Lịch sử cũng từng ghi nhận ở Nghệ An đã xuất hiện một thầy địa lý phong thủy vào thế kỷ 17- 18, mà dân gian thường gọi là ông Cú Đẹn. Chuyện về ông tuy có phần huyền bí hơn song ở nhiều địa phương nhất là vùng phía Nam huyện Yên Thành vẫn còn nhiều di vật có liên quan đến ông. Theo truyền miệng dân gian thì ông là một thầy địa lý giỏi, có tài làm thơ, sống lười, hay thử lòng người và sẵn sàng phản lại khi không vừa ý hoặc có những việc làm chạm đến lòng tự ái của ông.
Theo sách: Kho tàng truyện kể dân gian xứ Nghệ ghi lại giai thoại về người thầy địa lý này: Phạm Viên người làng An Bài, nay thuộc xã Diễn Hùng, huyện Diễn Châu là con quan Thượng thư Phạm Chất, đỗ Hoàng Giáp khoa Nhâm Thìn (1652) đời Lê Thần Tông cùng một người bạn ở làng Trung Phường, nay thuộc xã Diễn Minh, huyện Diễn Châu đỗ cử nhân cùng khoa, vào Hà Tĩnh, trèo lên núi Hồng Lĩnh tìm tiên để tu hành học đạo. Hai người đi mãi lên đến ngọn núi Đụn thì gặp một ông già ngồi đan sọt. Họ nói rõ ý định là muốn xa lánh trần tục và được ông già giữ lại. Thời gian ở đây, có lần ông già đưa gạo cho hai người nấu cơm. Khi đưa ra ăn thì cơm có rất nhiều dòi bọ, Phạm Viên biết là tiên thử lòng nên cứ xới ăn ngon lành, còn người bạn thì sợ, song bụng đói lắm cuối cùng ăn có mấy sém. Một bữa khác ông đưa chè bảo hai người nấu nước. Nhưng khi nấu xong, nước rót ra bát thì đỏ như máu, Phạm Viên bưng uống tự nhiên, còn ông bạn sợ không dám uống. Cùng một số biểu hiện khác, cuối cùng Phạm Viên được giữ lại tiếp tục tu luyện, còn người bạn phải trở về. Khi về đến làng thì hình thù người bạn đã thay đổi xấu đi, bà con gọi là Cú Đẻn hay Cú Đẹn.
Còn theo những chuyện kể dân gian cùng những di vật và sự kiện xảy ra ở làng Liên Trì, xã Liên Thành thì thời gian ông sống là vào cuối thế kỷ 18, đầu thế kỷ 19 và chuyện kể cũng có khác. Sự tích kể rằng: sau mấy tháng tu hành, đến kỳ sát hạch thầy dẫn hai người ra đường xuống núi. Tới một quán hàng nghỉ, thầy đưa cho bà chủ quán một đùm gạo và bảo nấu nồi cháo xương. Khi nhắc nồi cháo ra ăn thì có mấy cái đầu lâu nổi lên, ông Viên nghĩ là thầy thử, vẫn cố ăn, còn ông Cú Đẹn là người kỹ tính hay chấp thì sợ lắm không thể nào ăn được và bị loại. Phạm Viên được theo thầy tiếp tục tu luyện, còn ông Cú Đẹn chỉ đậu cú, phải trở về nhà. Nhưng nghĩ đến công ông mấy tháng trời theo học, thầy gọi lại căn dặn đôi điều rồi trao cho một cuốn sách, một cái địa bàn và bảo ông chuyên tâm nghiên cứu thì có thể trở thành thầy địa lý phong thủy giỏi. Sau đó ông Cú Đẹn đã hành nghề phong thủy và chẳng bao lâu trở thành nổi tiếng khắp vùng.
Thời gian ở quê nhà, ông Cú Đẹn có lấy hướng cho làng Trung Phường xây đình và lấy đất đặt mộ tổ cho mấy dòng họ. Nhưng do cá tính giữa ông và hào lý cùng các bô lão làng thường xảy ra những vụ cãi vã và một số sự việc không hay đã xảy ra. Dân làng cho rằng ông đã phản lại làng và cuộc họp làng cuối cùng đã đi đến quyết định đuổi ông ra khỏi vùng. Lý trưởng làng còn tuyên bố: Nếu ông còn vãng lai ở vùng đó thì người dân có quyền đánh chết ông mà không phải can chịu tội gì.
