện, chia sẻ kỷ niệm. Cây đàn guitar do anh Vinh và anh Bình thay nhau sử dụng đã lần lượt đưa những tiếng hát bay bổng, nhẹ nhàng… quanh căn phòng nhỏ. Một bầu không khí dịu dàng, ấm áp như đang trải ra, lan tỏa và rồi đọng lại trong lòng mỗi người. Thật tuyệt! Có một lần, để cho không khí… lãng mạn hơn, anh Vinh đã dùng cái khăn lông nhỏ, bọc bóng đèn tròn quá sáng trong phòng dưới chân cầu thang. Cả bọn mải mê ngồi hát, đến lúc nghe mùi khen khét, nhìn lên thì thấy cái khăn đã ngã sang màu nâu đậm, một ông vội chạy bay đến tháo ngay cái khăn xuống và chương trình “nhạc thính phòng” đành phải tạm chấm dứt. Để thay đổi không khí, anh Bình quay sang kể chuyện ma, câu chuyện “The Chair” (Ma Ghế) là câu chuyện ma mà chúng tôi rất thích, cứ đòi anh kể lại mặc dù vừa nghe vừa nín thở. Hôm nào vui vẻ, hào hứng thì anh Vinh lại “truyền nghề” khiêu vũ cho “bọn trẻ” bốn đứa chúng tôi. Cả bọn đều thích điệu “bebop” vì vừa vui chân lại vừa khỏe sức. Trong bọn chỉ có Chinh là “học trò” giỏi nhất, vì cô nàng quay “valse” rất nhuyễn.

Những năm sau 1979, nhóm “Ngô gia trang” dần dần tan rã, một số các anh chị đổi về Sài Gòn hoặc dọn ra nơi khác. Riêng nhóm “quatre J” chúng tôi vẫn gắn bó với nhau sau khi dời nhà lên ở khu Chợ Chiều, cho đến khi Chinh đổi về dạy ở Tam An, Tôi về Biên Hòa, Thảo và Thu Ba về Saigon.

Những tình cảm của tôi với trường Long Thành không chỉ được đơm hoa, bừng nở ở giữa những bạn bè, đồng nghiệp mà còn là những kỷ niệm đậm đà, thân thiết với các em học trò mà tôi đã quen biết và của những lớp mà tôi đã dạy qua.

Năm học 75-76 bắt đầu với những lớp học “bồi dưỡng chính trị” và sinh hoạt văn nghệ quần chúng được phổ biến rộng rãi trong nhà trường, cho cả Thầy cô lẫn học sinh. Chắc lúc đó thấy tôi còn trẻ mà lại thích ca hát nên mọi người cho tôi vào ban văn nghệ của trường. Tôi nhớ trong giờ sinh hoạt lớp, bài hát đầu tiên mà tôi dạy cho các em là bài “Dậy mà đi” (Dậy mà đi, dậy mà đi, ai chiến thắng không hề chiến bại, ai nên khôn không khốn một lần…), môt bài hát trước 75 rất phổ biến trong giới sinh viên và các em rất thích, cứ hát đi hát lại mãi. Sau đó, không biết ai đã đề nghị, tôi lại được phong chức “vũ sư” dạy múa cho các em. Bài vũ đầu tiên, động tác như những cánh chim, mà lời nhạc chính là bài “Tự nguyện” (Nếu là chim tôi sẽ là loài bồ câu trắng, nếu là hoa tôi sẽ là một đóa hướng dương….) cho ngày lễ “Quốc Tế Hiến Chương Các Nhà Giáo”. Tôi đã chọn được chín em lớp 11 và 12 lúc ấy như: Kim Loan, Bích Ảnh, Lâm Hoa, Diệp Láng, Ren, Ánh Thủy, Ngọc Đáng, Bạch Tuyết, Niệm Hương. Và không ngờ bài vũ này các em đã biễu diễn rất thành công được cả trường khen thưởng, khiến tôi lại phải tiếp tục hướng dẫn cho nhóm các em thêm một màn múa “Hoa Đăng” nữa. Sau này, chúng tôi đã được mời đi trình diễn nhiều lần trong các buổi sinh hoạt trong và ngoài huyện Long Thành. Kim Loan hiện đang sát cánh với các Thầy Cô, bạn bè để lo tổ chức buổi hội ngộ Long Thành sắp tới đây, chính là Kim Loan trong đội múa mà tôi đã nhắc ở trên. Bây giờ nhớ lại không biết các em có còn giữ được chút nào cái cảm giác bồi hồi, cảm động khi nghe những tràng pháo tay nồng nhiệt của khán giả, sau màn vũ của mình chăng?

