Phân lớp Sổ là 1 phân lớp lớn, rất đa dạng, gồm đủ các dạng cây gỗ lớn, gỗ nhỡ, cây bụi, cây thân thảo và dây leo. Lá nguyên hoặc phân thùy. Mạch thủng lỗ đơn hay hình thang. Hoa lưỡng tính đều, ít khi đối xứng hai bên. Bộ nhị nếu nhiều thì phát triển theo hướng ly tâm. Màng hạt phấn không có lỗ cực. Nhụy rời hay hợp. Đính noãn góc hay mép. Hoa tiến hóa theo hướng thụ phấn nhờ sâu bọ. Các bộ có tổ chức thấp vẫn còn có lá noãn rời, mạch có bản ngăn hình thang, biểu hiện tính chất gần gũi với bộ Ngọc Lan. Ở phân lớp Sổ diễn ra các nhánh tiến hóa khác nhau hình thành những nhóm bộ riêng biệt:
- Một số bộ tiến hóa thấp có cây thân gỗ là chủ yếu, hoa kiểu xếp xoắn, nhị và nhụy nhiều, lá noãn còn rời nhau (bộ Sổ, bộ Chè).
- Một số bộ chủ yếu là cây thân thảo, bầu nhụy đính noãn bên (bộ Hoa tím, bộ Màn màn, Bộ Thu hải đường). Bộ Hoa tím là bộ quan trọng của phân lớp, từ đó đi ra nhiều bộ khác (có dạng cây gỗ, bụi).
- Một số bộ có lối đính noãn trụ giữa, hoa mẫu 5, nhị 2 vòng, hoa từ cánh rời (bộ Bông, bộ Thầu dầu) tiến tới cánh dính (bộ Đỗ quyên, bộ Thị, bộ Anh thảo).
- Một số bộ có xu hướng giảm dần thành phần hoa, tiến tới hoa đơn tính (bộ Liễu, bộ Trầm).
Phân lớp Sổ có 30 bộ với 108 họ, ở Việt Nam gặp các đại diện của 12 bộ.
Bộ này có quan hệ với bộ Ngọc lan qua tính chất nguyên thủy như: nhụy gồm nhiều lá noãn rời, bao hoa xếp xoắn, nhị nhiều, lá kèm sớm rụng. Phần lớn là cây gỗ và cây bụi. Lá thường mọc cách. Mạch có bản ngăn hình thang. Hoa thường lưỡng tính, đều, ít khi đối xứng 2 bên. Nhị có khuynh hướng kết lại thành bó và phát triển liên tục theo hướng ly tâm. Màng hạt phấn có 3 rãnh. Noãn cong, đảo, có vỏ kép. Hạt có phôi nhỏ, nội nhũ lớn. Không có tế bào tiết trong thân và lá. Bộ Sổ có 1 họ (Dilleniaceae).
Họ Sổ (Dilleniaceae)
Họ Sổ gồm các loài thân gỗ, đôi khi là cây bụi leo. Lá mọc cách, lá kèm sớm rụng hay không có. Hoa khá lớn,mọc ở nách lá. Bao hoa xếp xoắn, mẫu 5, tràng sớm rụng. Nhị nhiều xếp vòng. Bộnhụy gồm nhiều lá noãn rời hoặc dính ít ở gốc. Quả đại hoặc quả mọng nhiều ngăn, chứa nhiều hạt. Hạt giàu nội nhũ,phôi thẳng, rất nhỏ. Họ Sổ gần với Ngọc Lan qua các đặc điểm như: lá noãn rời, lá kèm sớm rụng. Tuy vậy, chúng phân biệt với Ngọc lan như: màng hạt phấn 3 rãnh, lá không có tế bào tiết.
Công thức hoa: * K5 C5 A∞ G∞
Họ có 18 chi, 350 loài, phân bố rộng rãi ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới. Ở ta gặp 2 chi với 15 loài.
- Sổ bà Dillenia indica L.
- Chạc chìu hay dây chìu Tetracera scandens (L.) Merr.
