Hầu hết nấm cổ đều sống trong đất, bùn hoặc trong môi trường nước, một số sống ký sinh trên thực vật hoặc sống hoại sinh. Sinh sản bằng động bào tử 1 roi. Thành tế bào nhiều loài chứa chitin và cellulose. Cơ thể dinh dưỡng khá đơn giản, chưa có sự phân hóa thành cơ quan sinh dưỡng và sinh sản. Cơ thể dinh dưỡng hệ sợi không có vách ngăn, vách ngăn chỉ hình thành khi sinh sản. Cơ thể dinh dưỡng, toàn bộ cơ thể đều hình thành tế bào sinh sản hoặc cơ quan sinh sản được hình thành từ một phần của tế bào phía trên rễ giả. Cơ thể nấm cổ gồm hầu hết chứa nhiều nhân đơn bội. Tuy nhiên ở bộ Blastocladiales thể giao tử chứa nhân đơn bội và thể bào tử chứa nhân lưỡng bội. Tuy hiên về hình thức sinh sản giữa chúng có sự giống nhau. Sự sinh sản hữu tính bắt đầu với quá trình giảm phân của nhân.
Ở Monoblepharis: Sinh sản vô tính – sợi nấm đơn bội phân nhánh hình thành túi động bào tử, mang động bào tử có 1 roi. Động bào tử phát tán, sống một thời gian rồi rụng roi nảy mầm thành sợi nấm.
Sinh sản hữu tính: Đầu sợi nấm hình thành cặp cơ quan sinh sản. Cơ quan sinh sản đực chứa các giao tử đực có một roi, cơ quan sinh sản cái có một trứng. Khi giao tử đực chui vào cơ quan sinh sản cái thì kết hợp chất nguyên sinh đến kết hợp nhân để hình thành hợp tử. Hợp tử nghỉ một thời gian, phân chia giảm nhiễm hình thành sợi nấm.
Cơ thể dinh dưỡng dạng sợi phân nhánh, không có vách ngăn, mang nhiều nhân đơn bội. Vách chỉ tạo ra để phân biệt cơ quan sinh sản với sợi nấm. Cơ thể sinh dưỡng gồm hệ sợi khí sinh và hệ sợi cơ chất. Hệ sợi cơ chất ăn vào giá thể làm nhiệm vụ hấp thu chất dinh dưỡng. Hệ sợi khí sinh phát triển trên bề mặt của giá thể. Hệ sợi của các đại diện trong ngành nấm tiếp hợp không hình thành thể quả. Vách tế bào bằng chitin và chitosan (Bartnicki-Garcia, 1968, 1987). Ngoài ra ở một số đối tượng còn có poly-D-glucuronides, polyphosphates, proteins, lipids, purines, pyrimidines, magnesium và calcium. Vách tế bào của ngành nấm tiếp hợp không có glucan.
Các đại diện trong ngành phân bố rộng rải, đa số sống hoại sinh trong đất, phân động vật, thực phẩm giàu tinh bột, một số ký sinh trên động vật, thực vật hoặc nấm.
Nấm tiếp hợp sinh sản vô tính bằng bào tử không chuyển động (aplanospores): bào tử nội sinh (endospore) hay bào tử đính (conidia), bào tử đính thường gặp ở Choanephora bộ nấm mốc Mucorales hoặc bộ Zoopagales. Sinh sản hữu tính theo hình thức tiếp hợp (Zygogamy). Sự tiếp hợp diễn ra giữa 2 tế bào sinh sản (được tạo ra do sự hình thành vách ngăn với sợi nấm). Quá trình tiếp hợp có thể diễn ra trên cùng một hệ sợi nấm (đồng tản- chỉ một số ít loài như: Rhizopus sexualis, Syzygites megalocarpus, Zygorhynchus moelleri và Absidia spinosa) hoặc trên 2 hệ sợi nấm khác nhau (dị tản).
