Lễ chiêu hồn nhập cốt là lễ dành cho những người chết mất tích, những người bị mất xác hoặc sau khi chôn gửi bị thất lạc hài cốt, là một ứng dụng rất hay trong khoa địa lý phong thuỷ khi phần xác đã tan hết hay thất lạc, hay đơn giản phần xác còn nhưng do một lý do nào đó không thể chuyển phần xác đi thi khoa lễ này là một phương pháp cứu cánh cho nhân gian. Bởi nguyên thần người mất luôn tồn tại, nếu biết cách thu phép nguyên thần kết quả vẫn đạt được như ý. Lễ này do gia đình gia chủ đã thống nhất ý nguyện mới làm được. Tiểu nhỏ trong quan ngoài quách. Là nhà để hồn về. Thân nhân làm hình nhân tro cốt với các hình thức cầu kỳ hay đơn giản do pháp sư từng vùng miền khác nhau và làm lễ an táng theo như lễ an táng thông thường.
Hình nhân (Tro cốt) được đẽo gọt hoặc nhào nặn thô sơ, có đầu mình chân tay là được. Kích thước của hình nhân khoảng 30-40 cm chiều dài. Thi hài tượng trưng đó cũng được khâm liệm, đưa vào tiểu sành. Trên hình nhân (tro cốt) có phủ lên linh vị viết trên giấy kim tuyến, nội dung giống như linh vị đặt ở bàn thờ. Trước khi làm lễ an táng có mời Pháp sư làm lễ để vong hồn nhập vào hình nhân (tro cốt).
1. Chuẩn bị lễ
Những thứ để tạo hình hài có cách sau:
Cách 1: Vỏ một quả dừa khô làm đầu có 3 lỗ (vỏ một trái dừa khô để làm đầu người. Phía đầu trái dừa khô có 3 lỗ tạo thành hình tam giác đều. Người ta vẽ khoanh 2 lỗ làm mắt, đầu chóp nhọn vỏ dừa làm mũi, còn một lỗ dưới vẽ miệng nên trông giống như một cái đầu người. Tiếp đó, pháp sư cầm vỏ quả dừa hơ lên khói trầm và đọc thần chú), các cành thân dâu làm xương ( lấy cây dâu cô đơn, không đẻ nhánh được là tốt nhất, cây dâu, con tằm là biểu tượng của cuộc sống thiên biến vạn hóa, sự xoay vần của đất trời. Con tằm ăn dâu nhả ra tơ, đan thành kén, đẻ ra nhộng, sinh ra bướm mới hóa con tằm), hoặc cành thân cây núc nác (cây hoàng bá nam) làm xương. Vị pháp sư vót từng cành cây dâu tằm hoặc cành núc núc thành những lóng nhỏ, tương ứng với xương sống, xương cánh tay, chân... của hình nhân. Lấy những cành nhỏ hơn, vót kỹ và đặt vào làm những dẻ xương sườn. Đây là cách thức nghi lễ miền bắc hay sử dụng. Tổng chiều dài 35- 40cm một hình nhân.
Cách 2: Dùng cành dâu làm xương như trên, lấy đất sét nhào nhuyễn trộn bông y tế (hoặc giấy bản) để kết dính với nhau không bị nứt, nặn nặn thành hình dung tướng mạo của người chết, được lồng vào hết những thân cây dâu tằm giả cốt. đất ngã ba đượng mang về trộn với trứng gà so rồi làm tim, phổi hoặc dùng đất , tro than của cây Xoan (sầu đâu) đặt vào chỗ gan. Chỉ tơ làm ruột và gân. Sau đó dùng tăm cây dâu vẽ mắt, mũi, miệng, tóc. So với cách thứ nhất, cách thứ 2 này hình nhân bằng đất sét với thời gian sẽ bền lâu hơn rất nhiều và giống hình hài hơn. (miền Trung hay làm)
Cách 3: Lấy tro nếp hoặc tro thường sạch, mới cho vào đầy tiểu sành nhỏ tượng trưng như toàn thân xương cốt người mất được hỏa thiêu.