Bộ Chè là một bộ lớn, bao gồm chủ yếu các cây thân gỗ có quan hệ gần gũi với bộ Sổ và sớm đi ra từ bộ này. Bộ Chè gồm 7 họ (1. Stachyuraceae, 2. Sladeniaceae, 3. Pentaphylacaceae, 4. Ternstroemiaceae 5. Theaceae, 6. Oncothecaceae, 7. Caryocaraceae)
Họ Chè (Theaceaea)
Họ gồm các cây thân gỗ hay cây bụi. Lá mọc cách, đơn nguyên và không có lá kèm, trong lá thường có tế bào đá phân nhánh. Hoa lưỡng tính, thường mọc đơn độc. Đài gồm 5 lá đài không bằng nhau, tồn tại trên quả. Tràng gồm 5-9 cánh rời. Nhị nhiều. Nhụy do 3-5 lá noãn hợp thành bầu trên, số ô tương ứng với số lá noãn, trong mỗi ô có 2 hay nhiều noãn, đính noãn trụ giữa. Quả mở, 1 hay nhiều hạt, không có nội nhũ, phôi lớn.
Công thức hoa: * K5-7 C5-9 A∞G(3-5)
Họ Chè có 29 chi và khoảng 550 loài, phân bố chủ yếu ở các nước nhiệt đới và cận nhiệt đới của cả 2 bán cầu, đặc biệt ở Đông và Đông Nam châu Á. Ở Việt Nam có 11 chi với trên 100 loài.
- Hải đường (Camellia amplexicaulis (Pit.) Coh - Swart.): Cây nhỡ, cao khoảng 3m, lá màu lục đậm, dày cứng. Hoa to, màu hồng đỏ, đẹp, nở vào dịp Tết Nguyên đán. Cây được trồng làm cảnh.
- Chè (Camellia sinensis (L.) O. Ktze): Cây mọc dại hoặc trồng để lấy lá làm chè uống. Chè nổi tiếng ở ta là chè Phú Thọ, Hà Giang, Tân Cương (Thái Nguyên).
Nhiều loài trong chi Camellia trước đây được gọi dưới tên Thea.
Bộ gồm các cây thân gỗ, cây bụi hoặc cỏ sống nhiều năm. Lá đơn, mọc cách, không lá kèm. Hoa lưỡng tính, thường đều, mẫu 5 hay 4. Tràng hoa đôi khi còn rời nhau. Nhị xếp 2 vòng nhị, nhị không đính trên tràng, bao phấn có 2 sừng, mở bằng lỗ. Bộ nhụy gồm 4–5 lá noãn hợp thành bầu trên hay dưới với 4–5 ô, mỗi ô chứanhiều noãn, đính noãn trung trụ. Noãn chỉ có 1 lớp vỏ. Bộ có 4 họ (1. Actinidiaceae, 2. Clethraceae, 3. Cyrillaceae,4. Ericaceae).
Họ Đỗ quyên (Ericaceae)
Họ gồm các cây thân gỗ to hay nhỏ, bụi hoặc dây leo. Lá đơn, mọc cách hay đôi khi giống như mọc vòng, không có lá kèm. Phiến lá nguyên hay có răng cưa. Cụm hoa ít khi hoa riêng lẻ, thường tụ thành chùm, tán, ngù ở ngọn cành. Hoa đều, đôi khi không đều, lưỡng tính, mẫu 5 hay 4. Bao hoa gồm 4–5 lá đài có thể dính hoặc rời, đôi khi đài dạng tràng, thường tồn tại. Tràng gồm 4–5 cánh hoa, thường dính nhau (Lebum có cánh hoa rời). Bộ nhị gồm 8–10 nhị. Chỉ nhị không đính trên tràng. Bao phấn có 2 sừng (trừ ở Rhododendron), thường mở bằng lỗ. Hạt phấn dính thành tứ tử. Số lá noãn bằng số cánh hoa, dính nhau thành bầu trên, nhiều ô, mỗi ô nhiều noãn, đính noãn trung trụ. 1 vòi nhụy; đĩa mật ở gốc bầu. Quả nang hay quả mọng, hạt có nội nhũ.
