Phân lớp này bao gồm các thực vật Một lá mầm nguyên thủy nhất hiện nay. Đó là những cây thân thảo sống ở nước hoặc đầm lầy. Mạch thông chưa có hoặc chỉ có ở rễ. Thành phần hoa còn nhiều, số lượng thành phần hoa chưa cố định, xếp xoắn, các lá noãn còn rời. Phân lớp này đi ra từ những thực vật Hai lá mầm nguyên thủy.
Là những thực vật Một lá mầm nguyên thủy nhất, bộ gồm thực vật sống ở nước, bộ nhụy gồm nhiều lá noãn rời hoặc 1 lá noãn, hạt không có nội nhũ.Thân thảo, sống ở nước, nhiều loại mọc chìm hẳn. Mạch thông chỉ có ở rễ, ở thân rễ, lá và thân chỉ có mạch ngăn. Lá có hình thái đa dạng. Hoa đều, một số họ nguyên thủy có hoa lưỡng tính, các họ tiến hóa hơn có hoa đơn tính. Ở các họ hoa lưỡng tính, bao hoa phân hoá thành đài và tràng rõ rệt; các họ hoa đơn tính có bao hoa tiêu giảm hoặc hoa trần. Nhị đính 1 hay 2 vòng hoặc nhiều nhị đính theo đường xoắn ốc, đôi khi hoa chỉ có 1 nhị. Bộ nhụy gồmnhiều lá noãn rời xếp theo đường xoắn ốc hoặc số lá noãn ít hơn và đính trên một vòng, mỗi lá noãn có 1 hay nhiều noãn, đôi khi hoa chỉ có 1 lá noãn. Quả bế, đôi khi quả đại. Hạt không có nội nhũ.Bộ này gồm 2 họ:Họ Trạch tả (Alismataceae). Họ Nê thảo (Limnocharitaceae).
Họ Trạch tả (Alismaceae)
Họ gồm các loài thân thảo, sống ở nước hoặc ở chỗ ẩm, sống nhiều năm nhờ thân rễ. Lá đơn, mọc chụm ở gốc thân, cuống lá dài. Hình thái lá thay đổi tùy theo lá mọc chìm trong nước, nổi trên mặt nước hay ở trên không. Cây Rau mác lá chìm hình dải, lá nổi có hình mũi tên và lá khí sinh có hình mũi mác. Cụm hoa dạng chùm hay chùm với cụm hoa đơn vị là xim. Hoa đều, lưỡng tính hoặc đơn tính, mẫu 3. Đài 3, lá đài có màu xanh lục, tràng gồm 3 cánh hoa có màu khác. Bộ nhị có thể là 3 – 6 hay 9 nhị xếp trên 2 – 3 vòng hoặc nhiều nhị đính theo đường xoắn ốc. Bộ nhụy gồm 6 hay nhiều lá noãn. Sagittaria có các lá noãn gắn theo đường xoắn ốc trên đế hoa lồi. Alisma có lá noãn gắn theo vòng. Các lá noãn rời, đôi khi hợp nhau ở gốc (Limnophyton), mỗi lá noãn có 1 noãn. Quả bế, hạt không có nội nhũ, mầm cong hình móng ngựa.
Ở Việt Nam có 6 chi: Alisma, Caldesia, Echinodorus, Limnophyton, Ranalisma, Sagittaria (Lophiocarpus) với khoảng 7–8 loài.
- Trạch tả: Alisma plantago-aquatica L..Thân rễ trắng, lá mọc thành hình hoa thị ở gốc. Hoa nhỏ, lưỡng tính, trắng hay hồng. Thân rễ dùng làm thuốc chữa tê thấp, phù do viêm thận. Thường mọc ở đầm lầy và ruộng.
- Rau mác (Sagittaria sagittifolia L.): lá hình mũi tên, hoa đơn tính cùng cây, hoa màu trắng, có lá noãn rời. Thân rễ dùng làm thuốc nhuận tràng. Cây thường mọc ở ruộng ẩm, ao hồ ít nước.
Họ gồm các cây thân thảo thường lớn, có cả cây dạng gỗ sống trên cạn, ít khi sống ở nước. Hoa rất nhỏ và tiêu giảm, lưỡng tính hoặc đơn tính, tập hợp thành bông đơn có mo (lá bắc tổng bao) bao bọc ngoài. Mo đôi lúc có màu và làm nhiệm vụ thu hút sâu bọ thay cho bao hoa. Bao hoa tiêu giảm. Bộ nhụy có 1 – 3 lá noãn, bầu trên. Hạt có nội nhũ. Bộ này gồm 4 họ (1. Acoraceae, 2. Araceae, 3. Pistaceae, 4. Lemnaceae). Trước đây bộ được xếp vào phân lớp Cau (Arecidae), hiện nay Takhtajan (2009) tách bộ Ráy xếp vào phân lớp Trạch tả, Phân lớp Cau hiện nay chỉ còn một bộ Cau với duy nhất họ Cau.
