Dẫu là bậc kỳ tài cũng chỉ là thiên mệnh trời sinh. Biết trước thiên cơ nhưng cũng không tránh được số trời. Ngẫm các bậc tôn sư xưa nay giúp đời mà trời yêu ghét

1. Quản Lộ

Quản Lộ là thuật sĩ ở tỉnh Sơn Đông, sống vào thời Tam Quốc (226-248 SCN). Quản Lộ từ nhỏ đã thích thiên văn. Lớn lên ông là một bậc kỳ tài về khoa địa lý phong thuỷ , bói dịch, tướng số, v.v. Quản Lộ rất được Tào Tháo trọng vọng và hỏi ý kiến nhiều lần trước khi Tào Tháo định làm việc lớn.

Chuyện về Quản lộ nhiều lắm. Quản Lộ thuộc hạng người “vua biết mặt, chúa biết tên”, đến cả tiên nhân như Nam Tào, Bắc Đẩu cũng biết tiếng.

Có lần Quản Lộ xem mộ phần bà thím của ba anh em Quách Ân, ông cho rằng ngôi mả đang bị “nữ quỷ” trong đất táng báo ứng. Miếng đất đẹp này anh em nhà Quách Ân đã nhờ một thầy địa lý khác tìm được. Nhưng Quản Lộ nói rằng nếu người lúc sống làm nhiều điều ác thì dù khi chết có tìm được cuộc đất đẹp để táng xác mình vào thì theo luật nhân quả, con cháu vẫn phải chịu báo ứng chứ chẳng có được hưởng vinh hoa phú quý gì hết. Và đúng là sau này cả 3 anh em Quách Ân đều bị thọt chân.

Tài năng như thế nhưng chính Quản Lộ cũng không thoát được số trời. Khi họ Tư Mã lật đổ họ Tào để lập nên nhà Tấn, Quản Lộ bị bắt vì ông được coi là “túi khôn” của Tào Tháo. Việc này Quản Lộ cũng đã lường trước nhưng không thoát được. Khi Quản Lộ sắp bị hành hình, một cơn gió nổi lên cuốn đi chiếc mũ của vua Tấn. Quản Lộ nói:

“Nếu mũ rơi xuống đất là điềm ta báo được thù”.

Nhưng mũ đã bay úp lên đầu con ngựa mà vua Tấn đang cưỡi. Quản Lộ thở dài chịu chết.


2. Quách Phác

Quách Phác tự Cảnh Đôn, người Hà Đông, nay là tỉnh Sơn Tây, Trung Quốc. Ông sinh vào thời nhà Tấn (276-324 SCN) sau Quản Lộ. Sách “Thái Bình quảng ký” viết về ông như sau :

“Quách Phác hiểu biết bao la, biết thiên văn, địa lý phong thuỷ́, quy thủ long đồ, hào tượng sấm vĩ – là những môn coi bói bằng mu rùa, quẻ, thẻ, lời sấm truyền – yên mộ lo nhà ở, không có gì không tinh thâm…”.

Quách Phác soạn cuốn “Táng thư” (coi mộ phần) và “Tướng địa thuật” (xem thế đất), nên được tôn xưng là tỵ tổ (tức ông tổ khoa địa lý).

Mẹ của Quách Phác qua đời lúc ông ta còn chưa nổi tiếng. Quách Phác đã chọn một mảnh đất rất bình thường an táng cho mẹ. Mảnh đất này nằm rất gần nguồn nước, do vậy mỗi khi tới mùa, trời mưa là ngôi mộ lại bị chìm trong nước. Bị giới thầy phong thủy chê bai, Quách Phác không hề để ý, tiếp tục kiên trì ý kiến của mình.

Vậy mà chỉ vài năm sau, do phù sa bồi đắp, nơi đặt mộ của mẹ Quách Phác không những không bị nước nhấn chìm, mà xung quanh ngôi mộ còn hình thành một ruộng dâu tươi tốt. Quách Phác trở nên nổi tiếng.