Ở Việt Nam có 11 chi: Agapetes, Craibiodendron (Nuihonia), Diplicosia, Enkianthus, Gaultheria, Leucothoe, Lyonia, Monotropastrum, Pieris, Rhododendron, Vaccinium với khoảng 75 loài.
- Châu thụ (Châu thy): Gaultheria fragrantissima Wall.. Hoa rất thơm và toàn cây có mùi metyl salicylat. Lá chữa phong thấp, kiện vị, sát trùng.
- Đỗ quyên: Rhododendron simsii Planch.. Lá có tác dụng chống viêm.
- Sơn trâm lá hoa: Vaccinium bracteatum Thunb.. Trị ung thư.
Bộ chỉ có 1 họ Hồng xiêm (Sapotaceae). Họ gồm các đại diện thân gỗ, có nhựa mủ. Lá đơn, nguyên, mọc cách, có hay không có lá kèm, gân lá hình lông chim. Hoa mọc đơn độc hay thành chùm ở nách lá. Hoa đều, lưỡng tính, mẫu 4, 5. Bao hoa gồm có 4 – 8 lá đài xếp thành 1 hoặc 2 vòng. Tràng hoa hợp, số lượng có thể bằng hoặc nhiều hơn số lá đài; tràng hoa có thể có phụ ở mặt ngoài hay mặt trong. Nhị đính trên tràng hoa thành 2 vòng, nhưng vòng ngoài có đôi khi nhị bị thoái hóa hoặc chỉ còn lại nhị lép. Bao phấn hướng ngoài. Số lá noãn bằng số lá đài, hợp thành bầu trên, bầu nhiều ô, mỗi ô đựng 1 noãn. Quả nạc, vỏ hạt màu nâu đen. Hạt có nội nhũ nhiều hoặc rất ít gần như không có, rốn hạt phát triển.
Công thức hoa: * K4-5-6 C(4-5-6) A8-10-12G(4-5-6)
Ở Việt Nam có khoảng 16 chi: Aesandra, Bumelia, Chrysophyllum, Donella, Eberhardtia, Lucuma (Pouteria), Madhuca, Manilkana (Achras, Nispero, Sapota), Mastichodendron, Mimusops, Palaquyum, Payena, Planchonella, Sarcosperma, Sinosideroxylon, Xantolis khoảng trên 40 loài.
- Hồng xiêm: Manilkara zapota (L.) Royen hay Achras sapota L. hoặc Manilkara achras (Mill.) Fosb.. Hạt làm giảm sốt, lợi tiểu. Lá màu lục bóng, quả mọng hình trứng, màu nâu nhạt, ăn ngon. Cây có nguồn gốc ở vùng nhiệt đới Trung Mỹ, được nhập trồng nhiều ở miền Nam và một số nơi ở miền Bắc, có quả gần như quanh năm
- Vú sữa (Chrysophyllum cainưito L.): Mặt dưới lá phủ nhiều lông vàng hung và mịn như nhung. Quả mọng hình cầu, vỏ quả nhẵn, thịt quả có nhựa, bóp ra ăn mát, như sữa. Cây trồng nhiều ở miền Nam để lấy quả ăn.
- Trứng gà hay lêkima (Lucuma mammosa Gaertn.): Quả hình tim, khi chín có màu vàng, thịt quả cũng màu vàng, có nhiều bột, vị ngọt bùi giống như lồng đỏ trứng gà luộc. Cây nhập nội, được trồng phổ biến ở miền Nam và một số nơi trên miền Bắc, miền Trung.
- Sến (Madhuca pasquieri (Dubard.) H. J.Lam.): Cây cho gỗ quý, là một trong 4 loại "tứ thiết mộc" của ta (đinh, lim, sến, táu), mọc nhiều ở rừng miền Bắc.