Trước tình hình ấy, ông cùng một người anh trai buộc lòng phải ra đi lên Yên Thành tìm nơi sinh sống. Đến ngày đi ông bảo: Cứ đi đến chỗ nào mà hết giờ Mão không còn bóng lèn Hai Vai mới ở được. Mùa hè, hai anh em đi theo hướng Tây Bắc đến làng Vân Nam, nay thuộc xã Khánh Thành. Thấy địa thế làng đẹp, ông xin làng ở và hứa sẽ làm cho làng ấm no, vui vẻ. Làng đồng ý và theo lời ông, đầu tiên làng cần đào một cái giếng ở phía Đông Nam, dân làng uống nước giếng đó sẽ khỏe mạnh, con người có nước da trắng và hát hay. Giếng đào mới được vài ba lớp thì gặp phải đất sét, ai cũng nghĩ là không thể có nước mạch được nhưng tin lời ông, dân làng vẫn cố gắng đào và mấy ngày sau, khi đã vượt qua các tầng đất sét thì mạch nước đổ ra như suối. Theo các cụ cao tuổi ở làng này thì những năm hạn hán to nhất kéo dài nhiều tháng, giếng vẫn không bao giờ khô và đến nay giếng vẫn còn tồn tại. Về sau đội tuồng Vân Nam nổi tiếng trong vùng và nhiều ả đào người làng này có tiếng hát hay, nên ở Yên Thành thời đó có câu:
Giọng nam ai kịp Quỳ Lăng (phía bắc Yên Thành)
Giọng nữ hát tốt ai bằng Vân Nam.
Sau đó ông còn giúp làng trồng một bờ lũy ở phía Bắc để che khuất chùa Ngu, giúp cho dân làng được bình yên, tránh được những nạn dịch. Ông cũng dựng cho làng một cái điếm ở cuối làng và đề nghị làm một cái cốc to treo trong điếm. Ông nói: Khi nào làng đánh cốc là ở đình làng có rượu uống. Về sau Vân Nam còn nổi tiếng là nơi có nhiều gái đẹp và các nho sĩ, các nhà khoa bảng trong vùng cũng thường về đây giao lưu, bình thơ văn. Khi có khách đến, phu làng đánh cốc báo hiệu là các cụ già ra đình tiếp khách.
Cũng thời gian ở làng Vân Nam, có những đêm, cứ vào khoảng canh hai 8-9 h tối thì người ta lại thấy có nhiều tiếng động và tiếng ồn liên tục phát ra ở vùng Cồn Nấm, một vệ đất cao thuộc đồng làng Liên Trì, ở về phía Tây Nam làng Vân Nam. Dân làng hỏi thì ông trả lời: Đó là do dân Liên Trì đâm xay lúa gạo dội xuống. Vì khoảng cách từ làng Liên Trì xuống vệ Cồn Nấm là khá xa, đến gần cây số nên nhiều người không tin, hỏi lại người anh của ông thì người này nói: Nghe chi thằng dại ấy. Câu nói làm ông bực mình và ông đã đáp lại mọi người: Làng cứ nghe người khôn thì người khôn ở lại với làng, còn thằng dại này xin đi. Nói xong ông liền mang hành lý ra đi theo hướng Tây Nam. Đúng thời gian này làng Liên Trì đang chuẩn bị làm đình. Vốn nghe tiếng ông, làng bèn mời ông ở lại và nhờ ông lấy đất dựng đình. Thời đó quanh làng còn rừng rú rậm, sau mấy ngày quan sát, thầy phân tích địa thế làng lúc đó như hình một con phượng hoàng, có hai cánh dang ra nhưng cánh phía Nam bị gãy nên con người ở vùng này, theo lời ông thì:
“Công danh bất vạn đại
Phú quý chẳng trọn đời”
Nghĩa là nếu có người làm quan thì cũng không được lâu dài, còn người giàu cũng khó trọn đời. Sau này cũng có những sự việc xảy ra ở đây đúng như vậy.
