Đơn vị phân loại và các bậc phân loại
Các bậc phân loại
Bậc phân loại của sinh giới được xếp thành 7 bậc cơ bản :
- Giới Thực vật (Regnum Vegetabile)
- Ngành (divisio, Phylum)
- Lớp (classis)
- Bộ (ordo)
- Họ (familia)
- Chi (Giống) (genus)
- Loài (species)
Những loài có tính chất giống nhau, có tổ tiên chung tập hợp thành đơn vị lớn hơn gọi là chi. Cũng theo nguyên tắc chung nhau về nguồn gốc, giống nhau về tính chất, chi hợp thành họ, họ tập hợp thành bộ, bộ thành lớp, lớp thành ngành. Đây là các bậc phân loại chính.
Trong phân loại học đôi khi người ta còn dùng các bậc trung gian như: tông (tribus) là bậc giữa họ và chi, nhánh hay tố (sectio) và loạt hay dãy (series) là bậc giữa chi và loài, thứ (varietas) và dạng (forma) là những bậc dưới loài.Ngoài ra, còn có thêm các bậc phụ được ghi bằng cách thêm các tiếp đầu ngữ “sub”(phân) để chỉ các bậc trung gian thấp hơn, hoặc “super” (liên-trên) để chỉ các bậc trung gian cao hơn, như liên bộ (superordo), liên họ (superfamilia), phân bộ (subordo), phân họ (subfamilia), phân loài (subspecies)... Thứ tự trên là chặt chẽ và không thể thay đổi.
Đơn vị phân loại
Đơn vị phân loại cơ sở của hệ thống tiến hóa là loài (species). Khái niệm về loài phát sinh từ thực tế quan sát sinh vật trong thiên nhiên, sự giống nhau và khác nhau giữa các cá thể.
Có nhiều định nghĩa khác nhau về loài, trong đó định nghĩa của Komarov (1959) “Loài là tập hợp các cá thể cùng xuất phát từ một tổ tiên chung, trải qua quá trình đấu tranh sinh tồn và chọn lọc tự nhiên mà cách ly với các sinh vật khác, đồng thời loài là một giai đoạn nhất định trong quá trình tiến hoá chung của sinh vật”. Theo Ernt Mayr (1991) “Loài là một nhóm quần thể sinh sản tự nhiên, cách ly sinh sản với các nhóm quần thể tự nhiên khác”.
Loài loại hình (typological species concept)
Đây là quan niệm loài của thời Linneaus trở về trước. Mỗi loài thể hiện một loại hình nhất định, tạo hóa sinh ra bao nhiêu loài thì có bấy nhiêu loài và tồn tại mãi mãi. Từ quan niệm này có thể thấy rằng: 1- Mỗi loài bao gồm nhiều cá thể giống nhau (chủ yếu là hình thái ngoài), 2- các cá thể trong cùng một loài giống nhau, sự biến dị trong loài là rất hạn hữu, 3- giữa các loài có một ranh giới dứt khoát, biểu hiện sự không liên tục giữa các loài, 4- loài tồn tại vĩnh viển, không thay đổi theo thời gian và không gian.
Có 2 lý do để phủ định quan điểm loài loại hình: 1- trong tự nhiên, hiện tượng loài đa hình thái rất phổ biến: sự biến thái hình thái trong xen kẻ thế hệ ở động vật, xen kẻ thế hệ dị hình ở thực vật, hiện tượng biến dị theo mùa, theo điều kiện sinh thái. 2- trong tự nhiên có nhiều trường hợp 2 quần thể phân ly về kiểu gen nhưng ko phân ly về tính trạng, hình thành 2 loài rất giống nhau về hình thái chỉ sai khác nhau một vài chi tiết nhỏ khó phân biệt.
Loài duy danh (nominalistic species concept)
Phủ nhận sự tồn tại khách quan của loài, cho rằng trong thiên nhiên chỉ có các cá thể tồn tại mà thôi, loài không tồn tại thực tế, loài chẳng qua là khái niệm trừu tượng do người ta nghỉ ra để làm tên gọi. Bessey, 1908 – thiên nhiên tạo ra các cá thể, ngoài ra không có gì khác, loài không tồn tại thức tế trong tự nhiên, loài chẳng là cái gì khác, chỉ là một khái niệm tư duy, do co người tạo ra khi đề cập đến một số lượng lớn các cá thể.