Cách 4 (cách tốt nhất): Lấy đất sét sạch tại vườn nhà, nền nhà gia chủ khoảng 2,6-3 kg. Vo tròn lại như dáng người
Tổng luận 4 cách tạo hình hài: Suy cho cùng con người chết lại trở về với đất, xương cốt, tro cốt đều hòa vào lòng đất. Mọi hình tướng đều tan hết chỉ còn phần hồn kết tinh lại. Do đó đâu nhất thiết phải cầu kỳ tìm kiếm những thứ đất lại tạo nặn lại hình hài, rồi sau lại tan rã hoai mục mà cốt lại không sạch sẽ. Cho nên làm theo cách thứ 4 là tốt nhất. Nếu làm đúng phép chiêu hồn nhập xác thì phần mộ vẫn linh ứng kết phát như thường.
2. Trình tự lễ
– Lễ thức mời Phật , địa tạng vương bồ tát.... tuỳ theo đức tin gia chủ
Mâm lễ này gồm xôi, chè, hoa, cháo, nước thanh thủy…
- Mâm lễ thứ hai để cúng tổ tiên: Lễ mặn chuẩn bị gồm 1 con gà hoặc thịt lợn, rượu, bánh chưng (xôi), nến sáp, gạo, muối, cháo, cơm canh, bánh trái, trứng gà 5 quả, kim ngân, mã mũ.
Sau khi lập đàn xong, pháp sư làm lễ:
Nội dung lời khấn tóm tắt như sau: “Hôm nay ngày lành tháng tốt, xin mời:
- Nếu nhà theo đạo Phật thì khấn Đức Phật trời, Đức địa tạng vương bồ tát, thần hoàng bản thổ, thân linh thổ địa, bà chúa đất, thần ngự huyệt đường… ngự trên cao về hương thảo và dự lễ chiêu hồn, xin dâng Đức Phật trời, Đức địa tạng vương bồ tát, các chư vị linh thần trà nước, trầu cau, rượu, oản, kim ngân…. Xưa kia có người tên là….. ở tại thôn.. tên là, tuổi, con ông… con bà… bị chết tại nơi (nêu trường hợp chết, chết sông, chết bụi, chết đường) nay không thể tìm thấy. Hôm nay, con cháu trong họ, người thân trong gia đình mời pháp sư về làm lễ. Nay pháp sư làm phép chiêu hồn cho người có tên tuổi là …. Chết ở nơi… hồn lưu lạc tại nơi….. hãy mau mau 3 hồn 7 vía (chín vía) để gửi hồn vào tro cốt mới. Vậy xin Phật trời, Địa tạng vương bồ tát, các chư vị linh thần… phù hộ và che chở cho pháp sư làm lễ…”.
- Nếu nhà không theo đạo Phật, theo đạo Mẫu, đạo giáo thì khấn thỉnh Đức thượng đế, tam vị thánh tổ (thái thượng lão quân, cửu thiên huyền nữ, huyền thiên trấn vũ), thần tiên Việt Nam chứng đàn , thần hoàng bản thổ, thần linh thổ địa, bà chúa đất… ngự trên cao về hương thảo và dự lễ chiêu hồn, xin dâng Đức thượng đế, tam vị thánh tổ , thần tiên Việt Nam chứng đàn , thần hoàng bản thổ, thần linh thổ địa, bà chúa đất, các chư vị linh thần trà nước, trầu cau, rượu, oản, kim ngân, mã lễ…. Xưa kia có người tên là...
– Nghi thức tẩy uế thanh tịnh cho đàn pháp được sạch sẽ và phần xác cho tro cốt được sạch sẽ.
– Nghi thức khấn Phật trời, thần tiên, đức thánh, linh thần
– Nghi thức tạo hình hài: ví dụ đất sét nặn bọc vải đỏ, trải khăn sạch ra đất, trên che lọng, đổ 2 thúng thóc to ra vùi hình nhân vào trong để làm hình thức nhập hồn
Tạo hình hài xong, pháp sư làm nghi thức gọi và nhập hồn, mời về nhập hồn vào xác cho người chết. Đến đây, nghi thức nhập hồn cho người chết đã xong.
Dân gian thường đốt đuốc hoặc bó hương gọi hồn:
Hồn ơi hồn hỡi! Hồn ông (bà) ……… hãy về nhập cốt. Đây chỉ gọi hồn ông (bà) ………….., nguyên quán tại ………………., Việt Nam Quốc. Hồn hỡi hồn ơi! Hồn từ (nơi chết chôn cất hoặc đang gửi hồn tại) địa chỉ ………………… về nhập mộ cốt, xin phép thần linh tại nơi đó cho triệu thỉnh linh hồn là ông (bà) …………, hồn ơi hãy nhập. Linh hồn linh thiêng dòng tộc họ ……, Nay dương gian con cháu trong họ ………….. thương nhớ nhiều năm, nhục đâu cốt đâu. Mau về quê cùng quán. Nhập vào nhập vào. Hồn ơi hồn hỡi! Khắc nhập! Khắc nhập!”