Họ Ráy (Araceae)
Họ gồm các đại diện thân thảo sống nơi ẩm ướt, sống nhiều năm nhờ thân rễ phình thành củ (Khoai môn, Khoai cao, Khoai sọ) hoặc nhờ thân rễ. Một số loài là dây leo hay phụ sinh mang nhiều rễ khí sinh thòng xuống (Ráy leo, Trầu bà). Bèo cái sống trôi nổi trên mặt nước. Lá mọc chụm ở gốc thân rễ hay mọc cách trên thân cây. Lá có hay không có cuống, bẹ lá phát triển. Phiến lá to, nguyên hoặc xẻ thùy sâu, hình thái lá đa dạng: hình tim, hình đầu tên hay hình dải hoặc xẻ sâu thành thùy hình lông chim hoặc hình chân vịt. Gân lá có thể song song (Thạch xương bồ) hoặc hình lông chim (Vạn niên thanh) hay hình chân vịt (Khoai môn). Cụm hoa dạng bông mo không phân nhánh. Nhiều hoa đính trên trục nạc gọi là trục hoa. Trục hoa có thể mang hoa khắp trục hoa hoặc tận cùng bằng một đoạn bất thụ và có màu (Bán hạ). Mo to, mềm, thường có màu rực rỡ. Hoa nhỏ, lưỡng tính hoặc đơn tính, hoa đều. Hoa lưỡng tính có bao hoa có đài và tràng, tràng thường có dạng đài. Hoa đơn tính phần lớn là hoa trần. Bộ nhị xếp 2 vòng, mỗi vòng có 2 hoặc 3 nhị, thường dính nhau ở đáy. Ở hoa đơn tính, số nhị nhiều khi giảm chỉ còn 1 nhị. Bộ nhụy thường có 2 – 3 lá noãn, mỗi lá noãn chứa 1 hay nhiều noãn. Ở hoa đơn tính, số lá noãn hay giảm chỉ còn một. Quả mọng, hạt có nội nhũ. Có tế bào tiết tinh dầu riêng rẽ (Acorus) hay xếp thành từng dải (Philodendron), ống tiết (Philodendron), ống nhựa mủ có đốt (Arum, Colocasia).
Ở Việt Nam có trên 30 chivới khoảng 135 loài.
- Ráy: Alocasia macrorrhiza (L.) G. Don. Trị cảm cúm, phong thấp, mụn nhọt, rắn cắn.
- Bạc hà: Alocasia odora (Roxb.) C. Koch. Lá và cuống ăn được. Thân rễ đắp trị mụn nhọt.
- Môn đốm: Caladium bicolor (Ait.) Vent.. Rễ làm thuốc đắp ngoài chữa gãy xương.
- Ráy (Ngót): Epipremnum pinnatum (L.) Engl.. Ở Trung Quốc, thân và lá dùng làm thuốc trị gãy xương, ho gà, phong thấp, mụn nhọt.
- Bèo cái: Pistia stratiotes L.. Dùng bèo có mặt dưới tía làm thuốc chữa mẩn ngứa, mụn nhọt, ho, hen suyễn, eczema; bèo khô hun khói trừ muỗi.
Họ Bèo tấm (Lemnaceae)
Họ gồm các đại diện thân thảo, nhỏ, sống ở nước. Cơ quan sinh dưỡng chỉ còn một phiến mỏng màu lục, mang ở mặt dưới 1 hay nhiều rễ tùy loài. Chi Wolffia không có rễ. Cụm hoa gồm 1 mo bao bọc 1 hoa cái và 2 hoa đực. Hoa không có bao hoa, hoa đực có 1 nhị; hoa cái có 1 lá noãn, mỗi lá noãn chứa 1 hay nhiều noãn. Quả bế. Ở Việt Nam có 3 chi: Lemna, Spirodela, Wolffia; khoảng 4–7 loài.
- Bèo cám (Bèo tấm): Lemna minor L.. Cây mọc nổi trên mặt nước, thường nhóm họp 2–3 cây một. Mỗi cây chỉ gồm một phiến mỏng màu lục (thân) hình bầu dục dẹt, mang 1 rễ. Hoa mọc trên phiến mỏng đó. Trong mo có 2 hoa đực trần và 1 hoa cái trần. Cây thường sinh sản bằng cách nảy chồi từ phiến mỏng màu lục. Dùng chữa cảm sốt, bí tiểu; dùng ngoài trị mụn nhọt và bệnh ngoài da.
- Bèo phấn: Wolffia schleidenii Miq. hay W. arrhiza (L.) Wimmer. Không có rễ. Là thức ăn cho cá.