Còn vị trí nền đình được đặt ở ngay đầu con phượng. Về hướng đình thì ông có hỏi hào lý và các cụ trong làng: Làng thích người làm quan to hay thích đông con cháu? Vào những năm đầu thế kỷ 19, dân số của làng còn ít, ở thưa thớt và sinh thì nhiều nhưng nuôi dưỡng trưởng thành thì không được bao nhiêu nên các cụ đã đồng ý chọn phương án thứ hai. Bàn bạc xong, một cụ già còn nói thêm: Nhờ thầy lấy hướng thế nào cho làng chúng tôi được đông con cháu và nhiều người đỗ đạt, làm thầy thiên hạ. Ông cười và bảo: Việc đó không khó nhưng phải mấy chục năm sau mới ứng nghiệm.
Nói rồi, ông đưa địa bàn ra cắm hướng đình là chính Nam.
Đình Liên Trì hiện nay là Di tích lịch sử - văn hóa cấp Quốc gia được dựng từ năm Nhâm Ngọ (1942). Khi dựng lại đình này, làng vẫn đặt đúng trên nền đất của ngôi đình cũ trước đó dựng năm Tân Dậu (1801), thời ông Cú Đẹn. Thế rồi cũng từ giữa thế kỷ 19, làng có người đỗ cử nhân, nhiều người đỗ tú tài với hàng chục ông thầy đồ, đi dạy học khắp bốn phương, Liên Trì nổi tiếng là làng thầy đồ.
Cũng theo truyền lại thì thời gian ở đây, ông có lấy đất đặt mộ cho một số dòng họ trong làng. Chẳng hạn có một họ ông đã đặt mộ tổ lên đầu một dải đất hình chiếc bút, nhân dân gọi là vệ Tháp Bút ở đồng Tùng - Mồ Côi. Họ này về sau nhiều người học giỏi, có người đỗ đến cử nhân, làm quan đến Điển học rồi Tri huyện, trong họ còn có mấy người đỗ Tú tài. Một họ khác cũng nhờ lấy đất nhưng có biểu hiện làm ông không vừa lòng, ông đã đặt ngôi mộ tổ tại phần đuôi một dải đất hình con cá chép (hay cử động) ở vệ Cồn Trửa. Về sau họ này cứ mỗi lần ngồi họp thường xẩy ra những chuyện cãi vã, không ai chịu ai. Với một họ Nguyễn nữa cũng mời thầy rất chu đáo và kính trọng, ông đã đặt ngôi mộ tổ vào vùng đất tốt ở rú Mặt Gương, ngoài Vệ Đá nằm ở biên giới đồng cao Bò Rò và vùng ruộng thấp. Mộ kết, sau đó trong họ có người làm quan và nhiều người giàu có. Cũng lúc ấy, ông có nói ở vùng này có mảnh đất tốt, có người hỏi lại thì ông đọc câu:
Trên đồng lúa lốc,
Dưới rộc lúa chiêm
Đất cong lưỡi liềm là đó.
Nhưng mãi về sau cũng không ai tìm được.
Một lần đi về thầy vào nhà tộc trưởng họ Nguyễn nghỉ ăn cơm, thấy mọi người đều chu tất, ông bảo chủ nhà: Anh chặt đi một vác hóp chẻ ra làm dây để mà xâu tiền.
Rồi mấy ngày sau xảy ra một trận mưa to kèm theo cơn lốc xoáy, tiền theo gió bay vào nhà rất nhiều. Một số gia đình trong họ đã nhanh chóng trở nên giàu có và mọi việc làm ăn đều tấn tới.
Cũng thời gian sau đó, ở xóm Đông làng Liên Trì thường xảy ra cháy nhà và không ít vụ đã thiêu rụi hàng chục nóc nhà. Một lần làng chữa cháy vừa xong thì gặp ông Cú Đẹn đi qua dừng lại đứng xem. Các cụ và hào lý làng nhờ thầy yểm hộ. Sau khi xem xét địa hình, ông cho rằng: ở phía Nam có một thỏi đất, gọi là vệ Cọc Đèn đâm thẳng vào giữa xóm Đông. Do đó ông đã cho xây điếm chắn hoả nằm ngay trên phương thẳng với vệ Cọc Đèn (tức vị trí trước cổng nhà thờ họ Nguyễn Bá hiện nay). Từ khi có điếm, suốt một thời gian dài không xẩy ra vụ cháy nào.