Bộ gồm 4 họ 1. Cucurbitaceae 2. Datiscaceae 3. Tetramelaceae 4. Begoniaceae
Họ Bầu bí (Cucurbitaceae)
Họ gồm các cây thân thảo một năm hay nhiều năm, leo nhờ tua cuốn (có nguồn gốc từ cành hay lá biến đổi mà thành) hoặc bò trên mặt đất. Lá mọc cách có cuống dài, phiến lá thường chia thùy chân vịt, không có lá kèm. Thân lá thường phủ lông cứng. Hoa đơn tính cùng gốc hay khác gốc. Hoa đều, mẫu 5, đài có khi dính, tràng hoa thường dính nhau. Bộ nhị gồm 5 có thể rời hoặc dính lại theo nhiều mức độ: dính từng đôi một còn 1 nhị tự do hoặc cả 5 đều dính lại. Bao phấn cong queo, nứt dọc. Bộ nhụy gồm 3 lá noãn dính lại thành bầu dưới, bầu 3 ô, vòi nhụy ngắn, 3 đầu nhụy khá lớn. Giá noãn trụ giữa nhưng phát triển ra phía ngoài sát mép bầu rồi phân thành 2 nhánh cong vào trong và mang noãn thành kiểu đính noãn bên giả chia mỗi ô thành 2, do đó bầu có 6 ô giả, mỗi ô chứa nhiều noãn đảo, ít khi chứa 1 noãn (Su su). Quả mọng, lớp vỏ ngoài thường cứng, lớp vỏ giữa dày và mọng nước, có khi hóa xốp (Mướp). Hạt chứa nhiều dầu, phôi thẳng, không có nội nhũ.
Công thức hoa: ♂ K(5) C(5) A(2)(2)1 ♀ K5 C(5)(3) G(3)
Họ có 120 chi với 1000 loài. Ở ta gặp 20 chi, 50 loài, là những cây trồng cho quả và lá làm rau như: Dưa hấu, dưa bở, bí ngô, bầu, mướp, gấc…
- Dưa hấu (Citrullus lanatus (Thunb.) Matsum. & Nakai):Cây bò, quả to hình cầu hay hình bầu dục, thịt quả màu đỏ, đôi khi vàng, nhiều nước, ăn ngọt, mát.
- Dưa gang (Cucumis melo L. var. conomon Mak.): quả hình tròn dài, một đầu nhỏ bên ngoài có những sọc dọc.
- Bí đao hay bí xanh (Benincasa hispida Cogn.):quả to, dài hình trụ, khi già màu lục thẫm và phủ sáp trắng. Quả làm rau ăn và làm mứt bí.
- Bí ngô (Cucurbita pepo L.):quả to và rất to, hình cầu dẹt, khía nhiều múi, vỏ cứng, thịt quả màu vàng. Hạt ăn sống chữa giun sán, rang lên ăn béo, ngon.
- Mướp ta (Luffa cylindrica (L.) Roem.):quả hình trụ với các vạch dọc ở ngoài. Quả mướp có tính sinh sữa. lợi tiểu. Lá dùng để đắp mụn nhọt cho bớt sưng, hết mũ. Thứ mướp hương (L. cylindrica var. insularum Cogn.)quả có mùi thơm hơn mướp ta nhiều.
- Bầu (Lagenaria siceraria Standl.):lá mềm, quả hình nậm rượu, hoặc dài như quả bí đao, vỏ màu xanh nhạt.
- Mướp đắng hay khổ qua (Momordicacharantia L.):quả hình thoi có nhiều u nhỏ, thịt quả rất đắng. Quả xào nấu, hấp thịt nhồi ăn ngon, còn dùng làm thuốc giải nhiệt, tắm cho trẻ em trị rôm xẩy.
- Gấc(Momordica cochinchinensis): quả to hình trứng, có gai ngắn, khi chín màu vàng cam hay đỏ. Cây trồng để lấy quả thổi xôi gấc. Chất dầủơ thịt quả chứa caroten, khi vào trong cơ thể sẽ biến thành sinh tố A. Hạt dùng làm thuốc chữa mụn nhọt.
