>Trang 3

GHI CHÉP CỦA LÊ XUÂN

Gặp người thợ đúc tượng đài

anh hùng liệt sỹ Bắc Sơn – Hà Nội

Chuyện đúc tượng đài ... và còn......dài lắm

Mỗi lần lên Thủ Đô Hà Nội, tôi đều đến chiêm ngưỡng tượng đài anh hùng liệt sỹ Bắc Sơn – Hà Nội. Không hiểu vì sao tượng đài có sức cuốn hút tôi như thế . Có phải là ý nghĩa của nó hay vì vẻ đẹp uy nghi về hình khối hay vẻ đẹp mĩ lệ của những hoa văn, hoạ tiết hay vẻ đẹp tài hoa của nghệ sỹ sáng tạo và nghệ nhân đúc đồng đã làm nên tác phẩm mỹ thuạt tuyệt vời này .

Đài cao 7,2 m, được xây dựng và lắp ghép bằng những phiến đồng .Tổng khối lượng đồng đúc lên đến 32 tấn. Đài cao sừng sững nhìn về phía quảng trường Ba Đình lịch sử, gợi niềm tự hào chiến thắng về những anh hùng, liệt sỹ đã hy sinh – Tiền thân của đội Việt nam tuyên truyền giải phóng quân – Quân đội Việt nam anh hùng .

Tháng bảy năm nay, tôi có dịp lang thang trong làng nghề đúc Phương Mĩ xã Mĩ Đồng. May mắn, vô tình, tôi được gặp người thợ đúc ttượng đài ấy. Đó là cụ Nguyễn Văn Soái. Cụ năm nay tám mốt tuổi.Tuy đã Già nhưng cụ còn rất nhanh nhẹn, trí nhớ tốt, đặc biệt giọng nói của cụ rất khúc chiết, rõ ràng, mạch lạc , cuốn hút người nghe. Cho đến bây giờ, tình yêu nghề của cụ tôi cảm thấy như còn cháy hừng hực như ngọn lửa lò gang. Cụ kể lại:

Cách đây 17 năm, một buổi sáng đẹp trời, bỗng nhiên có một cái xe con vào nhà mình (Ai cũng ngạc nhiên không hiểu vì sao có chuyện lạ thế). Có ba bốn ông xuống xe . Mọi người trong nhà đều ra chào khách.Tôi mời họ vào nhà chơi uống nước và hỏi các bác vào chơi hay có chuyện gì. Họ tự giới thiệu : Tôi là Quý ,viện trưởng viện luyện kim màu Việt Nam. Còn đây là anh em cán bộ của viện .Thưa bác chuyện là thế này: Viện có nhận làm một công trình đó là đúc đồng làm tượng dài anh hùng Liệt sỹ Bắc Sơn – Hà Nội. Chúng tôi đã mời đến sáu cơ sở đúc đồng nhưng không thành công. Nghe tin dưới này các bác có khả năng làm được, anh em trong viện về nhờ các bác giúp. Anh cán bộ đưa cho cụ Soái xem bản vẽ và mẫu thiết kế thu nhỏ. Đó là công việc phải đúc những mảnh đồng có chiều dài lớn nhất là 2,2m, chiều rộng đến 0,5 m. Sau khi nghe anh cán bộ trình bày xong, cụ bảo: Nếu làm theo công nghệ này thì không bao giờ đúc được. Cán bộ viện hỏi : Thế thì làm thế nào hở bác ?

- Đổ ngược .

- Bác nói thế chúng em không hiểu ?.

Vợ Bác viện trưởng nói đùa :

- Nhà em bị bệnh rối loạn tiêu hoá đấy, khổ lắm, lo nghĩ mất cả ăn, cả ngủ. Bác làm thế nào, bác nói để nhà em yên tâm. Cụ Soái cười : Các bác cứ yên trí, tôi nói làm được là làm được, hông lo.

Hợp đồng số: ...ngày ...tháng ...năm... đã được kí với giá 3000 đ / một kg thành phẩm.

Cụ tập hợp con cháu lại và lên đường về xưởng của viện luyện kim màu làm việc.

Tôi tò mò :

- Đúc ngược là đúc thế nào ạ ?

- Khổ lắm ! Có gì đâu.Tấm đồng dài đến hơn hai mét, họ làm một lỗ rót đồng thì làm sao đồng vào cho được. Chảy đến nửa chừng đã đông cứng lại rồi còn đâu mà chảy. Mỗi tấm tôi làm hai lỗ để rót nước đồng. Một lỗ ở giữa, một lỗ ở trên cùng. Khuôn đặt nghiêng 25 độ. Đầu tiên rót vào lỗ giữa. Gần đầy thì chuẩn bị đổ lỗ trên. Khi đồng chảy gần đầy phần khuôn dưới thì bắt đầu rót vào khuôn trên bịt lỗ khuôn dưới lại .