Trong sự nghiệp dạy “ca múa”, tôi còn dạy thêm hai bài vũ “Năm Ngón Tay Ngoan” và “Con Kênh Xanh Xanh” cho học sinh của hai lớp tôi làm chủ nhiệm nữa. Sau này, nhớ lại, tôi cũng ngạc nhiên vì không ngờ mình cũng biết dạy vũ, dù chưa được đi học hoặc tham gia múa vũ trước đó bao giờ.

Nhưng kỷ niệm thân thiết, khó quên nhất trong quãng đời đi dạy chính là những tình cảm của các em học sinh đã dành cho tôi. Nhớ những buổi lao động thủy lợi, cùng các em ngâm mình dưới sình lầy để làm đập ngăn nước dẫn vào ruộng, hoặc ra rẫy cuốc đất trồng đậu phộng để gây quỹ cho trường, có em vừa thấy Cô nhúng tay chân xuống đầm sình hoặc giơ cuốc lên còn ngượng ngập đã vội chạy đến “Cô ơi, cô ngồi nghĩ đi, để đó cho em, em quen rồi, làm lẹ lắm.” Cảm động không phải vì có học trò làm thay cho mà vì cái tình trong lời nói thật thà, đơn sơ mà đậm đà tình nghĩa đó. Hoặc những buổi “trực trường” trong mấy tháng hè, được các em rủ “Cô ơi, chút nữa hết giờ, Cô lại nhà em, vườn em chơi nha.”. Lớp 8A1, do tôi chủ nhiệm năm học 77-78 các em học rất đều, rất giỏi, trong đó có Kim Sinh. Em rất mến tôi và hay mời tôi đến nhà chơi. Một lần, em kéo tôi ra sau vườn nhà em, thì thầm tâm sự, tôi biết em mất mẹ sớm nên hay buồn tủi, “em xem cô giống như mẹ em vậy.” Tôi cảm động nói với em: “Từ gìờ trở đi em có gì buồn hoặc cần giúp đỡ cứ cho cô biết nha.” Trong suốt năm học, Kim Sinh rất thân thiết với tôi và mỗi khi gặp tôi dù ở đâu em luôn nở nụ cười thật tươi và chạy tới chào hỏi. Đến năm sau, do đạt được “danh hiệu” là giáo viên dạy giỏi cấp huyện, tôi phải đảm nhận thêm một số nhiệm vụ mới bận rộn hơn, nên không còn được chủ nhiệm mà chỉ dạy lớp thôi. Tôi phụ trách môn Văn ở lớp 9A3 và lại được thêm một học trò “ruột” nữa là Thu Hương. Tôi hay đến nhà em chơi và ngủ lại đêm ở đó. Hai cô trò nấu cơm, ăn uống, tối nằm ngủ chung trên bộ ván gõ, cửa nhà không đóng, nên có thể thấy cả ánh trăng từ ngoài sân rọi vào, nằm nghe Hương thì thầm tâm sự về một người bạn rất thân… cho đến khi dần rơi vào giấc ngủ. Ở trường Long Thành, các lớp học thường là chung cả nam lẫn nữ, vì ở thôn quê nên các em lớp 9 khoảng tuổi 15 trở lên và rất cao lớn, nghịch ngợm. Lớp 9A3 này, trong giờ dạy của tôi các em lại khá ngoan ngoãn, chăm chú lắng nghe, ngay đến những anh con trai vẫn hay phá phách, học tới đâu làu thông tới đó. Có một kỷ niệm đặc biệt của lớp này đã khiến tôi mỗi khi nhớ lại, vẫn cảm thấy bồi hồi và xúc động. Hôm đó, trong lúc dạy môn ngữ pháp (văn phạm), tôi hướng dẫn các em về thể thơ lục bát, cách gieo vần cho đúng luật, và cho các em thử tập làm thơ ngay tại lớp. Lớp học thích thú, sôi nổi với những “sáng tác ứng khẩu” thật đúng vần điệu và không kém phần ý tứ. Tôi sung sướng với ý tưởng: lớp này không khéo lại nảy sinh một vài “nhà thơ lớn” đây. Cuối giờ, tôi cho các em bài tập ở nhà, một bài thơ ngắn với thể lục bát, để kiểm tra vào tuần tới.