Đồng thời với những việc đó, sau khi điếm chắn hoả phát huy tác dụng, có lần ngồi ở đình làng Liên Trì, ông Cú Đẹn nói với hào lý làng cho người ra sau Vực Vông bắt cá chép về ăn thịt. Làng cử mấy thanh niên trai tráng đem theo nơm vó ra thì có một con cá chép to nổi lên và họ dễ dàng bắt được. Nghe nói cá to bằng chiếc lá dong, ước độ bảy, tám cân. Nhưng khi đưa cá về thì ông đã bỏ đi, làng đã để dành cho ông một khúc ướp muối, chờ nhiều ngày vẫn không thấy trở lại. Đến bữa thầy đến thì khúc cá đã hỏng không còn nữa, ông trách móc và cho rằng làng đã đối xử không tốt. Cùng với nhiều chuyện rắc rối khác làm thầy bất bình và phản lại cả họ Nguyễn và làng.
Nhân việc lấy đất cho làng Tây Hồ, một làng giáp phía Đông Bắc làng Liên Trì (nay thuộc xã Nam Thành) đào giếng, thầy cho đào một giếng to đúng mạch, nước rất nhiều, cả làng gánh không hết. Nhưng giếng đã làm “đứt long mạch” nên khi đào xong thì ở Liên Trì xảy ra một trận mưa to gió xoáy, rèm chống cửa của nhiều nhà họ Nguyễn bị đứt dây bay ra sân và tiền bạc trong nhà cũng bay theo gió rơi xuống Ao họ trước nhà. Theo nhiều người truyền lại thì cho đến giữa thế kỷ 20, những lúc động trời, Ao họ này vẫn thường nổi lên những váng màu xanh, lấy tay vớt lên ngửi sẽ có mùi tanh như mùi đồng. Rồi họ này cũng sa sút dần, đồng thời do bị “đứt long mạch” nên điếm chắn hoả ở xóm Đông cũng không còn tác dụng, các vụ cháy tuy có giảm những vẫn tiếp tục xảy ra.
Cho đến nay Ao họ vẫn còn đó, tuy diện tích không rộng như trước, còn nền điếm chắn hỏa vẫn ở nguyên vị trí cũ. Nhưng trong thời kỳ xây dựng hợp tác xã, người ta đã cho xây bờ tường bao quanh làm kho chứa vôi. Cuối năm 2011, một số cán bộ con em làng Liên Trì công tác và sinh sống tại Hà Nội mà chủ trì là Đại tá Nguyễn Sao Ba, nguyên cán bộ cục Nhà trường, Bộ Tổng tham mưu đã bỏ tiền ra xây lại điếm trên nền cũ, nhằm giữ lại một di tích lịch sử văn hoá của làng. Khi dỡ các văng xà cũ ra có dòng chữ Hán Mạnh hạ Đinh Mùi Thiệu Trị niên nghĩa là tháng Tư năm Đinh Mùi đời Thiệu Trị, tức là năm 1847.
Đây là một bằng chứng đáng tin cậy về thời gian sống của ông. Như vậy về thời gian sống và xuất xứ của ông, các tài liệu và chuyện kể có liên quan đưa ra những thông tin rất khác nhau. Như trên đã nói: sách Kho tàng truyện kể dân gian xứ Nghệ tập I và sách Từ điển nhân vật xứ Nghệ đều nói: Phạm Viên sống vào thế kỷ 17, mà ông Cú Đẹn là bạn đỗ cử nhân cùng khoa với Phạm Viên.
Nhưng ở làng Phú Ninh nay thuộc xã Khánh Thành, sau khi Thám hoa Phan Thúc Trực qua đời (năm 1852), làng đã dựng đền Nhà Quan về sau gọi là đình Phú Ninh để thờ ba vị nhân thần của làng. Đền này cũng có hướng chính Nam nhìn ra sông Vụ Giang và theo truyền lại là do ông Cú Đẹn chọn đất đặt nền.
Rồi ở làng Nam Thôn xã Công Thành cũng truyền miệng câu chuyện: cuối thế kỷ 19, khi người Pháp tiến hành xây nhà thờ đá Bảo Nham có lên đây liên hệ xin đặt một nhà thờ công giáo trên cồn rú Hàn Sơn phía Bắc làng. Làng hỏi ý kiến ông Cú Đẹn, nghe ông phân tích, làng đã từ chối.