Còn nữa, cát làm khuôn bình thường thì không được đâu. Tôi dùng than đã qua lửa, nghiền bột, trộn với cát cho nó thoát khí, nước đồng đổ vào phải êm re mới được chứ. Còn sôi sùng sục có mà hỏng bét .

Sau khi đổ xong mẻ thứ nhất, mọi người đều ồ lên "Dễ thế mà không ai nghĩ ra” - “Làm nhiều thì quen thôi có gì đâu”.

Cụ Soái cùng mấy người thợ cật lực đổ mồ hôi vài tháng mới đúc xong ba hai tấn đồng ấy .

Ngày khánh thành, tác giả hoạ sỹ Lê Hiệp ôm chặt người thợ đúc già, xúc động : Cảm ơn bác đã giúp chúng cháu cho tác phẩm ra đời. Mọi người chúc tụng sự thành công trong niềm vui vô hạn .

Thế rồi câu chuyện về nghề đúc cứ miên man mãi...

Người thợ đúc gang đầu tiên ở làng Phương Mĩ

Cụ Soái chậm rãi : Phương Mĩ là một làng nhỏ của xã Mĩ Đồng, huyện Thuỷ Nguyên, nằm khiêm tốn bên cạnh đường 352. Phía đông giáp xã Đông sơn, phía bắc giáp xã Kênh giang, phía tây, nam giáp Cao Nhân, Kiền Bái. Từ xa xưa, người nông dân Phương Mĩ đã có đầu óc cơ khí, thích sáng tạo kĩ thuật .

Lúc đầu làng chưa có nghề đúc mà chỉ có nghề rèn. Nghe các cụ kể lại rằng: Ba cha con cụ Đào phúc Ngư nhà tận Nam Định, gánh đồ nghề rèn đến vùng sông Moi (Xã An Hồng, huyện An Dương bây giờ) ngụ cư, làm nghề và sinh sống ở đó. Người con thứ là Đào Văn Đích sang làng Phương Mĩ làm rèn, lấy vợ và ở luôn lại đây. ông truyền nghề cho thanh niên trong làng và nghề rèn Phương Mĩ có từ ngày ấy.Trong số những thợ rèn giỏi có tiếng trong làng có cụ Nguyễn Văn Cáu. Cụ Cáu có dáng người cao to, nhanh nhẹn, tháo vát. Khi đã thành búa trong, cụ Cáu cùng với anh phó búa ngoài gồng gánh đồ nghề đi tới các chợ phiên để làm rèn kiếm ăn. Lúc ấy chủ yếu là đánh con dao, cái liềm, cái cuốc phục vụ nhà nông. Một hôm, ở chợ Yên Trì - Quảng Yên, Phó Cáu nhìn thấy anh thợ người Hoa Kiều nối lưỡi cày gang.Thấy lạ, anh ra xem họ làm như thế nào. Anh quan sát thấy: Lưỡi cày bị mòn, người ta đem nối lại. Phương pháp nối là đắp một khuôn đất vào mũi cày đến qua phần lỗ rỗng phía sau một chút. Lấy khuôn ra phơi khô. Họ dùng búa đập gãy nốt phần mũi cày đã mòn rồi lắp khuôn vào, dựng mũi cày theo chiều cắm mũi xuống đất rồi đổ nước gang vào cái lỗ phía sau lưỡi cày ấy. Lưỡi cày được nối theo kiểu này rất chắc chắn mà giá lại rẻ hơn so với mua lưỡi cày mới .

Học được phương pháp nối mũi cày, phó Cáu về nhà mở lò nối lưỡi cày đem bán. Lưỡi cày hỏng được chè chai, đồng nát nhặt nhạnh, mua đổi từ khắp các nơi đem về tha hồ nối. Chính việc nối mũi cày đã mở đầu cho nghề đúc của cụ .

Ngày ấy mũi cày nhập từ Trung Quốc, trong khi mũi cày gang hỏng rất nhiều, cụ Cáu và một số thợ rèn bèn bàn nhau đúc lưỡi cày gang mới theo mẫu của Trung Quốc. Cụ Hậu Khì, Cụ Thiết, Cụ Thiếp mở lò nấu đúc thử song không thành. Sản phẩm làm ra sứt mẻ, bục, thủng, không dùng được. Họ Không tìm được nguyên nhân của sự thất bại ấy. Cụ Cáu mày mò, suy nghĩ mãi, cuối cùng dựa vào kinh nghiệm nâú gang nối lưỡi cày, cụ đã tìm ra nguyên nhân thất bại .