Loài hình thái (morphological species)
Loài được xác định theo các đặc điểm hình thái, gồm hình thái ngoài, giải phẫu, cơ quan sinh sản... Nếu 2 mẫu A và B có các đặc điểm giống nhau thì cùng xếp vào một loài, khác nhau thì xếp vào loài khác nhau. Tuy nhiên, sự khác giau giữa A và B đủ chỉ thị để cách ly sinh sản hay không thì chưa xác định được.
Loài sinh học (Biological species concept)
K. Jorrdan (1905), là người đầu tiên đưa ra quan niệm về loài sinh học: 1- các thành viên của loài hình thành một cộng đồng sinh sản (reproductive community). 2- mỗi loài là một đơn vị sinh thái (ecological unit) bất kể số lượng cá thể nhiều hay ít, mỗi loài đều hình thành một đơn vị độc lập. Mỗi loài có một không gian đa chiều, ở đó loài có nhu cầu về điều kiện sinh thái riêng và sử dụng các điều kiện sinh thái theo cách riêng để tiếp tục tồn tại và không ngừng phát triển. Nói cách khác, mỗi loài có một ổ sinh thái (ecological nich) riêng. 3- mỗi loài là một đơn vị di truyền (genetic unit): mỗi loài có một nguồn gen chung rất lớn, có cơ chế tự bảo vệ, chống lại sự xâm nhập và pha trộn gen từ nguồn gen khác và có khả năng di truyền lại cho thế hệ sau. Mỗi cá thể là thành viên của loài chỉ mang một phần rất nhỏ trong nguồn gen chung của loài, trong một thời gian nhất định
Ernt Mayr (1991): “loài là một nhóm quần thể sinh sản tự nhiên, cách ly sinh sản với các quần thể tự nhiên khác”. 1- quần thể sinh sản tự nhiên (interbreeding natural populations) chỉ quần thể tự nhiên có khả năng sinh sản để sinh ra các quần thể tự nhiên khác. 2- cách ly sinh sản: có nhiều đặc điểm của loài để cách ly sinh sản, trước hết là đặc điểm về kiểu gen, gen cùng nguồn của một loài hình thành do kết quả của chọn lọc tự nhiên, kết hợp gen cùng nguồn có thể sinh ra quần thể con cháu có tỷ lệ sống cao.
Loài di truyền (Genetic Species Concept)
Là một nhóm quần thể sinh sản tự nhiên, nó cách ly di truyền so với nhóm quần thể khác. Ở đây chú trọng đên sự cách ly về mặt di truyền hơn là sự cách ly về mặt sinh sản. Dựa trên quan điểm loài di truyền, quá trình hình thành loài là sự tích lũy thay đổi về mặt di truyền theo hai hướng: cách ly và bảo vệ tính toàn vẹn của 2 nguồn gen, do đó sự hình thành loài dựa trên sự phân ly về các gen, bộ gen, cấu trúc nhiễm sắc thể, loài tồn tại khi tính toàn vẹn của 2 nguồn gen của loài được bảo vệ cũng giống như các trình tự các gen khác nhau trong cùng một bộ gen.
Trong phân loại cần phân biệt khái niệm Taxon và bậc phân loại.Taxon là một nhóm cá thể thực tế, được coi như một đơn vị hình thức ở bất kỳ mức độ nào của bậc phân loại. Nói cách khác, Taxon là một nhóm sinh vật được chấp nhận làm đơn vị phân loại ở bất kỳ mức độ nào. Khác với bậc phân loại, Taxon luôn luôn được hiểu là một đối tượng cụ thể ở một bậc phân loại cụ thể. Khác với Taxon, bậc phân loại là một tập hợp các thành viên của nó là các taxon ở một mức nhất đinh trong thang bậc phân loại. Ví dụ: loài nói chung là bậc phân loại, nhưng một loài cụ thể như lúa (Oryza sativa L.) là taxon.