- Su su (Sechium edule (Jacq.) Sw.):quả hình quả lê có cạnh lồi dọc và nhiều gai nhỏ mềm, chỉ có 1 hạt. Cây nguyên sản ở châu Mỹ, được nhập trồng nhiều ở Tam Đảo và một số vùng khác. Quả xào nấu thay rau, còn dùng làm thuốc giải nhiệt.
- Mướp khía, mướp tàu(Luffa acutangula Roxb.):quả màu lục thẫm, có những cạnh lồi dọc nổi rõ rất to, ăn thơm ngon.
Ngoài những loài cây trồng kể trên, trong họ còn gặp nhiều loài cây mọc dại ở ta, trong đó có cây đại hái hay mỡ lợn (Hodgsonia macrocarpa (Bl.) Cogn.) là loài dây leo khỏe, quả hình cầu to, hạt chứa nhiều dầu, có thể ép lấy dầu ăn thay mỡ lợn, cây thường mọc nơi sáng ở cửa rừng.
Bộ Bông khá đa dạng về dạng sống: phần lớn là cây thân gỗ, cây bụi, có khi là cây thân thảo, lá mọc cách và có lá kèm. Mạch có bản ngăn đơn. Có tế bào hoặc ống có tiết chất nhày. Có nhiều sợi libe trong vỏ. Biểu bì có lông đa bào phân nhánh. Hoa đều, lưỡng tính hay đơn độc hay tập hợp thành cụm hoa. Mẫu 5, bao hoa 2 vòng. Bộ nhị thường có chỉ nhị dính nhau tạo thành bó đơn thể hay đa thể. Lá noãn hợp thành bầu trên nhiều ô, đính noãn trụ giữa. Chung quanh gốc bầu có tuyến mật.
Bộ Bông đi ra từ bộ Hoa tím, nó có nhiều đặc điểm với họ Mùng quân trong Bộ này. Bộ Bông có 16 họ (1. Muntingiaceae, 2. Tiliaceae, 3. Dipterocarpaceae, 4. Monotaceae, 5. Sarcolaenaceae, 6. Neuradaceae, 7. Sterculiaceae, 8. Diegodendraceae, 9. Sphaerosepalaceae, 10. Bombacaceae, 11. Malvaceae, 12. Bixaceae, 13. Cochlospermaceae, 14. Cistaceae, 15. Tepuianthaceae, 16. Thymelaeaceae), ở nước ta gặp 6 họ: họ Quả hai cánh, họ Côm, họ Bông, họ Gạo, họ Đay và họ Trôm.
Họ Quả hai cánh/họ Dầu (Dipterocarpaceae)
Họ gồm cáccây gỗ lớn, thân thẳng, phân cành muộn, trong thân có ống tiết nhựa dầu (dùng để trát thuyền). Lá đơn, mọc cách, lá kèm sớm rụng. Hoa đều, mẫu 5. Đài gồm 5 lá đài rời hay dính ở dưới, khi hình thành quả, một số mảnh lớn lên cùng với quả làm thành cánh của quả (thường 2 cánh). Tràng gồm 5 cánh, tiền khai hoa vặn. Bộ nhị nhiều, có 15 nhị, ít khi 5 hoặc có khi nhiều hơn, chỉ nhị rời hay dính lại ở dưới. Bầu trên, 3 ô, mỗi ô có 2 noãn đảo, có khi bầu dính với ống đài thành bầu dưới. Quả 2-5 cánh. Hạt thường không có nội nhũ.
Công thức hoa: * K(5) C5 A15 G(3)
Họ Dầu có 22 chi với trên 400 loài. Ở ta có 6 chi với 45 loài, phân bố nhiều ở Tây Nguyên và đảo Phú Quốc. Nhiều đại diện là những cây gỗ tốt, được xếp vào loại “thiết mộc”, dùng đóng tàu thuyền, làm cầu và các công trình xây dựng.