Hệ sợi nấm có sự phân tính chưa rõ rảng, chúng gồm hệ sợi “+” và hệ sợi “–”. Từ hệ sợi nấm hình thành các mấu lồi, mỗi mấu lồi hình thành vách ngăn với hệ sợi dinh dưỡng tạo thành tế bào mang nhiều nhân. Khi 2 tế bào tiếp xúc với nhau tại điểm tiếp xúc, màng 2 tế bào hòa tan vào nhau. Chất nguyên sinh giữa 2 tế bào kết hợp với nhau, nhân trong lúc này tồn tại ở dạng song nhân (n+n), tiếp đó nhân của 2 tế bào kết hợp với nhau thành từng cặp tạo thành nhân lưỡng bội(2n), tế bào tiếp hợp tạo thành tiếp hợp tử. Tiếp hợp tử được bao bọc bởi hệ sợi nấm và trải qua giai đoạn nghỉ ngắn. Qua thời gian nghỉ, các nhân lưỡng bội phân chi giảm nhiễm tạo thành các nhân đơn bội. Từ hợp tử hình thành cuống bào tử và túi bào tử. Túi bào tử hình thành bào tử (bào tử hữu tính) và giải phóng ra môi trường.
Ngành nấm túi là ngành nấm lớn trong giới nấm với khoảng 32000 loài với 3400 chi. Chúng sống hoại sinh hoặc ký sinh trên thực vật động vật và con người.
Cơ thể dinh dưỡng là dạng sợi phân nhánh phức tạp, có vách ngăn thủng lỗ đơn giản. Ở một số đối tượng sợi nấm đứt đoạn tạo thành các dạng đơn bào chứa một hay nhiều nhân như nấm men. Cơ thể sinh dưỡng gồm hệ sợi cơ chất và hệ sợi khí sinh. Thể quả được hình thành do hệ sợi bện lại tạo thành, hệ sợi tham gia hình thành thể quả gồm sợi đơn bội và sợi song nhân.
Nấm túi sinh sản sinh dưỡng bằng sự phân đôi tế bào, nảy chồi, đứt đoạn sợi nấm, bào tử đốt, bào tử màng dày. Sinh sản vô tính bằng bào tử đính. Sinh sản hữu tính bằng bào tử túi. Trong túi bào tử thường hình thành 8 bào tử đôi khi 4 hoặc nhiều hơn.
Sự phân hóa về mặt giới tính ở nấm túi chưa rõ ràng. Hệ sợi khác tính được ghi nhận là sợi + và -.
Ở loài Pyronema domesticum Bào tử + này mầm thành hệ sợi + đơn bội có vách ngăn, bào tử - nảy mầm thành hệ sợi -. Từ hệ sợi hình thành cơ quan sinh sản đực và cái tương ứng với hệ sợi + và hệ sợi -. Hai cơ quan sinh sản tiếp xúc và kết hợp với nhau. Quá trình giao phối bắt đầu từ sự kết hợp nội chất từ 2 cơ quan sinh sản, tiếp đó các nhân tồn tại với nhau thành từng cặp + và – tồn tại ở dạng song nhân. Từ cơ quan sinh sản cái hình thành các mấu, dài ra tạo thành các hệ sợi có vách ngăn, mỗi tế bào gồm 2 nhân tồn tại song song. Hệ sợi song hạch này phân nhánh và phát triển thành hệ sợi cơ chất và hình thành quả thể. Thể quả có tầng sinh sản, là nơi tập trung các tế bào đầu mút của hệ sợi. Tế bào đầu cùng của sợi nấm song nhân trong hệ sợi tham gia quá trình hình thành các túi bào tử. Hai nhân trong tế bào này nguyên phân tạo thành 4 nhân đơn bội, chúng hình thành vách ngăn tạo ra 3 tế bào: tế bào gốc mang 1 nhân, tế bào khuỷu mang 2 nhân tồn tại song song, tế bào mấu mang 1 nhân. Tế bào mấu cong xuống tiếp xúc với tế bào gốc, màng 2 tế bào hòa tan vào nhau, nhân từ tế bào mấu đổ vào tế bào gốc. Tế bào gốc trở thành dạng song nhân và tế bào mấu chỉ còn lại tế bào không nhân gọi là khóa. Từ tế bào khuỷu, 2 nhân kết hợp với nhau tạo thành dạng lưỡng bội. Nhân lưỡng bội tiếp tục phân chia giảm nhiễm tạo thành 4 nhân đơn bội, 4 nhân này nguyên phân tiếp tục tạo thành 8 nhân đơn bội. Tế bào khuỷu phát triển lớn lên tạo thành túi bào tử, các nhân được hình thành vách ngăn tạo thành các bào tử. Đối với nấm túi, hệ sợi song nhân được hình thành từ sự giao phối của 2 cơ quan sinh sản.
