Phân lớp Cau làm thành 1 nhóm riêng biệt của lớp Một lá mầm. Trong quá trình tiến hóa, nó đi theo con đường tiêu giảm thành phần hoa và được bù đắp bởi kiểu cụm hoa bông mo, có mo (lá bắc lớn) bảo vệ hoa quả và hấp dẫn sâu bọ thay thế cho bao hoa tiêu giảm, có khi tiêu giảm hẳn. Nét đặc trưng về tiến hóa cơ quan sinh dưỡng là sự xuất hiện dạng cây thân gỗ giả (dạng cây thân gỗ cau dừa). Phân lớp Cau có nguồn gốc chung với bộ Hành. Phân lớp gồm 1 bộ, chỉ 1 họ đều gặp đại diện ở ta (Theo Takhtajan, 2009).
Họ Cau (Arecaceae)
Họ gồm các loài có dạng thân cột lớn, có khi cao tới 20m hoặc thân leo, có thể dài 200-300m. Thân không phân nhánh, không có cấu tạo cấp hai điển hình, mà chỉ sinh trưởng nhờ những vòng dày, nên kích thước tương đối đồng đều từ gốc lên ngọn. Lá rất lớn, có bẹ ôm lấy thân, cuống dài, phiến lá xẻ lông chim rất sâu, nhiều khi vào tận sát gân chính, hoặc xẻ thùy chân vịt.
Cụm hoa bông mo phân nhánh nhiều, bên ngoài có 1-2 lá bắc to bao bọc gọi là mo. Ngoài mo chung, mỗi nhánh hoa lại có mo riêng. Hoa lưỡng tính hay đơn tính cùng gốc hoặc khác gốc. Bao hoa dạng đài, gồm 6 mảnh xếp 2 vòng. Nhị thường 6 nhưng cũng có khi nhiều hơn (ở Caryota) hoặc ở 1 số ít chỉ có 3 nhị.
Bộ nhụy gồm 3 lá nõan rời hoặc thường dính lại thành bầu trên, 3 ô hay 1 ô, trong mỗi ô chứa 1 noãn, nhưng htường chỉ 1 trong 3 ô có noãn phát triển thành hạt. Một số loài có tuyến mật và hương thơm thì thụ phấn nhờ sâu bọ, một số khác thụ phấn nhờ gió. Quả hạch, đôi khi quả mọng, không bao giờ có qủa mở. Hạt có nội nhũ lớn, phôi nhỏ, ở 1 số có nội nhũ sừng rất rắn.
Công thức hoa: ♂ P3-3 A3+3 ♀ P3+3G(3)
Họ Cau có tới 240 chi, 3400 loài, phân bố rộng rãi ở vùng cận nhiệt đới, và đặc biệt là các vùng nhiệt đới, nhưng phong phú nhất là ở Đông Nam Á và vùng nhiệt đới Nam Mỹ. Ở Việt Nam hiện biết khoảng gần 40 chi và 90 loài. Nhiều laòi trong họ Cau phân bố tập trung, đã tạo nên những phong cảnh đặc sắc ở nhiều vùng (ví dụ: các đồi cọ, đảo dừa, rừng dừa nước ven kênh rạch nước lợ…).
- Dừa (Cocos nucifera L.): Cây có giá trị kinh tế lớn nhất trong họ, quả hạch lớn, vỏ quả trong rất cứng. Nội nhũ lúc còn non là một chất nước lỏng, sau đọng lại thành cùi, càng già càng rắn.
- Cau (Areca catechu L.): là loài cây rất phổ biến ở nước ta cũng như các nước Đông Nam Á, tạo nên một phong cảnh đặc sắc của nông thôn. Quả dùng ăn trầu, hạt chứa nhiều tanin, thân già làm máng dẫn nước, làm cột, lá làm chổi.
- Mây (Calamus tetradactylus Hance.): có thân dài. Mọc dại và cũng được gây trồng ở khắp nông thôn nước ta để làm lạt và đan lát. Loài mây song (C. Rudentum Lour.) dài tới hàng trăn mét, dùng làm dây buộc, đóng bè, làm khung bàn ghế. Nhiều loài khác trong chi Calamus và một vài chi khác thường mang tên song hoặc mây đều được dùng đan lát, làm bàn ghế, đồ mỹ nghệ.
- Cọ (Livistona saribus (Lour.) Merr. Ex Chev.) : lá dùng để lợp nhà, làm nón. Trồng nhiều ở các đồi thấp vùng trung du, nơi có nhiều nắng và khô ráo. Loài cọ xẻ (L. Chinensis R. Br.) cũng gặp một ít ở nước ta, được trồng làm cảnh.
- Dừa nước (Nipa fruticans Wurmb.): thân nằm ngang trên mặt đất bùn, mang nhiều sẹo lá lớn, xếp chồng lên nhau như những chiếc thớt. Lá lớn, hình lông chim, bẹ lá phồng to. Quả nhỏ tụ hợp thành cụm hình cầu, đường kính 15-20 cm, màu nâu.
- Chà là (Phoenix dactylifera L.): có hoa đơn tính khác gốc. Quả mọng khá lớn, chứa nhiều đường (54%), là thức ăn chính của nhân dân nhiều địa phương, quả còn dùng làm kẹo mứt. Ở nước ta không có loài này, nhưng có nhiều loài khác cùng chi, trồng làm cảnh hoặc lấy lá lợp nhà như chà là bụi (Phoenix reclinata Jacq.), chà là biển (Phoenix paludosa Roxb.), mọc ở bờ đầm lầy ven biển.