Độ ba, bốn hôm sau, khi mới bước vào văn phòng để sửa soạn xuống lớp, thầy Kham đưa cho tôi một lá thư vừa cười vừa bảo: “Cô Ngọc Dung, có thư của ai gửi cho cô về địa chỉ trường đây này”. Tôi ngạc nhiên vì chưa bao giờ cho ai địa chỉ trường cả. Nhìn trên góc trái của bì thư thì cũng chẳng thấy ghi tên người gửi. Tôi cầm thư bước xuống khu nhà tập thể chỗ tôi đang ở với vài chị bạn cùng trường, mở bì thư ra là một trang vở học trò xếp làm đôi, được cắt xén rất cẩn thận, và trình bày đẹp mắt với những cánh hoa nằm ở hai góc phía trên đầu thư. Ở giữa được đóng khung gọn gàng là một bài thơ lục bát viết tay bằng những nét nắn nót như sau:

Mến tặng Cô Ngọc Dung

CÔ EM

Từ nhà Cô bước đến trường

Tay ôm cặp sách trên đường bước đi

Cô ơi, Cô có nghĩ gì?

Con đường dài lắm Cô đi một mình.

Cô em bốn mắt đẹp xinh

Đôi tay mềm dẽo thật tình là thương

Hiền từ giọng nói khiêm nhường

Giảng bài kỹ lưỡng, yêu thương học trò.

Cô là bến vắng đưa đò

Khách về khách ấm tình Cô sớm chiều.

Học trò của Cô

Lớp 9A3

Tôi nghe mặt mình nóng bừng lên vì bất ngờ và cảm xúc. Một món quà thật đơn sơ mà giá trị tinh thần thật vô cùng quí báu. Tôi im lặng không nói gì hết, vì muốn chờ xem tác giả là ai?

Quả nhiên hai hôm sau, một em trai của lớp 9A3 chắc không còn kiên nhẩn, đến tìm tôi và hỏi: “Cô ơi, mấy hôm nay Cô có nhận được gì không?” Tôi nhớ, em tên là Luyến, một học sinh rất khá của lớp. Tôi giả vờ hỏi: “Nhận gì? Cô có nhận gì đâu?”. “Có mà, thật không Cô?”. Tôi thấy gương mặt của em áo não đến tội nghiệp, nên vội nói: “Có, Cô nhận được rồi. Bài thơ em tự làm đó hả? hay lắm, mà âm vận lại cũng rất hoàn chỉnh”. Luyến cười, mặt đỏ hồng lên: “Không phải mình em làm đâu cô ơi, mấy đứa con trai 2 bàn cuối cùng hợp nhau làm để tặng cho Cô đó. Cô cho bao nhiêu điểm vậy Cô?”. Tôi nói: “Đây là công của cả nhóm, Cô phải cho 10 điểm (điểm cao nhất lúc bấy giờ) cho mỗi em, không cần phải chia nhau, được không?”. Rồi tôi vỗ vai Luyến và nói: “Cô cám ơn các em, bài thơ này rất ý nghĩa và vô cùng quí báu đối với Cô. Cô sẽ giữ nó mãi mãi trong tận đáy lòng. Cám ơn các em nhiều lắm!”.

Quả thật, tôi đã cất giữ bằng cách thuộc lòng bài thơ này cho đến bây giờ, như một món quà kỷ niệm vô cùng trân quý trong mớ hành trang cũ kỹ của những ngày ly hương, xa xứ.

Cám ơn các anh chị, những người bạn đồng nghiệp, những người thân thiết nhất của một thời dĩ vãng, đã cùng nhau chia sẻ ngọt bùi, góp chung kỷ niệm, để cho tôi có thêm niềm lạc quan, yêu đời, yêu người.

Cám ơn các em, những học trò với lòng tin yêu, cậy mến, đã không ngần ngại khi đến với tôi để bày tỏ, gửi gấm những tình cảm chân thành, đằm thắm để tôi có được niềm hảnh diện là người đi gieo những hạt giống tốt cho cuộc đời.