Ngoài Liên Trì, ông Cú Đẹn cũng đã đi nhiều nơi và để lại những chuyện kỳ lạ, được lưu truyền trong nhân dân. Chẳng hạn ở làng Công Luận, nay thuộc xã Công Thành, thời kỳ đó xảy ra nạn dịch kéo dài làm chết nhiều người, mọi cố gắng cứu chữa, kể cả cúng bái ở các đền chùa đều không có kết quả, làng phải mời ông Cú Đẹn về yểm. Sau khi xem đất, ông cho đào một con mương tiêu chảy nước từ cánh đồng phía Nam xuống một lạch khe chảy ra sông Vụ Giang, một thời gian sau nạn dịch cũng qua khỏi.
Làng Bắc Sơn, nay thuộc xã Bắc Thành cũng nhờ ông lấy đất đào giếng. Ông đã chọn một địa điểm phía Nam làng và cho đào một giếng to giữa đồng. Khi đào xuống sâu gặp toàn đất sét. Đứng trên bờ nhìn xuống chỉ thấy một màu đỏ, dân trong vùng gọi là giếng Đỏ. Điều khá lạ là khi đào lên toàn đất sét nhưng giếng lại rất nhiều nước. Theo người dân ở đây thì những năm nắng hạn kéo dài, dân các làng xung quanh cùng đến gánh nước vẫn không bao giờ khô và đến nay mặc dầu làng Bắc Sơn đã chuyển lên đồi núi, giếng Đỏ vẫn còn, nằm bên tỉnh lộ 538.
Rồi ở làng Tràng Sơn, nay thuộc xã Sơn Thành nhân dân cũng lưu truyền câu chuyện, có lần đi qua, ông Cú Đẹn đã khuyên làng lấp dãy ao gọi là hồ Voi Mẹp, đào ở phía Tây làng khi các quan Thượng thư thời Hậu Lê còn tại chức. Dãy ao này do một thầy địa lý người Tàu phản lại làng lấy đất. Vì đã làm “đứt long mạch” nên làng “không phát quan” nữa. Sau khi nghe lời ông Cú Đẹn, lấp dãy ao, đến thế kỷ 19 làng lại có người đỗ Phó bảng đó là cụ Lê Doãn Nhã (1837 - 1888).
Còn tại núi Bồ Sơn tức động Tù Và ở phía Nam xã Công Thành, ông Cú Đẹn đã đi qua nhiều lần và để lại nhiều giai thoại. Có lần trèo lên đỉnh núi, nhìn thấy một điểm “đất hàm rồng” ở khu rừng Hưng Gia, dưới chân động Tù Và, ông có đọc câu:
Từ trên cái động Chết Chương
Nhìn xuống địa giới đế vương đang ngồi
Hưng Gia đây có một ngôi
Ai mà táng được mấy đời quận công.
Nhưng cho đến nay cũng chưa có họ nào tìm được “huyệt đế vương” đó nằm ở chỗ nào, mặc dầu đã có nhiều người đưa mộ ông cha mình vào đặt ở khu vực này. Một vị trí nữa cũng ở vùng Tây Bắc động Tù Và đã được ông xác định qua câu sau và cũng chưa ai tìm được:
Nhìn từ mái động xiên xiên
Ai mà đặt được thì con tiên cháu rồng.
Cũng ở phía Bắc động Tù Và, nay có Quốc lộ 7 chạy qua, có một vùng đất gọi là Cồn Son, nằm ở phía Tây Rộc Vẹo các thầy địa lý nhiều đời vẫn đồn là “đất tốt”. Có người hỏi thì ông trả lời là:
Ông Tù Và chưa dậy
Chùa và chụm đang nằm
Đừng có vội mà lầm
Đất Cồn Son chưa kết.
Nghĩa là đền Thượng ở trên đỉnh động Tù Và và đền Hạ ở dưới chân động vẫn còn ở đó và hàng tháng, người dân vẫn thường đến hương khói thì vùng đất Cồn Son vẫn “chưa kết”. Tuy nhiên, do được lưu truyền lại, nhân dân các làng Đồng Hiền, Quỳnh Khôi, Mỹ Khánh ở gần đó vẫn chọn vùng đất Cồn Son này làm nghĩa địa và hiện nay vẫn có rất nhiều ngôi mộ đang đặt tại đây.