Nước gang không lỏng là do bễ không cung cấp đủ gió, than không đủ nhiệt. Khi rót gang, nước gang sôi sùng sục là do khuôn không thoát khí. Do đó sản phẩm thiếu gang, bị bục, thủng . Để khắc phục, cụ đã dùng rơm băm, trộn với trấu, giã với đất sét cho nhuyễn để làm khuôn đúc. Khi rót nước gang vào, trấu và rơm sẽ cháy, tạo lỗ hổng cho khí thoát ra để nước gang chảy vào khuôn.

Với sự cải tiến ấy, cụ Cáu đã thành công trong nghề đúc gang và làng Phương Mĩ có Nghề đúc gang từ thời kì ấy .

Đến đời thứ hai ,con trai cụ Cáu là cụ Kiểu, nối nghề cha, cụ Kiểu cũng là một tay thợ tài hoa trong nghề đúc làng Phương Mĩ.

Đến Tây cũng phải nể

Chuyện kể rằng : Khoảng năm 1926, Một chủ người Pháp ở Hải Phòng đóng một con tàu hút bùn (Người ta gọi là tàu cuốc). Các chi tiết đã đầy đủ, chỉ có thiếu một quả đối trọng, hình khum khum như con rùa nên người ta gọi là con rùa đối trọng. Con rùa này có khối lượng 1,1 tấn. Chủ người Tây đã nhờ xưởng Ca-rông trong thành Phố đúc song xưởng không dám nhận vì cho rằng không có lò nào nấu được 1,1 tấn gang cả. Chủ Tây bí quá, về Pháp đúc thì xa xôi, không kinh tế. Họ nghe đồn ở làng Phương Mĩ có thợ giỏi bèn tìm đến nhà cụ Kiểu.Sau khi nghe họ nói yêu cầu, cụ Kiểu nhận lời và kí hợp đồng đúc con rùa ấy. Tây về, cụ cho mời hai mươi tư thợ đúc trong làng đến bàn bạc cách làm con rùa đối trọng này. Phương án các cụ đưa ra là : Mỗi mẻ gang của một lò là 50 kg. Cứ 50 kg đúc thành một thỏi theo kích thước thiết kế. Tổng số là 16 thỏi bằng 800 kg. Các thỏi này xếp chồng lên nhau thành một khối. Cuối cùng đặt khuôn đổ nốt 300 kg gang của 6 lò nữa bọc bên ngoài là xong. Cứ ba bễ thổi cho một lò, số bễ huy động là 24 cái. Ngày ấy bễ chỉ là một cây gỗ dài hai mét, khoét rỗng ruột làm xi lanh. Còn pít - tông thì quấn bằng vỏ con nhộng tằm để tạo gió. Ngày đúc con rùa đối trọng đúng là một ngày hội của phường đúc Phương Mĩ .

Quả đối trọng tàu cuốc được đúc thành công trước sự ngạc nhiên của mọi người.Viên chánh sứ tỉnh Kiến An đã về thăm và tặng phường đúc bằng khen.Vua Bảo Đại nghe tin, gửi cho làng một cuốn sách kĩ thuật đúc gang của Pháp xuất bản .

Ngồi nghe cụ Soái kể lại chuyện xưa, chuyện đúc gang ,đúc đồng của ông cha, ôi thực sự xúc động. Hình ảnh người phó rào với đôi quang gánh trên vai, đi hết chợ phiên này sang chợ phiên khác, bỗng chốc biến thành một thợ đúc gang, đúc đồng nổi tiếng để rồi hình thành cả một làng nghề đúc to lớn nhất Việt nam với biết bao sản phẩm từ cái nhỏ nhất là chiếc kiềng ba chân đến cái bếp ga công nghiệp, từ cái bu- li gang nhỏ bằng cái bát ăn cơm đến cái chân vịt tàu thuỷ, những sản phẩm máy móc và dân dụng...có mặt trên thị trường trong nước và thế giới.

Và đặc biệt hơn nữa tượng đài anh hùng liệt sĩ Bắc Sơn- Hà Nội - giá trị văn hoá của những người thợ đúc đồng Phương Mĩ được kết tinh sừng sững đứng đó cùng với thời gian và lịch sử góp phần làm nên vẻ đẹp hùng vĩ của nghìn năm Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội .

Làng nghề Phương Mĩ đang Vào thu. Nắng thu rắc vàng những mái xưởng, nhuộm thắm nụ cười trên gương mặt đẫm mồ hôi người thợ .Tiếng bễ thổi gió vù vù, ngọn lửa hừng hực, tiếng máy phay, máy gọt vo vo hoà thành âm thanh đầy sức sống, âm thanh của cuốc sống mới. Xen lẫn với âm thanh ấy là tiếng loa truyền thanh của làng đang phát bản tin chiều về xây dựng làng quê văn hoá, làng quê công nghiệp trong chương trình nông nghiệp, nông dân và nông thôn của huyện Thuỷ Nguyên thành Phố Hải Phòng.

Tháng 8. 2010

L.X