Tháng Năm sắp tàn, những chùm hoa “jacaranda” tim tím vẫn nở rộ trên đường phố tôi đang ở, nhưng tôi biết trong tuần lễ của đầu tháng Sáu sắp đến, tại thành phố SanJose, hoa “jacaranda” sẽ nở tưng bừng, rực rỡ, và thắm tươi hơn bao giờ hết, để đón chào những tâm hồn, trái tim vẫn còn đầy nhiệt huyết, tin yêu của những đứa con xa đang trở về họp mặt, như dưới mái ấm trường trung học Long Thành năm xưa. Xin chúc cho chúng ta, cho mọi người, hai ngày tương ngộ, tìm về kỷ niệm được tràn đầy niềm vui và hạnh phúc.

Tháng 5, 2008

Võ Thị Ngọc Dung

ĐOẢN KHÚC CHO NGÀY THÁNG

Tháng Năm, tôi cứ ngỡ mình lầm, thời gian vốn ơ hờ, thế mà chu đáo. Vòng quay địa cầu đã trở về khởi điểm, để bắt đầu lại một định kỳ, để nhắc nhở lại một quá khứ, mặc dù người đi chưa hẳn đã lãng quên.

Thế là đã qua biết bao năm, qua những khoảng đời, những rong xanh, cỏ mượt đã lần lượt héo tàn, chết rũ, người rồi cũng phôi phai theo ký ức thời gian. Thảm nhung quá khứ đã bị xén dần, mắc lưới tương lai đang sẵn sàng thêm gút. Trong lòng tôi, trong lòng người đã có thêm bao nhiêu tiếng thở dài và bao nhiêu giọt lệ?

Tháng Năm, nhớ những tà áo trắng ngoan ngoan xếp lại, những quyển vở lặng lẽ nằm chờ hay rối tung hăm hở. Tháng năm của tôi đã chấm dứt những giờ chơi, hẹn hò nhiều trắc trở. Tôi không còn cơ hội để đối diện cùng quá khứ nữa rồi!

Nào một thuở “làm học trò không sách vở cầm tay, đem tâm sự đi nói cùng cây cỏ”, lấy truyện Quỳnh Dao làm mộng gối đầu. Quên sao được những giờ ra chơi, rụt rè trước khung cửa lớp, cuối dãy hành lang, ngóng tìm đôi mắt đen thẳm, đôi mắt Kha Mộng Nam của tuổi dại khờ, không biết giờ đã phiêu bạt về đâu?

Vẫn khao khát, vẫn ước ao được cầm quyển vở trên tay có chữ ai còn rõ nét: Giang Nhạn Dung (mắt ngơ ngác như con nai tơ!) của một thời yêu dấu cũ. Thế nhưng, hạnh phúc vốn mong manh như gió, lay lắt như sương, nên tôi chỉ được ngắm nhìn, chứ không đành cầm vỡ.

Tháng Năm, tôi tưởng mình hãy còn dẫm chân trên ngày tháng cũ, nào ngờ đó chỉ là dư âm của mấy bận ngoái nhìn. Mắt mở to mà lòng cứ thiêm thiếp ngủ. Tôi quên thời gian, nên cứ phải giật mình!

Tháng Năm trở về, tháng Năm se sắt, nhắm mắt, chùng lòng để tưởng tiếc ngày qua, để vỗ về hiện tại. Tôi và người xin một lần ngồi lại, mời mọc nhau gìn giữ tình thân, sớt chia niềm hạnh ngộ, rồi hỏi nhau: Buồn sẽ đến bao giờ?

Tưởng Dung

Cho Ngô Quyền và những ngày tháng cũ 12A1 (72-73)

LỐI XƯA BỖNG LẠI VỀ

"Anh có hỏi khi cung đàn im lắng

Tình hôm qua sao nay chẳng còn hương.

Em có hỏi trong màn sương bóng nắng

Tình đã lâu sao nay vẫn còn vương?"