Là thầy địa lý nổi tiếng, ông Cú Đẹn được mời đi nhiều nơi. Một lần ông đi lên Đô Lương lấy đất đặt mộ tổ cho họ Nguyễn Cảnh nay thuộc xã Tràng Sơn. Họ này về sau đã phát quan và kéo dài nhiều đời. Xong việc, ông đi vào Thanh Chương, trên đường đi trời nắng to, ông phải nghỉ lại dưới bóng mấy cây cao. Thấy người xấu xí, không sạch sẽ lại ăn mặc lôi thôi, bọn trẻ con nghịch đã hái lá cây ngải đưa đến cho ông nằm. Sau đó ông bị ngứa khắp người và lăn ra gãi, bọn trẻ cười bỏ đi. Nhưng một thời gian sau, có một người phụ nữ đã cao tuổi đi qua, thấy ông khổ sở, kêu van liền lấy áo chà xát cho ông một hồi lâu. Cảm động trước việc làm của người phụ nữ, ông xin về thăm nhà. Bà này có hai người con nhưng chồng đã mất và mẹ con đã đối xử với ông rất tử tế. Qua những câu chuyện họ biết được ông là thầy địa lý. Đến mấy ngày sau ông bảo: Mẹ con bà hãy cất mộ ông về đây, tôi tìm cho một vạt đất. Bà bàn với mấy người trong họ cất về nhưng hai lần đến giờ, ông đều ngủ không chịu dậy. Đến lần thứ ba, một người trong họ nói: Mẹ con bà bị hắn lừa rồi và họ đã cười nói rồi bỏ ra về. Chờ có thế, ông bảo bà chủ: Đi nhiều người không tiện, khi mộ phát lộ ra, họ sẽ đào mộ và thay tiểu khác vào. Rồi ông bảo người con trai cùng ông vác mai thuổng, mang tiểu đi lên núi Ngàn Hống và hai người đã bí mật đi sâu vào rừng tìm được nơi đất tốt đặt mộ. Ông còn dặn khi nào lên khấn cha thì cứ đứng ngoài này mà khấn, đừng vào trong sợ khái (hổ) bắt, nhưng thực ra là ông sợ lộ ngôi mộ. Từ đó gia đình này làm ăn phát đạt, người con trai học giỏi làm quan to và phát triển đến nhiều đời sau. Bữa đó khi làm xong, về nhà ông có đọc câu:
Bao giờ Ngàn Hống hết cây,
Sông Lường hết nước họ này hết quan.
Câu này đã được ghi chép trong nhiều sách vở và truyền tụng rộng rãi ở nhiều xã thuộc huyện Thanh Chương.
Mặc dầu phải đi lại nhiều nơi nhưng cũng có khi ông về nhà. Có lần vừa về, người anh bảo: Chú đi làm thầy địa lý giúp thiên hạ nhiều sao không tìm nơi để táng mộ cha? Thì ngày kia ta sẽ đưa mộ cha đi. Đến ngày đó người anh cùng vài người bạn đưa tiểu đựng hài cốt cha đi theo ông. Mấy người lên đến động Hàm Rồng (một đồi không cao lắm nay thuộc xã Lý Thành), ông bảo mấy người đứng chờ dưới bờ khe khô và dặn họ: Khi nào thấy “rồng mở mắt” thì thả tiểu xuống. Xong một mình ông đi thẳng lên đỉnh đồi. Sau một thời gian làm động tác vừa dậm chân xuống vừa khấn, đất nứt nẻ mở ra một hố sâu. Nhưng mấy người đứng phía dưới chân núi thấy hố quá sâu lại có cả nước và còn có nhiều con đỉa bơi đi bơi lại, sợ mất không dám ném tiểu, cố chờ ông xuống. Khi ông trở lại thì hố sâu đã khép kín, ông trách mọi người và than rằng: Cả đời làm thầy địa lý mà không tìm được mảnh đất táng cha. Trở về thôi, sáu chục năm mới có một cơ hội này! Và họ đã mang tiểu về chôn cất tại vị trí cũ.