Đối với nấm men sự sinh sản hữu tính diễn ra khi có sự tác động môi trường gây shock như nhiệt độ. Khi đó, 2 tế bào đơn bội kết hợp với nhau tạo thành tế bào lưỡng bội. Tế bào này có thể tồn tại ở dạng sinh dưỡng hoặc giảm phân tạo thành các bào tử đơn bội. Bào tử đơn bội hình thành dạng sống dinh dưỡng đơn bội.
Ngành gồm các đại diện có cơ thể sinh dưỡng đa bào, phân nhánh có vách ngăn ngang. Vách ngăn giữa các thế bào thủng lỗ phức tạp gồm có gờ và nắp. Hệ sợi bện lại thành thể quả rất đa dạng về mặt hình thái. Giai đoạn song nhân chiếm ưu thế. Không có cơ quan sinh sản như ở nấm túi. Vách tế bào bằng chitin và glucan ngoài ra còn có pectin…số nhiễm sắc thể trong tế bào ít, thường 2,4,6. Sinh sản sinh dưỡng bằng đoạn sợi nấm, mô nấm, bào tử đốt. Sinh sản vô tính bằng bào tử đính. Sinh sản hữu tính bằng bào tử đảm. Bào tử đảm được hình thành ở ngoài đảm thường có 4 bào tử. Phân bố rộng rãi trong thiên nhiên, hoại sinh trên gỗ, đất, ký sinh trên thực vật.
Các bào tử nấm về hình thái rất giống nhau nhưng có sự phân biệt về mặt sinh lý. Bào tử + và bào tử - khi phát tán gặp điều kiện thuận lợi nảy mầm thành sợi nấm đơn bội + và – gọi là sợi sơ cấp. Hai sợi nấm khác tính tiếp xúc và kết hợp với nhau tạo thành sợi nấm song nhân còn gọi là sợi nấm thứ cấp. Sợi thứ cấp bện lại tạo thành thể quả và đầu sợi song nhân diễn ra quá trình hình thành đảm là cơ quan sinh bào tử đảm. Tế bào đầu sợi song nhân phân chia nhân, trên tế bào hình thành mấu lồi hướng về phía gốc của tế bào. Một nhân đi vào trong mấu, sau đó 2 nhân phân chia tạo thành 4 nhân đơn bội gồm 1 nhân ở trong mấu, một nhân ở phía gốc và 2 nhân ở phía đỉnh. Tế bào đầu sợi này hình thành vách ngăn tạo thành 3 tế bào: tế bào gốc 1 nhân, tế bào mấu 1 nhân và tế bào khuỷu 2 nhân. Tế bào mấu cong xuống tiếp xúc với tế bào gốc, màng 2 tế bào hòa tan vào nhau, nhân từ tế bào mấu đổ vào tế bào gốc tạo thành tế bào song nhân. Khi hình thành đảm, 2 nhân tế bào khuỷu kết hợp với nhau tạo thành nhân lưỡng bội. Nhân này tiếp tục phân chia giảm phân tạo thành 4 nhân đơn bội. Tế bào phát triển lớn lên, phía đỉnh hình thành 4 mấu (thể bình), mỗi nhân chui vào mỗi mấu và phát triển thành bào tử đảm. Tùy theo cách hình thành đảm và vách ngăn mà có đảm đơn bào, đa bào. Mỗi đảm thường hình thành 4 bào tử, tuy nhiên cũng có đảm hình thành 1 bào tử (Itersonilia perplexans), 2 bào tử (Agaricus bisporus) và nhiều hơn 4 bào tử như Phallus impudicus (với 9 bào tử).