(Nguyễn Thị Minh Thủy)

Đêm đã xuống tự bao giờ, tôi ùa vào nhà như một cơn lốc, trời tháng bảy nóng hực người không kể sáng hay tối. Tôi cười nhẹ nhỏm khi mấy đứa con chạy ra ríu rít: “Chào mẹ!”. Một đứa báo: “Mẹ ơi, có quà của mẹ”. Tôi không ngạc nhiên mấy khi nhìn thấy tên người gửi trên gói thư dầy cộm, dù lòng cũng nghe xúc động dạt dào. Ơi bạn hiền! chỉ có mi chứ không còn ai vào đây nữa. Từ khi rời Việt Nam, sinh nhật của tôi thường luôn được nhắc nhở đến bởi những tấm thiệp hoặc món quà nho nhỏ từ đứa bạn thân là hắn, và sau này là ông xã tôi và mấy đứa con. Cứ mỗi lần nhận quà sinh nhật, tôi lại mĩm cười, nhủ thầm: “Ôi, nhìn lại mình đời đã xanh rêu mất rồi!” Mân mê gói quà trên tay, tôi chưa mở vội, sinh nhật này là thứ bao nhiêu rồi đây, mình đang cố tình lãng quên đấy mà! Tôi đã có bao nhiêu buổi sinh nhật với những lời chúc tụng và bạn bè chung quanh? Đếm mãi cũng chưa đủ… năm đầu ngón tay!

Dạo còn đi học ở trường Ngô Quyền, tôi nhớ lần đầu tiên, tôi tự tổ chức sinh nhật cho mình vào năm 15 tuổi ở nhà của Ngọc Yến, căn phố lầu thật đẹp ở ngay đầu dốc gần tòa án, con đường Lê văn Duyệt (?) dẫn xuống bờ sông, nơi có ngôi nhà của chị Duyên, người đã được thơ của Nguyễn Tất Nhiên đưa vào văn học sử, với dăm ba đứa bạn thân và hai người khách đặc biệt: Chị Hạnh -con Thầy Hiệu Trưởng Phạm Đức Bảo-, Chị Duyên - người tình “Thà như giọt mưa” của Nguyễn Tất Nhiên-. Lần đó, tôi chỉ là con bé lớp đệ tứ, mới vừa cùng Yến tự biên, tự diễn cho ra tập thơ đầu tay với tên gọi thật sặc mùi… chiến đấu “Tuyên ngôn 15”. Nhịn quà, dành tiền tiêu, tự tay viết stencil để in ronéo, chạy đi năn nỉ anh Nhiên xin phụ bản của tập thơ Thiên Tai để làm bìa cho tập thơ này, và rồi sau đó mang đi… biếu không cho bạn bè, thầy cô trong trường. Chắc chắn, lúc đó động cơ mạnh mẽ nhất đã thúc đẩy hai đứa tôi cùng… liều mạng làm được chuyện này là việc nhà thơ Nguyễn Tất Nhiên đã vào lớp tôi để phổ biến tập thơ “Thiên Tai” của anh, (Với hy vọng sau này mình sẽ khá hơn và làm được như anh chăng?). Và dĩ nhiên ngày sinh nhật thứ mười lăm của tôi hôm đó còn là để ăn mừng sự chào đời của những cánh chim non vừa nứt vỏ, rời ràng của mình trước khi tập tành vẫy cánh tung bay trên vùng trời cao rộng. Tôi không nhớ mình còn cảm giác gì đặc biệt hơn vào ngày sinh nhật này, ngoài niềm vui háo hức của một đứa bé biết rằng mình đã bắt đầu là người lớn, bắt đầu từ giã Tuổi Thần Tiên để bước vào Tuổi Biết Buồn. Rồi những năm 16, 17 tuổi, sinh nhật của tôi chỉ là những ngọn nến âm thầm tự thắp lên trong thinh lặng, một mình, không ai nhắc nhở, dù lúc đó, tôi cùng với Minh Thủy đã cho “chào đời” thêm 2 nàng thơ mới: “Thơ 16” và “Tình khúc” (Tôi nhớ khi mang tặng những tập “Tình Khúc” cho bạn bè, thầy cô, không biết Minh Thủy thì sao chứ riêng tôi, vừa hạnh phúc lại vừa...lo lắng. Liệu rồi có ai “xem thơ lòng sẽ hỏi lòng, người đâu tả ở mấy dòng thơ đây!” chăng?) Thơ của tôi lúc bấy giờ không còn là thơ của những giấc mộng suông, của trí tưởng tượng nữa, mà là tâm linh, là cả nỗi lòng trăn trở khôn nguôi, khổ đau, chờ đợi… Tôi đã chờ và sống trong cái “thú đau thương” ấy cả hai năm trời với niềm hạnh phúc, mê say theo từng bước chân, ánh mắt, nụ cười của Lĩnh mỗi ngày, trên dãy hành lang dài dẫn qua từng lớp học. Mãi cho đến năm 18 tuổi, tôi mới có một buổi tiệc sinh nhật lần thứ hai, thật đúng nghĩa, thật linh đình do ba má tôi tổ chức tại nhà, vì đó cũng là lúc tôi thi đậu Tú Tài II. Tôi nhớ lúc ấy, rất đông bạn bè, có cả Thầy Phùng Thái Toàn, giáo sư dạy môn Vật lý và là chủ nhiệm lớp 12A1 của chúng tôi cùng đến dự.( Thầy Toàn đã mất vào khoảng cuối năm 1995, ở San Jose vì bệnh tim! Xin gửi một nén hương lòng đến Thầy, người Thầy rất vui tính, dễ dãi, lại hướng dẫn một lớp toàn là con gái…mới lớn, nên thường hay bị học trò…bắt nạt). Chúng tôi đã có một ngày thật vui, thật đẹp vì hầu như ai cũng nhẹ nhàng, hoan hỉ sau khi đã trả xong nợ sách đèn và cầm chắc mảnh bằng trên tay. Riêng tôi, trong nhật ký hôm đó tôi nhớ là đã ghi: “Ngày sinh nhật buồn, khởi điểm rõ ràng và hứa hẹn nhiều… mật đắng!”