Tấn Nguyên Đế nghe tiếng Quách Phác nên ông ta muốn tự mình đến xem những mộ huyệt Quách Phác đã chọn. Có lần ông ta gặp một người nông dân đặt mộ ở một vị trí rất đẹp. Ông ta hỏi lý do, thì người nông dân trả lời là đó là nghe theo Quách Phác, bởi nếu đặt mộ chỗ đó thì không quá 3 năm sẽ gặp được thiên tử. Tấn Nguyên Đế vô cùng sửng sốt.

Trong sách “Nam Sử” phần “Trương Dụ chuyện” có kể rằng, khi ông cố nội viên quan Trương Dụ qua đời, Quách Phác được mời đến để tìm chọn phong thuỷ mộ phần. Quách Phác chọn được hai vị trí và nói với Trương Dụ:

“Nếu như chôn ở huyệt mộ thứ nhất thì ông có thể sống tới trăm tuổi, làm quan tới tam tư (tức các chức Đại Tư Mã, Tư Đồ, Tư Không, là các chức quan hàng đầu trong triều đình phong kiến thời Hán) nhưng con cháu lại không hưng vượng. Nếu như chôn ở vị trí thứ hai thì tuổi thọ của ông sẽ giảm đi một nửa, quan vị cũng thấp hơn song tôn tử lại sẽ rất hưng vượng, giàu sang, phú quý”.

Trương Dụ nghe xong, chẳng cần phải suy nghĩ, lựa chọn huyệt mộ thứ hai. Y như rằng, Trương Dụ chết khi tuổi mới quá 40, thế nhưng con cháu Trương Dụ thì lại làm quan rất to và vô cùng giàu có.

Nhưng Quách Phác mắc tật ham nữ sắc. Có người bạn thân là Hoàn Di hay đến nhà ông mà không đánh tiếng trước, nên hay bắt gặp cảnh Quách Phác đang vui vầy với tình nhân. Quách Phác dặn Hoàn Di có đường đột vào chỗ nào trong nhà ông ta cũng được, nhưng đừng vào nhà vệ sinh, nếu không cả hai sẽ chết. Hoàn Di không thèm nghe. Có lần xông thẳng vào nhà vệ sinh, thấy Quách Phác đang cởi trần, tóc tai rũ rượi, miệng ngậm dao tế lễ, chẳng biết là đang tu luyện hay làm phép. Quách Phác nhìn thầy Hoàn Di thất kinh nói: “Hai chúng ta chết tới nơi rồi!”.

Quả thực, ít lâu sau, Vương Đội định mưu phản mới lệnh cho Quách Phác tới xem việc mưu phản có thành công không. Quách Phác bốc quẻ nói quẻ không tốt. Vương Đội tức giận, nghĩ rằng, việc chưa bắt đầu đã bị Quách Phác làm cho đen đủi nên tức giận ra lệnh giết chết Quách Phác.


3. Lưu Cơ (Lưu Bá Ôn)

Ông sống vào những năm 1311-1375, là người Thanh Điền tỉnh Chiết Giang. Lưu Cơ đậu tiến sĩ triều Nguyên Thuận Đế nhưng không thèm làm quan với nhà Nguyên. Ông ta theo Chu Nguyên Chương làm quân sư. Với tài năng thần cơ diệu toán, Lưu Cơ bàn 18 kế sách cho Chu Nguyên Chương và là nhân vật quan trọng bậc nhất trong số các mưu sĩ của Chu Nguyên Chương, giúp Chu Nguyên Chương đánh đuổi được người Mông Cổ và diệt các thế lực khác để lên ngôi vua, lập ra nhà Minh.

Lưu Bá Ôn sau đó tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong triều đình của Minh Thái Tổ với chức Ngự Sử Trung Thừa.

Khi Chu Nguyên Chương dự định đóng đô ở Kim Long, Lưu Cơ chọn đất ở hồ Trúc Tiền làm nền chính điện, nhưng Chu Nguyên Chương nói nơi này quá nhỏ, nên cho người nới rộng mặt bằng ra sau cho thêm lớn.

Lưu Cơ biết việc tính đất “sai một ly đi một dặm”, không phải cứ cuộc đất nào to là tốt, nên chỉ nói : “Sau này nhà Minh còn phải dời đô đi nơi khác”.