Như vậy, bậc phân loại chỉ xác định vị trí của nó trong thang bậc phân loại (nói chung không cụ thể về đối tượng), còn taxon là bậc phân loại nào đó mà nó là một thành viên.
Tên loài
Tên loài được sử dụng bằng tiếng La tinh do Linneaus đề xướng (1753), tên loài là một tổ hợp gồm 2 từ, in nghiên, từ sau cách từ trước một ký tự. Từ đầu là tên chi, từ sau là tính ngữ loài.
Cây kiều mạch: Fagopyrum esculentumMoench
Cây cà chua: Lycopersiconesculentum Mill.
Cây bồ công anh: Taraxacum officinale Wiggers hoặc Taraxacum officinale W.
Từ đầu là tên chi, luôn luôn được viết hoa, tính ngữ loài là một tính từ chỉ loài, không viết hoa. Tính từ này có thể biểu thị:
+ tính chất của cây, như: glabra - nhẵn, spinosa - có gai, pilosa - có lông…
+ nơi mọc : sylvestris - ở rừng, palustris - đầm lầy…
+ nơi xuất xứ : tonkinensis - Bắc Bộ, chinensis - Trung Quốc…
+ công dụng của cây : textiles - có sợi, tinctorius - để nhuộm…
+ mùa hoa nở : vernalis - mùa xuân, autumnalis - mùa thu...
+ hay chỉ tên người : lecomtei, pierrei, takhtajannii,…
Nếu sau tên chi gồm nhiều từ, những từ này được gắn liền với nhau hoặc nối bằng “-“
Tên đầy đủ của loài bên cạnh tên chi, tín ngữ loài còn có tên tác giả và năm mô tả. Tên tác giảthường được viết tắt hay nguyên họ tác giả đã công bố tên đầu tiên.
Ví dụ Oryza sativa L. là tên cây lúa, (thuộc chi Oryza, loài lúa thuộc dạng cây trồng: sativa, L. là chữ viết tắt tên họ của Linneaus). Lumnitzera littorea (Jack) Voigt. 1845 trong đó Jack: tác giả phát hiện và mô tả đầu tiên và Voigt. Là tác giả định loại lại vào năm 1845.
Tên chi Tính ngữ loài Tác giả Năm
Lumnitzera littorea (Jack) Voigt. 1845
Tên taxon trên loài
Taxon trên loài tên dùng một từ (Uninomial), tên chi viết in nghiên, tên bậc trên chi có thể viết in đứng hoặc in nghiên.
Tên chi: Rosa, Delonix, Talauma, Lilium
Đối với tên họ, người ta lấy chi điển hình (typus) của họ, thêm đuôi aceae vào. Ví dụ: Rosaceae (họ Hoa hồng) lấy từ chi chuẩn là Rosa, Rutaceae (họ Cam) lấy từ chi chuẩn là Ruta.
Tên các bậc cao hơn cũng theo nguyên tắc như vậy: Ngành (-phyta), Phân ngành (-phytina), Lớp (-opsida), Phân lớp (-idae), Bộ (-ales), Phân bộ (-ineae), Họ (-aceae), Phân họ (-oideae).
Tuy nhiên, tên lớp và ngành cũng có khi còn chưa thống nhất quy tắc gọi. Ví dụ: lớp Hai lá mầm (Dicotyledonae) đã quen gọi từ rất lâu, hiện nay nếu theo “nguyên tắc điển hình” thì có tên là lớp Ngọc lan (Magnoliopsida hay Magnoliatae), lớp Dương xỉ (Polypodiopsida), Ngành Ngọc lan (Magnoliophyta) hay ngành Hạt kín (Angiospermatophyta)...
Cây lúa Giới Thực vật (Plantae)
Ngành Thực vật hạt kín (Angiospermatophyta)
Lớp Một lá mầm (Liliopsida)
Bộ Hòa thảo (Poales)
Họ Hòa thảo (Poaceae)
Chi Oryza
Loài Oryza sativa L.