Tôi vừa thong thả mở gói quà vừa liên tưởng: À, chắc là tập thơ mình mới hỏi hắn hôm nọ, hoặc tác phẩm nào mới của hai vợ chồng hắn đây. Thế nhưng, khi thấy tấm thiệp rơi ra từ hai quyển báo phát hành từ một nơi xa xôi, tôi lại nghĩ khác đi: thế nào cũng tìm ra bài của chàng và nàng trong này. Không vội xem tờ thiệp, tôi mở trước một quyển nhìn ngay phần mục lục, lướt vội trên các tên tác giả, thấy ngay tên anh chàng ở giòng cuối, tôi nhủ thầm: thấy chưa, biết ngay mà! Trở lại một lần nữa trong phần mục lục, tôi từ tốn chậm rãi hơn để tìm xem có tên cô nàng chăng? Bỗng tôi chớp mắt thật nhanh, nhìn lại thật kỹ cái tên vừa thoáng qua trong mắt. Đầu choáng váng, mắt hoa lên và tim bỗng dưng đổi nhịp dồn dập! Tôi cố trấn tỉnh mình một cách thật gượng gạo. Lĩnh đó sao? Tôi nhìn lại một lần nữa tên anh để xác định rằng mình không đang mơ. Giở ngay trang có bài của Lĩnh, tôi đọc vội một đoạn và biết rõ đúng là anh. Lặng người một giây, tôi giở tiếp quyễn thứ hai, lại một bài khác của Lĩnh. Tôi ngập ngừng đóng sách lại. Một tờ giấy nhỏ kèm trong tấm thiệp sinh nhật vô tình rơi ra, những giòng chữ của nhỏ bạn thân khiến tôi chùng lòng, quay quắt: “Gửi mi hai cuốn báo làm quà sinh nhật. Hãy đọc qua -ít nhất là mục mục lục- để biết tại sao tao chọn gửi chúng”. Lạ thật, tôi đã làm đúng những điều mà hắn dặn dò, mặc dù chưa hề đọc qua lời nhắn này trước. Và cũng không ngờ mình vẫn còn những xúc động thật đáng buồn cười, tựa như có người vừa khơi lại đống tro tàn, mặc dù đã vô cùng cũ, lạnh! Trong khoảnh khắc ấy, tôi tưởng như mình đang sống lại những khổ đau, hạnh phúc, nước mắt, nụ cười của “thuở học trò không sách vở cầm tay”, những giòng nhật ký của năm 18 tuổi bỗng trở về nguyên vẹn, như mới hôm qua.