Quả nhiên về sau Minh Thành Tổ phải dời đô đến Bắc Kinh, lời Lưu Cơ quả thật ứng nghiệm.

Lưu Bá Ôn có soạn sách “Kham dư mạn hứng” là cuốn sách viết khá đầy đủ về thiên văn địa lý và có tiếng trong dân gian.

Chuyện Lưu Cơ chọn đất xây cung điện được chép trong “Anh liệt truyện”. Trong “Lạc dao tư ngữ” cũng viết về chuyện ông cùng các thầy phong thủy huyện Hải Diêm bàn luận về long mạch ở Trung Hoa. Có rất nhiều giai thoại nói về tài năng địa lý của ông.

Tuy vậy, Lưu Bá Ôn cũng không tránh được số trời. Ông bị quan tể tướng đương triều là Hồ Duy Dung ghen ghét hãm hại, cho thầy thuốc hạ độc chết.

4. Gia Cát Lượng

Chúng ta ai cũng biết Gia Cát Lượng được người đời xưng tụng bậc kỳ tài “trên thông thiên văn, dưới tường địa lý”. Những mưu kế kỳ ảo gần 2000 năm trước của ông vẫn làm nức lòng người thời nay. Nhưng Gia Cát Lượng cũng biết trước rằng vận số nhà Hán đã hết, dẫu có ra giúp Lưu Bị cũng không thể thành công. Dù không thành công thì cái ơn tri ngộ của Lưu Bị không báo không được. Cho nên với triều đình nhà Thục Hán, Gia Cát Lượng “cúc cung tận tụy, đến chết mới thôi” như những lời gan ruột ông viết trong “Xuất sư biểu”.

Gia Cát Lượng đã từng làm lễ dâng sao giải hạn để kéo dài tuổi thọ, nhưng bị Ngụy Diên vô ý phá mất. Gia Cát Lượng đã can Khương Duy không nên chém Ngụy Diên. Ông tự than rằng: “Đó là tại số trời, chứ con người làm gì được”.

Sau này, con trai và cháu của Gia Cát Lượng là Gia Cát Chiêm và Gia Cát Thượng cũng chết thảm trong cuộc tử thủ Thành Đô trước sự tấn công của quân Bắc Ngụy.

Câu nói nổi tiếng của Gia Cát Lượng là: “Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”.

5. Cao Biền

Cao Biền người U Châu, làm tướng của vua Đường Ý Tông, Đường Hy Tông, từng là đại diện của triều đình nhà Đường tại An Nam với chức vụ An Nam đô hộ, kinh lược chiêu thảo sứ. Cao Biền không chỉ là kẻ văn võ toàn tài, mà còn là một thầy phù thủy, một thầy phong thủy hết sức cao cường.

Có nhiều giai thoại về thời kỳ Cao Biền ở tại đất An Nam. Ông ta cho trấn yểm khu vực sông Tô Lịch để đất không sụt khi đắp La Thành. Cao Biền còn cưỡi diều giấy bay trên không để trấn yểm những kiểu đất đế vương của Giao Châu. Cao Biền có lần táng tro cốt của cha mình vào núi Hàm Rồng để mong hậu nhân của mình phát đế vương nhưng không thành công.

Dẫu thực hư của những câu chuyện này ra sao thì việc Cao Biền là một thầy địa lý tài giỏi đã được đề cập đến trong nhiều tài liệu. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là “Cao Biền địa lý tấu thư kiều tự”. Đây là nghiên cứu của Cao Biền về các kiểu đất kết, các huyệt đế vương của An Nam để trình lên vua Đường. Dẫu vậy, Cao Biền cũng không tránh khỏi số phận bị quản thúc cùng với gia đình mình bởi Tần Ngạn, rồi sau bị giết cùng với các thân thích là nam giới. Xác của họ cùng bị vứt xuống chôn chung trong một hố. Chẳng biết đất ở đó có huyệt kết hay không?