- Dầu nước/ Dầu con rái/ dầu cà boong (Dipterocarpus alatus)
- Chò nâu (Dipterocarpus retusus)
- Dầu bao (Dipterocarpus baudii)
Họ Bông (Malvaceae)
Họ gồm các cây thân gỗ nhỏ, cây bụi hoặc cây thân thảo.Lá mọc cách, lá đơn, nguyên hay chia thùy, hoặc lá kép chân vịt, luôn luôn có kèm, đôi khi sớm rụng. Thân và lá thường có lông đa bào. Mạch thủng lỗ đơn. Vỏ có nhiều sợi libe. Hoa thường mọc đơn độc ở nách lá, có khi họp thành cụm hình xim. Hoa lưỡng tính, đều, mẫu 5. Lá bắc của hoa luôn luôn xếp vòng ngay dưới đài, tạo thành đài phụ. Đài 5, tiền khai vặn. Tràng 5 cánh rời hay dính với ống nhị. Bộ nhị gồm chỉ nhị hợp thành ống bao quanh nhụy (gọi là nhị đơn thể). Bộ nhụy gồm 2 - 5 hoặc nhiều lá noãn tạo thành bầu trên 2 đến nhiều ô. Đính noãn trụ giữa. Quả khô mở. Hạt thường có lông màu trắng, nội nhũ dầu.
Công thức hoa chung: * K’3-7 K(5) C5 A∞ G(5)
Họ Bông có khoảng 90 chi, 1570 loài. Ở nước ta có gần 17 chi với 65 loài và có nhiều loài có giá trị.
- Bông vải (Gossypium herbaceum L.)
- Dâm bụt (H. rosa-sinensis L.):
- Tra làm chiếu (H. tiliaceus L.)
Trước đây bộ Gai được xếp vào phân lớp Sau sau. Bộ gồm các đại diện thân gỗ hay thân thảo, lá đơn, mọc cách, thường có lá kèm. Trong lá và thân có tế bào đá. Cây có ống nhựa mũ hay không, yếu tố mạch có bản ngăn thủng lỗ đơn. Hoa nhỏ, đơn tính hay lưỡng tính, thành phần hoa có xu hướng tiêu giảm số lượng. Nhị mọc đối diện với lá đài, hạt phấn có từ 2 - nhiều lỗ. Bộ nhụy gồm 2 lá noãn hợp thành bầu trên 1 ô chứa 1 noãn. Quả đóng, quả hạch hay quả phức. Thụ phấn nhờ gió, ít khi nhờ sâu bọ. Bộ Gai có 5 họ (1. Ulmaceae, 2. Moraceae, 3. Cannabaceae, 4. Cecropiaceae, 5. Urticaceae), ở ta gặp 4 họ: Họ Du (Ulmaceae), Họ Dâu tằm (Moraceae), Họ Gai mèo (Cannabaceae), Họ Gai (Urticaceae).
Họ Dâu tằm (Moraceae)
Họ gồm các cây gỗ thường xanh hay rụng lá hoặc cây thân bụi. Lá đơn, mọc cách, có lá kèm bọc lấy chồi, sớm rụng để lại vết sẹo, trong lá thường có tế bào đá. Thân và lá có nhựa mũ trắng như sữa. Nhiều loài trong họ có rễ phụ mọc ra từ cành cắm xuống đất (chi Ficus). Một số loài Ficus bám trên các cây to khác, đâm nhiều rễ phụ bao qunah thân cây chủ gây hiện tượng “thắt nghẹn” lâu dần làm chết cây chủ. Hoa đơn tính cùng gốc hay khác gốc, họp thành cụm hoa xim, đuôi sóc hay hình đầu nằm trên 1 trục chung lồi (mít, dâu tằm) hay lõm (sung, ngái). Bao hoa gồm 2-4 mảnh. Số nhị bằng số mảnh bao hoa và nằm đối diện bao hoa. Bộ nhụy gồm 2 lá noãn, 1 sớm tiêu giảm, bầu 1 ô chứa 1 noãn đảo hay cong, bầu trên đôi khi là bầu dưới. Quả phức do nhiều quả đơn dính lại. Hạt đôi khi không có nội nhũ.