Hô gọi: “Ba hồn bảy vía (chín vía) ông (bà): ………… là nội tộc đời thứ ……………… con cháu họ ………..làng ………………. về nhập mộ cốt”. 3 lần
Ông (bà) ……….. về nhận mộ nhập cốt. Cốt của ông ( bà)….làm từ tro lúa gạo , đất quê hương... Người mất (cụ)……….. về ở với cha ông tổ tiên. Mộ này là nhà của Cụ. Nhà thờ họ là nơi con cháu các chi trong họ cúng bái phụng thờ và giao lưu với Cụ.
3. Nghi thức tang ma “chiêu hồn nhập cốt”.
Người chết được tạo hình hài và lễ nhập hồn xong coi như là một thi hài nên cũng làm đầy đủ các thủ tục khâm liệm. Trước hết là thủ tục tắm rửa. Sau đó hình hài người chết được mặc quần áo và rồi lấy vải trắng phủ lên.
- Cúng thí thực mời tổ tiên
- Đến đây, nghi thức tạo hình hài và khâm liệm cho người chết đã xong. “Thi hài” sẽ được đem đi chôn .
- Lễ tạ long mạch cuộc đất tại địa điểm chôn cất
Dưới đây là bài sám văn làm lễ chiêu hồn nhập cốt cho một chân linh bị thất lạc mộ về nơi mộ mới:
Lời khấn: Hôm nay ngày lành tháng tốt, xin thỉnh Đức Phật trời, Đức địa tạng vương bồ tát, thần hoàng bản thổ, thần linh thổ địa, bà chúa đất cai quản nơi đây… ngự trên cao về hương thảo và dự lễ chiêu hồn, xin dâng Đức Phật trời, Đức địa tạng vương bồ tát các chư vị linh thần trà nước, trầu cau, rượu, oản, kim ngân…. Xưa kia có người tên là ......quê quán tại ......, Việt Nam Quốc, con ông ............., con bà ................ sống tại làng, dòng họ nội tộc họ ......, trong lúc chạy loạn tại .............. mắc bệnh mất tại đây, được chôn cất khu vực .................. Việt Nam, do thất lạc mộ phần, con cháu từng gửi linh hồn vào chùa .............. Hôm nay, người thân trong gia đình mời pháp sư về làm lễ. Nay pháp sư làm phép chiêu hồn cho người có tên tuổi là ................... mất ngày ................, hồn đang ngự tại chùa .................., con cháu đã đến lễ xin nơi Phật đài cho Cụ về quê hương chốn Tổ. Vậy hãy mau mau 3 hồn bảy vía để gửi hồn vào phần cốt mới. Xin Phật trời, Địa tạng vương bồ tát, các chư vị linh thần… phù hộ và che chở cho pháp sư làm lễ chiêu hồn này…”.
Hồn ơi hồn hỡi! Linh hồn người mất...... hãy về nhập cốt. Đây chỉ gọi hồn người mất là..................., nguyên quán ......................................, Việt Nam Quốc. Hồn hỡi hồn ơi! Hồn từ địa chỉ chùa .......................... về nhập mộ cốt hoặc Hồn vẫn còn tại chùa ............................., Việt Nam xin phép thần linh tại nơi đó cho triệu thỉnh linh hồn là ......................., hồn ơi hãy nhập. Linh hồn linh thiêng dòng tộc họ .................., Nay dương gian con cháu trong họ ...................... thương nhớ nhiều năm, nhục đâu cốt đâu. Mau về quê cùng quán. Nhập vào nhập vào. Hồn ơi hồn hỡi! Khắc nhập! Khắc nhập!”