“Hôm qua, tôi đã bắt đầu trang nhật ký mới với một giòng duy nhất: Hôm nay, tôi mười tám tuổi! Nét bút cứng ngắc và lạnh lùng khiến tôi bàng hoàng ngơ ngẩn. Mười tám tuổi! Đôi vai đang đầy thêm một chút, mớ tóc thêm vài sợi muộn phiền, còn những thứ gì thay đổi khác để cho tôi xa lạ hơn nữa? Bỗng dưng tôi bật khóc, 18 ngọn nến của buổi chiều mười bảy đã tàn, tiếng cười ròn tan của bạn bè mất hút, bây giờ, chỉ còn tôi một mình ở đây, chung quanh là bóng đêm và hiu quạnh. Thật ra, tôi vẫn chưa trưởng thành nổi với những điều mà lẽ ra tôi đã phải từ giã chúng trước giờ ánh nến cuối cùng phụt tắt cũng như sự yếu đuối của tôi khi đôi tay run rẩy viết không xong tên Lĩnh trên cánh thiệp. Vì thế, Lĩnh vô tình làm người vắng mặt, vì thế, tôi cố tình làm kẻ lãng quên. Hai tháng dài dai dẳng, chịu quay lưng về quá khứ, gom cho xong một chút tương lai, tôi còn gì để chờ mong ngoài phút giây hạnh ngộ. Nhưng hạnh phúc vốn là cái khốn cùng, nên tôi chưa giữ được trong tay, dù chỉ là những ảo hình mong manh nhất.

Lĩnh! Anh có còn nhớ gì tới em và những ngày trong quá khứ? Sân trường cũ em đã giã từ, bờ thềm xưa em vừa quay gót, chúng ta đang bắt đầu ở trên vị trí của một cuộc chia ly mà cả hai không ai là người đưa tiễn. Rồi những ngày tháng mới, cô học trò tỉnh lẻ này trở thành người xa lạ, liệu có ai dung dưỡng bước chân em khi trở lại trường xưa, nơi bảy năm dài em làm thân học trò ngoan ngoãn, nơi hai năm em khép kín tình riêng, hay lúc trở về em lạc loài giữa mọi thứ quen thuộc và lạ lùng ngay trong đôi mắt của anh?

Tôi lầm lẫn hay tôi đang hối hận? Ngày sinh nhật này Lĩnh không tới, mặc dù tôi không muốn, mặc dù tôi đợi chờ. Mười tám tuổi! rồi sẽ trống vắng hay thế nào nếu tôi vĩnh viễn không mong gặp lại Lĩnh. Làm một cuộc lựa chọn, tôi đành chịu thật nhiều mất mát. Ngày vui ơi ngắn ngủi! Muộn phiền sao dài lâu! Tôi muốn quên bẵng đi cái tên Lĩnh, nên cố tình lơ đễnh với giấc ngủ lẫn chiêm bao, thế mà, bây giờ, âm thanh quen thuộc ấy vẫn còn nồng nàn khi nghe nhắc nhở.

Buổi tối hôm qua, trước giờ đi ngủ, tôi mang phần bánh dành cho Lĩnh đặt trên bàn học cạnh quyển vở…nhìn thẫn thờ, buồn tủi và khóc một mình. Tôi không thể nào để đừng nhắc về Lĩnh, bởi tôi chưa bao giờ có dịp để quên anh. Kỷ niệm còn quá nồng hơi nên nỗi ngậm ngùi càng trở nên dai dẳng. Ánh nến và những lời chúc tụng của buổi chiều còn vương víu chung quanh như khơi động thêm cơn đau đang òa vỡ. Tôi cố chờ mong một huyền nhiệm, nhưng Lĩnh không là trăng sao nên tôi không tìm được anh trong bóng đêm. Lĩnh không là gió thoảng nên tôi đành im tiếng gọi. Ngồi lại chỗ này, nơi hằng đêm tôi nguyện cầu lặng lẽ, cảm giác mỗi lúc một hư hao. Rốt cuộc, cũng đành phải mất nhau mà thôi! Một khoảng tình thơ dại—18 tuổi muộn phiền, tôi còn gì ngoài dư vị dở dang sẽ mỗi ngày một nhạt.—Ngày tháng tàn tình rồi cũng héo tàn—Tôi sắp sửa làm kẻ xa xăm, Lĩnh chắc có vời trông ngày tôi quay gót? Đã lâu rồi, không gặp lại Lĩnh, tôi làm thế nào để lường được sự thiết tha hay hờ hững của anh. Hôm nay lỡ, ngày mai lại lỡ, có lẽ tôi đành làm người đưa tiễn chính tôi chăng?