Công thức hoa chung: ♂ P4 A4 ♀ P4G(2)
Dâu tằm là một họ lớn, gồm có 60 chi, 1550 loài, phân bố ở các nước nhiệt đới, một số ít ở ôn đới. Ở Việt Nam hiện biết trên 10 chi và 136 loài, phân bố rộng rãi khắp nơi, nhiều loài có giá trị kinh tế cao.
- Mít (Artocarpus heterophyllus Lamk.): Loài cây ăn quả rất quen thuộc ở khắp các vùng nông thôn nước ta, có 2 thứ: mít dai, mít mật. Mỗi múi mít và gai mít ứng với một hoa, xơ mít là do các lá bắc và bao hoa của các hoa không được thụ tinh tạo nên. Gỗ màu vàng chanh, tốt, dùng đóng đồ đạc và làm cột nhà.
- Sung (Ficus racemosa L.): Quả phức, đế lõm, ăn được. Nhựa và vỏ cây dùng làm thuốc chữa chốc đầu, nhọt, bỏng. Quả sung mọc thành từng chùm ở thân, ăn được, có thể muối như muối dưa, khi ăn dùng nó kho với thịt, cá. được sử dụng làm bonsai...
- Vả (Ficus auriculata Lour.): Lá to, gần như tròn; quả to, khi chín có màu đỏ tía, ăn ngọt.
- Dâu tằm (Morus alba L.): cây nhỏ, lá đơn có khi xẻ thùy, mép có răng. Quả phức gồm nhiều quả nhỏ có các mảnh bao hoa mọng nước, khi chín chuyển sang màu hồng rồi màu mận chín. Cây trồng phổ biến ở vùng đồng bằng lấy lá nuôi tằm, quả ăn được.
Họ Gai (Urticaceae)
Họ gồm các đại diện thân thảo hoặc thân bụi. Lá thường có lá kèm, lá mọc cách hay gần như mọc đối; trên cùng một cây có thể gặp cả hai cách đính này. Phiến nguyên hay có thùy, gân lá hình chân vịt hoặc đôi khi hình lông chim. Cụm hoa thông thường là xim nhưng cũng có thể là chùm hay gié. Hoa đơn tính cùng gốc hay khác gốc, không có cánh hoa. Hoa đực có 4 – 5 lá đài màu xanh. Ở hoa cái, các phiến này có thể rời hay hơi dính nhau ở đáy. Hoa đực có 4 – 5 nhị và mọc đối diện với các lá đài. Chỉ nhị cong trong nụ hoa. Khi hoa nở, chỉ nhị bung ra rất mạnh để phát tán hạt phấn nhờ gió. Hoa cái có dấu vết của nhị là những vảy nhỏ nằm đối diện với lá đài. Hoa cái có 1 lá noãn tạo thành bầu trên, 1 ô, 1 noãn thẳng đính ở đáy. Quả bế, thường được bao bọc bởi lá đài còn lại và ít nhiều đồng trưởng. Hạt có nội nhũ dầu, mầm thẳng.
Nhiều cây có lông làm ngứa. Phiến lá thường chứa bào thạch. Sợi libe rất dài, ít tẩm chất gỗ, có thể dùng trong kỹ nghệ dệt. Không có ống nhựa mủ. Ở Việt Nam có trên 20 chi: Archiboehmeria, Boehmeria, Chamabainia, Debregeasia, Dendrocnide, Elatostema, Girardinia, Laportea (Fleurya), Lecanthus, Maoutia, Memorialis, Meniscogyne, Nanocnide, Neodistemon (Distemon), Oreocnide, Parietaria, Pellionia, Petelotiella, Pilea, Pouzolzia, Procris, Urtica, Villebrunea với gần 100 loài.
