THƠ MẠNH HÀ
HỘI ĐÌNH
Hội đình mồng bốn tháng hai
Tôi về xem hội không ai đi cùng
Nhớ ngày em bỏ việc đồng
Quần bò áo ngắn, xắc hồng theo sau.
Ngỡ mình rồi bén duyên nhau
Ngờ đâu trầu chẳng thắm cau vườn nhà
Tôi đi công tác nơi xa.
Hội đình ngày ấy sao mà khó quên
Giờ về đồng đã cấy chiêm
Lúa thời con gái đang lên bời bời
Tôi về nào gặp em ơi
Em sang bến khác, thành người, người ta
Vào đình, vào lại đi ra
Nén nhang tôi thắp ngỡ là như không
Hội đình người đến xem đông
Còn tôi mơ mộng sống trong bóng hình
Biết giờ em chẳng yêu mình
Cứ nao nao nhớ hội đình ngày xưa
BÀI THƠ THÁNG MƯỜI
Bài thơ tôi viết tháng mười
Có em, có mẹ, có người làng quê
Mẹ xưa du kích phá lề
Gài mìn lật đổ đoàn xe qua đường
Đánh đồn diệt bọn Lê Dương
Một thời rạng rỡ những gương anh hùng
Còn em lội suối băng rừng
Làm cọc tiêu đứng ở lưng chừng đèo
Thông đường xe chuyển hàng mau
Đạn bom giặc Mỹ em đâu sờn lòng
Nghe tin tiền tuyến lập công
Em vui thoả nỗi ước mong từng ngày
Nhớ lời mẹ lúc chia tay
Máu bao người thấm đất này con ơi!
Mong con khôn lớn lên người
Noi gương tiếp bước tháng mười quê hương
Sáu mươi năm vẫn kiên cường
Thuỷ Nguyên quật khởi, nay vươn cao mình.
HÁT DÂN CA
Em có bao giờ hát khúc dân ca
Câu quan họ sao mà thương đến thế
Miếng trầu cay mời qua bao thế hệ
Đến hôm nay vẫn giữ được sắc màu
Anh sinh ra từ miếng đất vùng cao
Tiếng khèn lá gụ người tình đêm trước
Câu hát then, múa xoè, điệu lượn
Chợ kết đôi náo nức một vùng đồi
Từ buổi ấu thơ mẹ dạy anh rồi
Câu hát nào là câu ca Kinh Bắc
Cha dạy anh những ngón tay xếp đặt
Nghe tiếng khèn người quên lối mình đi
Em có về nơi đỏ rực Kinh Kỳ
Đừng lãng quên câu dân ca em nhé
Cha mẹ chúng mình một thời trai trẻ
Đã hát giao duyên qua mấy nhịp cầu