Dương xỉ có hạt là nhóm cổ nhất của thực vật hạt trần và đã bị tuyệt diệt. Nhiều nhà khoa học cho rằng ngành này là một ngành đa phát sinh, chúng có thể có nguồn gốc từ nhiều nhóm thực vật khác nhau. Cơ quan sinh dưỡng giống với nhiều dương xỉ. Cấu tạo của những dạng nguyên thủy nhất rất đơn giản có một trung trụ nguyên sinh hay đa trụ. Lá lớn giống Dương xỉ, đôi khi lá kép lông chim nhiều lần. Noãn và hạt được sinh ra trên lá lược hoặc trên lá lược có biến đổi chuyên hóa, không có nón. Trên đỉnh noãn có buồng phấn. Thể giao tử đực hình thành giác mút hoặc chỉ mới sơ khai. Tinh trùng lớn, chuyển động bằng nhiều roi ngắn.
Hóa thạch của Dương xỉ có hạt thuộc lớp Lyginopteridopsida xuất hiện hạt rất đa dạng. Hóa thạch của Runcaria (Gerrienne và cộng sự, 2004) là Dương xỉ có hạt sớm nhất được phát hiện khoảng 385 triệu năm trước (giữa kỷ Đê vôn). Runcaria có túi bào tử lớn nhỏ, tròn và được bao bọc bởi hai lớp vỏ. Túi bào tử có một phần nhô ra khỏi lớp vỏ và chúng được cho rằng có liên quan đến quá trình thụ phấn nhờ gió.
Dương xỉ có hạt là những cây hạt trần nguyên thủy nhất, chúng chiếm vị trị trung gian giữa Dương xỉ và Hạt trần.
Thân không phân nhánh, lá lớn, nón lưỡng tính. Ngành chỉ có 1 bộ Á tuế (Bennettitales) gồm những thực vật đã hóa đá. Chúng có mặt trên Trái Đất từ kỷ Thứ Ba tới kỷ Phấn Trắng thuộc đại Trung sinh, sau đó bị chết dần và tuyệt diệt.
Cơ quan sinh dưỡng của Á tuế cũng giống như ở Tuế trên những nét căn bản. Thân có thể hình cột đơn (ở Williamsonia) hay hình củ (ở Cycadeoidea) trên đó mang những lá hình lông chim. Lá bào tử tập trung lại thành nón. Nón lưỡng tính hoặc phân tính. Nón lưỡng tính cấu tạo gần giống như kiểu hoa của một vài cây Hạt kín nguyên thủy nhất. Nón lưỡng tính của chi Cycadeoidea phía ngoài có những vảy lá xếp xoắn bao bọc, giống như bao hoa. Tiếp theo phía trong lá các lá bào tử nhỏ, hình lông chim, mang các túi phấn ở mặt dưới; đặc biệt các lá này khi non cũng cuộn lại ở đầu như lá dương xỉ. Trong cùng là các lá noãn tiêu giảm, xếp xoắn trên phần lồi của trục nón. Hạt có hai lá mầm.
Cấu tạo nón như vậy gần giống hoa lưỡng tính ở họ Ngọc lan thuộc ngành Hạt kín. Vì vậy, một số nhà thực vật học đã xem Á tuế như là một nhóm có quan hệ với tựhc vật Hạt kín, nó nằm trung gian giữa Hạt trần và những Hạt kín nguyên thủy kiểu Ngọc lan. Nhưng thực ra vấn đề này còn rất nhiều điểm phức tạp.
Phân lớp chỉ gồm một bộ Thông tuế Cordaitales, bộ này gồm những đại diện đã hóa thạch. Chúng có thể xuất hiện ở kỷ Devon muộn và phát triển mạnh vào kỷ Cac bon, Permia. Chúng bắt đầu suy tàn vào cuối kỷ Permia và tuyệt diệt ở kỷ Triat. Phân lớp này gồm các đại diện thân gỗ có thể cao đến 30m và đường kính khoảng 1m. Lá đơn nguyên (dài 3 - 4cm), xết xoắn ốc ở đỉnh cành. Thân có khả năng sinh trưởng thứ cấp, cấu tạo gỗ một số đại diện giống hông hiện nay hoặc ruột phát triển mạnh như Tuế. Nón luôn luôn đơn tính có thể cùng gốc hoặc khác gốc. Nón đực (nhỏ hơn 1cm) xếp thành cụm đuôi sóc dài tới 30cm. Lá bào tử nhỏ mang 2 – 4 – 6 túi phấn. Noãn của chúng có cấu trúc gần giống Tuế. Theo Takhtajan thì chúng có thể là hậu duệ của Dương xỉ có hạt, một số tác giả thì cho rằng chúng và Dương xỉ có hạt có thể có chung một nguồn gốc.
- Cordaites (Thông tuế - Hồ lưu đà)
Những bằng chứng hóa thạch cho thấy Thông tuế hiện diện ở kỷ Carboniferous và Permian (330 – 250 triệu năm). Từ bằng chứng hóa thạch cho thấy Thông tuế chủ yếu là cây thân gỗ và cây thân bụi. Hóa thạch cây thân gỗ có thể cao đến 30m và đường kính thân lên dến 1m. Thông tuế có thân phân nhánh gần đỉnh. Thân có trụ dẫn chính thức với sự phát triển thứ cấp mạnh. Lá của Thông tuế rất đa dạng, thường xếp ở đỉnh cành. Bằng chứng hóa thạch cho thấy là của Thông tuế có hình dạng giống Agathis (Araucariaceae) đang tồn tại hiện nay. Lá dạng dải hay hình thuôn tròn ở đỉnh rộng 15cm và dài đến 1m. Lá có gân dạng song song nhưng không có gân chính ở giữa. Hệ rễ của Thông tuế cũng rất đa dạng, rễ bên mọc ra từ rễ chính và lan rộng. Rễ lan rộng gần giống với thực vật ngập mặn hiện nay, có thể là do thích nghi với môi trường đầm lầy trong thời gian kỷ Carboniferous và Permian (330 – 250 triệu năm). Nón đơn tính, thường khác gốc.