- Gai: Boehmeria nivea (L.) Gaud.. Cây trồng để lấy sợi và lấy lá làm bánh gai. Ngoài ra còn là nguyên liệu chế vitamin C, chữa ho, tiểu ra máu.
- Bọ mắm rừng: Pouzolzia sanguinea (Blume) Merr.. Lợi tiểu, chữa ho.
- Thuốc vòi (Bọ mắm, Thuốc dòi): Pouzolzia zeylanica (L.) Benn.. Dùng làm thuốc trừ dòi bọ, chữa bệnh ho, nhiễm trùng tiết niệu, làm lợi tiểu.
Bộ Thầu dầu là bộ rất đa dạng về dạng sống: cây gỗ lớn, gỗ nhỏ, cây bụi và cây thân thảo. Phần lớn có lá mọc cách, lá đơn, nguyên hay chia thùy hoặc lá kép. Có lá kèm. Mạch có bản ngăn đơn. Hoa đơn tính, thường không có cánh hoa; một số có 2 vòng bao hoa. Bộ nhị rời hoặc có chỉ nhị dính nhau nhiều hay ít. Bộ nhụy thường có 3 lá noãn hợp. Quả nang, quả mọng hay quả hạt. Thụ phấn nhờ côn trùng, đôi khi nhờ gió. Bộ Thầu dầu có chung nguồn gốc với bộ Bông. Các đại diện nguyên thủy của bộ thể hiện mối quan hệ với bộ Bông và cả bộ Hoa tím. Bộ này đi ra từ dạng nguyên thủy nào đó nằm giữa bộ Hoa tím và bộ Bông. Bộ gồm 5 họ (1. Phyllanthaceae, 2. Putranjivaceae, 3. Picrodendraceae, 4. Euphorbiaceae, 5. Pandaceae)
Họ Thầu dầu (Euphorbiaceae)
Là một họ lớn và rất đa dạng: cây thân gỗ, thân bụi, thân thảo và dạng cây mọng nước chứa đầy nhựa mũ trắng như sữa. Lá đơn nguyên, thướng có lá kèm ở hai bên. Phiến lá thường biến dạng. Một số đại diện có thân làm nhiệm vụ quang hợp. Hoa tập hợp thành cụm hoa xim 2 ngã và từ đó hình thành cụm hoa chùm, chùy. Hoa đơn tính cùng gốc hay khác gốc, hoa đều hay gần đều. Bao hoa kép hoặc không có cánh tràng. Bộ nhị gồm5 - 10 hoặc tiêu giảm chỉ còn 1 nhị. Hoa cái có nhị lép hay không. Bộ nhụy gồm 3 lá noãn, ít khi 2 hoặc 4 có khi nhiều. Quả nang mở bằng 3 mảnh nên còn gọi là họ ba mảnh vỏ. Đôi khi còn có dạng quả mọng hay quả hạch.
Công thức hoa thay đổi nhiều:
Ở chi Ricinus: K5 C0 A∞
K5 C0 G(3)
Ở chi Euphorbia: K0 C0 A1
K0 C0 G(3)
Họ có gần 290 chi và 7500 loài. Ở nước ta có 80 chi, gần 460 loài.
- Dâu da (Baccaurea ramiflora):Quả có vị hơi chua, ăn được. Cây được trồng lấy quả hay mọc hoang trong rừng.
- Xương rắn (Euphorbia milii Ch. Des Moulins):Cây được trồng làm cảnh để trang trí và giữ đất.
- Trạng nguyên hay nhất phẩm hồng (Euphorbia pulcherrima): được trồng làm cảnh ở khắp nơi.
- Cao su (Hevea brasilinesis):Cây có nhựa mũ trắng là nguyên liệu quan trọng trong công nghiệp chế tạo cao su, được trồng nhiều ở Nam bộ để khai thác nhựa mũ.
- Sắn hay Củ mì (Manihot esculenta Crantz.):Rễ củ chứa nhiều tinh bột, được dùng như lương thực phụ của nông dân. Cây trồng phổ biến ở khắp nơi.