Lĩnh! Hãy cho em một tí can đảm cuối cùng để em rời thành phố mà không nghe ray rức, dù chỉ là nhắn nhủ, dù chỉ là tình cờ. Ôi! Tại sao tôi vẫn còn nhiều thứ để thèm tơ tưởng như thế, khi trong thâm tâm tôi đã rời rã, mỏi mòn. Ngày sinh nhật buồn, khởi điểm rõ ràng và hứa hẹn nhiều…mật đắng! Nếu chúng ta chẳng nợ gì nhau thì hãy nên hẹn lại, Lĩnh ạ!—Nơi em đi chắc vẫn còn lệ ứa, vì tình sâu giờ người đã buông mau!”

Tôi không ngờ mình đã thức suốt đêm, đọc hết hai bài viết của Lĩnh, nhớ lại những lần gặp anh sau ngày sinh nhật 18, những chuyến tàu nối liền Biên Hòa-Sài Gòn, nơi đã đưa anh đi, đã đón tôi về, đã mang chở biết bao lời nhắn gửi ân cần, êm ái! Đến những lần gặp gỡ cuối cùng rất tình cờ, hờ hững trước khi Lĩnh và tôi hoàn toàn mất tin nhau.

Cám ơn mi vô cùng bạn hiền ạ! món quà sinh nhật của năm này quả thật quá…nặng ký, nặng tình khiến tôi cảm thấy bàng hoàng, chới với. Ít ra, tôi cũng còn được…một chút gì để nhớ để quên trong cái cõi trần gian ô trọc này đấy chứ! Bỗng dưng, tôi lại nhớ đến câu mà chúng tôi thường nói với nhau ngày xưa, trong những khi ưu phiền, trắc trở : “Tuổi mười bảy có buồn cũng không buồn bằng ngày tóc đã ngã màu”. Dù rằng tóc của chúng ta đâu phải chỉ mới ngã màu từ hôm nay. Phải không bạn hiền?

Giờ đây, quá khứ như một cuốn phim cũ, rất trân quí, đã lạc mất từ lâu, mới vừa tìm lại được, nên hình ảnh dù đã nhạt nhòa, nhưng đoạn nào xem lại cũng vẫn còn làm rưng nước mắt, làm ấm môi cười.

Chẳng phải là chúng ta đã quên bẳng nhau đi rồi sao, hở Lĩnh? Bao năm dài xa cách, tôi chưa hề một lần nào có dịp nhắc nhở đến tên anh. Đời sống như giòng cuồng lũ xô đẩy chúng ta qua những bờ bến lạ, những thác ghềnh xa, dù êm đềm hay khốn khó, chúng ta cũng đã không còn tìm đâu được lối quay về. Thế nên, những rung động, thao thức hôm nay, có chăng cũng chỉ là “những tia nắng qua mái hiên làm tôi nhớ”, những viên đá cuội vụt rơi làm khuấy động mặt hồ. Đó không còn là những khoắc khoải-xót xa, đớn đau-chờ đợi của những sinh nhật ở tuổi học trò mười bảy, mười tám nữa.

Ở nơi xa xôi nào đó trên nữa vòng địa cầu hay gần gũi đâu đây trong một vài khoảnh khắc, tôi mong anh đã và đang được như tôi bây giờ, có một cuộc sống an vui, hạnh phúc và tràn đầy ân sủng. Những kỷ niệm đời xin mãi như ngọn nến hồng của ngày sinh nhật cứ thắp sáng lên để làm tươi thắm thêm tuổi đời chẳng còn được là bao!

Lĩnh! Cám ơn anh đã làm cho những ngày tháng học trò của em trở thành huyền thoại, tuyệt vời với đầy đủ những âm hưởng ngọt ngào, đắng cay hòa lẫn xót xa, hạnh phúc. Thế nên, dù vẫn còn được cất giữ hoặc đã đi vào lãng quên trong ký ức của anh, cũng xin nhận lấy lời tri ân, dẫu rất muộn màng của em. Chúc anh mỗi ngày là một niềm hạnh phúc, mỗi ngày là một nỗi hân hoan!

Viết cho một ngày của tháng Bảy, năm 2005_

(Để nhớ về 12A1 niên khóa 72-73)

Tưởng Dung