Là người có cá tính kỳ dị nhưng ông Cú Đẹn cũng đã làm được nhiều chuyện “kỳ diệu”, giúp được nhiều địa phương, nhiều dòng họ và được nhân dân ngưỡng mộ. Theo truyền lại thì ông mất tại vùng cầu Khe Ngọng, sau này có Quốc lộ số 7 chạy qua nay thuộc xã Mỹ Thành. Nhân dân địa phương đã chôn cất ông tử tế bên bờ rừng tại một vùng đồi thấp phía Đông Nam khe. Sau này người ta đã lập đền thờ ông cũng ở bên bờ khe Ngọng và gọi là đền thờ thần Áo Đen (loại áo ông thường mặc). Hàng năm đến ngày giỗ ông, dân làng làm một cỗ xôi gà mang ra cúng tại đền. Đền này cũng linh thiêng và mới bị phá trong những năm chiến tranh chống Mỹ.
Lời bàn: Trong Địa lý phong thủy Việt Nam, người ta đã nói nhiều về thầy địa lý Tả Ao xuất hiện ở thế kỷ 15-16, Tả Ao đã vi hành nhiều tỉnh thành và để lại nhiều giai thoại trong dân gian, vì sự hiểu biết về môn địa lý của người Việt Nam có giới hạn nên người ta coi là ông tổ của ngành này ở Việt Nam. Nhưng thầy địa lý Cú Đẹn xuất hiện sau thầy Tả Ao hàng trăm năm nhưng chỉ có vùng Nghệ An dân mới biết, vì ông chỉ sinh sống ở Nghệ An và hành nghề địa lý ở đây. Qua giai thoại của người dân, ta đánh giá đây là người thầy địa lý có năng lực thực sự, có khả năng về địa lý phong thủy, không phải ai có tài liệu về môn học này cũng có thể hiểu và thực hành được môn này, bởi nó cần một giác quan thiên bẩm. Kẻ có tài thường hay có quan điểm khác người cho nên tính tình cổ quái là điều dễ hiểu. Chỉ tiếc rằng thời xưa những thầy địa lý như Tả Ao hay ông Cú Đẹn tuy có năng lực vậy nhưng ở xã hội Việt Nam dân nghèo ăn không đủ no lấy tiền đâu mà hậu đãi, thành ra họ có cuộc sống vẫn nghèo khổ. Mà tầng lớp vua quan tại Việt Nam do đặc tính bản địa hay ghen ghét kẻ Tài trong dân gian nên không mấy khi dùng đến, ấy là một thiệt thòi cho đất nước này.
Cũng giống như thầy Tả Ao, ông Cú Đẹn tuy có khả năng địa lý tốt, làm giúp cho họ này họ kia khá lên, cho xóm làng thịnh vượng nhưng lại bỏ quên mồ mả cha ông của dòng họ mình, không dùng tài năng địa lý để thay đổi vận mệnh của mình và người thân, sau mới giúp người trong thiên hạ, ta cho đó là một thất bại của người thầy phong thủy . Chưa xứng đáng để trở thành một danh sư phong thủy thực thụ. Họ vẫn chỉ là các rô bốt trời ban xuống để trả nghiệp mà họ đã nợ và cũng chứng minh một điều khoa địa lý phong thủy có hiệu quả thực sự cho người dân thấy.
Ngày nay rất nhiều người hỏi đặt mộ yêu cầu chỉ muốn phát ngay và luôn, thì xưa cổ nhân như thầy Cú Đẹn từng nói người dân phải vài chục năm sau mới có ứng nghiệm. Đâu có dễ gì một ngôi mộ đặt vào kết phát mà con cháu một phát bước lên mây vào chốn sân rồng, phải qua thời kỳ chuyển hóa, âm phần dẫn dắt từ từ tích lũy từ thấp đến cao, hãy ngẫm xưa nay từ bậc minh vương vua chúa đến bậc quân thần ban đầu đều phải trải qua hiểm cảnh cay đắng mới có được. Nên những kẻ ham lợi chỉ mong sớm có được thì đã là những kẻ có lòng dạ không ngay chính. Làm mộ cho những kẻ đó chỉ giúp họ sau này đào phá trăm họ mà thôi.