6. Tả Ao

Theo cuốn “Nam Hải dị nhân” của tác giả Phan Kế Bính, Tả Ao tên thật là Nguyễn Đức Huyền (cũng có tài liệu viết là Vũ Đức Huyền), là người làng Tả Ao, phủ Đức Quang, trấn Nghệ An, tức huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Tả Ao không rõ sinh vào thời nào nhưng danh tiếng của ông lừng lẫy vào thời vua Lê chúa Trịnh (vào những năm 1545–1788).

Tả Ao học nghề thuốc của người phương Bắc, nhưng nhờ chữa bệnh cho thầy phong thủy nổi tiếng, ông lại học thêm được nghề xem địa lý. Thầy ông sau khi thử tài ông thì cho rằng Tả Ao đã nắm được hết các bí thuật phong thủy của người Trung Hoa. Tả Ao sau về quê làm thuốc nhưng lại nổi tiếng hơn nhờ thuật xem địa lý phong thuỷ của mình.

Nhưng Tả Ao cũng không tìm được huyệt mộ nào để táng cho cha mẹ mình. Khi mất, huyệt mộ mà ông được táng vào được giới phong thủy gọi là huyệt “xin ăn”. Con cháu của ông sau này đều bần hàn và không ai giỏi về nghề phong thủy .

Trong phần mở đầu của cuốn sách bí truyền “Dã Đàm Tả Ao”, ông viết:

“Đạo cao, đức trọng, chưng thân.

Hổ long liên phục, quỷ thần liên kinh.

Đức, nhân vốn ở cả mình.

Tiên là tích đức, hậu là tầm long”.

7. Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm

“An Nam lý học hữu Trình Tuyền” là danh dự người Trung Hoa đã trao cho Nguyễn Bình Khiêm. Dân gian gọi ông là Trạng Trình, ý nói là người làm vẻ vang cho cái học của các nhà thuật số Trình Di, Trình Hạo nổi tiếng của Trung Hoa. Trạng Trình được nuôi dạy bởi một bà mẹ phi thường, được theo học một người thầy danh tiếng, lại là người có tư chất cực kỳ thông minh nên tài học của ông lừng lẫy. Cuộc đời ông có rất nhiều giai thoại lịch sử. Lúc thì ông mách cho nhà Mạc lên đất Cao Bằng để giữ cơ nghiệp một thời gian nữa với câu: “Cao Bằng tuy thiển, khả diên sổ thể” (cao Bằng tuy nhỏ, cũng giữ được vài đời). Lúc thì ông lại mách nước cho Nguyễn Hoàng trốn vào Thuận Hóa để tránh họa sát thân bởi quyền thần Trịnh Kiểm với câu “Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân”.

Tài năng lẫy lừng như thế, nhưng ông cũng phải chờ đến năm 44 tuổi mới đi thi Đình và đỗ Trạng Nguyên. Tài năng cũng phải chờ đến thời vận mới được toại nguyện. Đó là nhờ cái học lý số đã cho ông biết thế.

Nhưng sau khi Trạng Trình mất, con cháu trong nhà cũng không có người nào nối chí được ông. Sau này, thậm chí họ còn sa sút, nghèo túng.

Vì sao những bậc kỳ tài về phong thủy này không thể tự giúp mình? Hay giúp cho hậu nhân của mình được giỏi giang, được “phát”, được vẻ vang lừng lẫy như họ ? Có phải là dao sắc mà không gọt được chuôi chăng. ?

Âu là vì ngộ tính thiên bẩm của họ sinh ra tự phụ bản thân, coi mình như bậc tiên thánh. Họ lại thường không coi trọng phú quý, quan quyền chỉ muốn là một bậc cao đạo nên thường giúp đời đặt mộ phần nhưng mộ phần của gia tộc dòng họ mình hay chính mình lại mặc nhiên không coi trọng vì nghĩ con cháu vào chốn quan quyền tranh giành đoạt lợi chẳng có gì hay ho. Mà chỉ muốn rằng thế sự đời sau biết đến tên tuổi của mình. Đó là một sai lầm cố hữu của nhiều bậc tôn sư thủa trước: " Họ đã bước ra ngoài ánh sáng thì không còn đáng sợ nữa"