Làm phép hô gọi: “Ba hồn bảy vía ........................ là nội tộc Cụ đời ......................... con cháu họ................. làng .................................... từ địa chỉ chùa ........................ về nhập mộ cốt hoặc Hồn vẫn còn tại chùa ..............., Việt Nam về nhận mộ nhập cốt ”.( 3 lần)
Cụ ........................ về nhận mộ nhập cốt. Cốt của ............... làm từ tinh tuý của đất .... Cụ ............. về đây với cha ông tổ tiên. Mộ này là nhà của Cụ. Nhà thờ họ .......là nơi con cháu các chi trong họ cúng bái phụng thờ và giao lưu với Cụ.
Sám văn CHIÊU HỒN (cho người mất)
Nam mô A Di Đà Phật. (3 lần)
Hôm nay, ngày … tháng … năm …
Triệu thỉnh chân linh cụ (họ tên) quê quán thôn ..., xã ...., huyện ...., tỉnh ...., Việt Nam quốc. Hiện phần xác còn tại nghĩa trang khu vực nào....., Việt Nam, phần hồn được con cháu đã gửi tại ngôi chùa ........
Hỡi! Hỡi Cụ ............ ơi!
Nhớ thuở xưa non sông gian khó,
Lúc đói khổ ngõ hầu tang thương.
Chiến tranh chạy loạn đôi đường.
Không may đổ bệnh, ở nơi quê người bao năm
Để con cháu mỏi mong ngóng chờ,
Lúc thời bình cháu con có trở về nơi ấy
Mong tìm lại Cụ đưa thân về nhà.
Tiếc rằng cảnh vật đổi thay.
Không còn dấu vết, người nay khó tìm.
Cháu con đành gửi Cụ nơi Chùa
Để hồn Cụ được nương nhờ cõi âm.
Phật Đài ơi thanh cao bao xiết
Bồ đề nơi đó có nào thảnh thơi
Thị phi điều xấu để đời.
Đó là lỗi tại sư thầy không tu
Cụ hiển linh xin về chốn cũ
Cháu con lại xin Cụ về nơi chốn Tổ.
Để cụ luôn có chốn đi về.
Nay cháu con lập đàn cầu Pháp
Đã đến xin tại cửa Phật đài
Mong Cụ về lại chốn quê hương
Có Cụ bà bao năm xa cách
Cùng cháu con được sống vui vầy.
Nếu Cụ đã quen thiền nơi cửa Phật
Nơi quê hương Cụ đã có Chùa rồi.
Cụ có thể ghé thăm ngày ngày
Nghe kinh Phật để cõi lòng siêu thoát.
Hôm nay cờ lệnh trống dồn.
Đón hồn Cụ từ nơi cửa Phật.
Xin Phật đài, các vị linh thần
Tại .....................
Cho Hồn Cụ về đây thụ lễ.
Cháu con đây đang đón hồn về
Nghe pháp sư thỉnh pháp Văn kinh.
Hoa thơm quả ngọt khói hương ngạt ngào.
Thừa lộc Phật phẩm đào, oản trắng,
Nải chuối vàng, sánh nặng tình thân.
Cháu con tháng tháng tuần rằm,
Chư hồn lễ Phật, cháu con cúng cầu.
Hỡi! Hồn Cụ ............... bấy lâu xa vắng,
Mau về đây nhập cốt … lễ Phật nghe Kinh.
Về với xóm, làng ......... yêu dấu, cùng gia đình con cháu.
Độ trì phù hộ con cháu Cụ!
Về đây, đất này con cháu ngắm nhìn.
Cuộc đất quê hương đẹp sao phất bút.
Có sông xưa lượn khúc nhiều vòng
Thủy sinh khí tụ triều nơi minh đường.
Đất lành bao năm vẫn còn không đó
Đón Cụ về nơi huyệt trời Ban .
Nhờ ơn phúc khí tổ tiên truyền đời.
Dẫu cho vật đổi sao dời.
Vẫn được cuộc vận muôn đời cháu con.
Học hành thi cử hoạch tài.
Bảng vàng kia đó muôn thời đứng tên.
Dẫu có thể chẳng giàu như thiên hạ.
Sống thanh nhàn khá giả một phương.
Hưởng danh vang khắp cả mọi miền.
Tỏa đi khắp trời năm châu bốn biển.
Hỡi! Linh hồn ................. ơi!
Chắc linh hồn đã về đây nhập cốt,
Dưới suối vàng đang hoan hỷ đàn ca.
Nam mô Đức Phật Thế Tôn
Tiếp dẫn linh hồn về tới Tây Phương.
Đọc kinh vãng sinh, dược sư, bát nhã.