Phân lớp gồm các cây thân thảo,với nhiều đại diện có thân hành,một số ít dạng thân gỗ đặc biệt.Hoa có cấu tạo thích nghi với lối thụ phấn nhờ sâu bọ và nhờ gió. Bao hoa phát triển, đài và tràng ở nhiều đại diện thường không phân biệt. Hạt phấn thường có hai rãnh, lá noãn hợp. Phân lớp Hành là một nhóm rất quan trọng,hiện có 16 bộ.Trong phân lớp, trung tâm là Bộ Hành từ đó cho ra các Bộ khác của phân lớp thuộc các dòng tiến hoá khác nhau.
Phần lớn các cây trong bộ Hành là thân thảo, thường sống nhiều năm. Hoa đều, bao hoa hai vòng thường có dạng tràng, một số ít có dạng đài. Nhị 6, xếp 2 vòng, thường nằm đối diện với các mảnh bao hoa. Bộ nhụy gồm 3 lá noãn, hợp thành bầu trên 3 ô, mỗi ô chứa nhiều noãn, noãn đảo có hai hoặc một vỏ.
Bộ có 7 họ (1. Campynemataceae, 2. Colchicaceae, 3. Tricyrtidaceae, 4. Scoliopaceae, 5. Calochortaceae, 6. Liliaceae, 7. Medeolaceae).
Họ Hành (Liliaceae)
Họ gồm các cây thân thảo, sống nhiều năm nhờ thân hành. Lá đơn nguyên, thông thường không có cuống, phiến hình dải; gân lá song song hay hình cung, Allium có lá hình ống. Hoa đôi khi mọc đơn độc và đính ở ngọn, cụm hoa thường dạng chùm, xim ở ngọn thân. Tán giả của các cây Hành, Tỏi thật ra chỉ là những xim một ngả thu gọn và bao bọc bởi một mo. Hoa đều, lưỡng tính. Hoa đơn tính vì tiêu giảm thành phần nhị hoặc nhụy rất hiếm gặp. Thông thường hoa mẫu 3, hiếm gặp mẫu 4. Bao hoa dạng tràng (khó phân biệt đài tràng) gồm 6 phiến dạng tràng hoa xếp trên 2 vòng. Các phiến của bao hoa có thể rời hay hợp ở đáy thành một ống, bên trên chia thành 6 thùy. Bộ nhị gồm 6 nhị xếp 2 vòng. Nhị đính trên đế hoa (trường hợp các phiến của bao hoa rời) hoặc đính trên ống bao hoa (trường hợp các phiến của bao hoa dính liền). Bao phấn đính gốc hay đính lưng, mở dọc, hướng trong hay hướng ngoài. Màng hạt phấn có một rãnh. Bộ nhụy gồm 3 lá noãn hợp thành bầu trên có 3 ô, ít khi bầu giữa hay dưới, mỗi ô nhiều noãn, đính noãn trung trụ. Noãn đảo, ít khi thẳng. Vòi nhụy có thể rời hay dính liền nhau. Quả nang, ít khi quả mọng. Hạt có nội nhũ protein hay dầu, không có nội nhũ tinh bột. Phôi thẳng.
Họ Liliaceae, theo một số tác giả chỉ có chi Lilium.
- Kiệu: Allium bakeri Regel. (Allium chinense G.Don., Allium bodinieri H.Lév. & Vaniot, Allium martini H.Lév. & Vaniot, Allium splendens Miq., Caloscordum exsertum Herb.) Trị tiểu dắt, lỵ, nhức đầu, đau dạ dày.
- Hành tây: Allium cepa L.. Trị suy nhược cơ thể và thần kinh.
- Hẹ: Allium odorum L.. Trị hen suyễn nặng, lỵ ra máu, ra mồ hôi trộm. Rễ tẩy giun kim.
- Tỏi ta: Allium sativum L.. Trị cảm mạo, lỵ amíp, lỵ trực khuẩn, mụn nhọt, tiểu đường, xơ cứng động mạch, đau màng óc, huyết áp cao, ngừa ung thư.
Bộ gồm các đại diện thân thảo một năm hoặc nhiều năm, có thân rễ, thân củ hay thân hành, một số sống hoại sinh. Lá thường mọc sát đất và xếp thành hai dãy. Cụm hoa hình xim, lưỡng tính, ít khi đơn tính.
Bộ có 7 họ (1. Ixioliriaceae, 2. Walleriaceae, 3. Tecophilaeaceae, 4. Cyanastraceae, 5. Doryanthaceae, 6. Geosiridaceae, 7. Iridaceae), chỉ đề cập 1 họ.
Họ Lay ơn (Iridaceae)
Họ gồm các đại diện thân thảo, sống nhiều năm nhờ thân rễ, hành hay củ. Lá không cuống, mọc từ gốc, mọc cách và xếp thành 2 dãy. Phiến lá dài và hẹp như gươm. Lá gập đôi theo chiều dọc, lá phía ngoài úp lên lá phía trong (tiền khai cưỡi). Cụm hoa dạng bông, xim zigzag hay chùm trên ngọn của trục phát hoa. Hoa đều hay không đều, lưỡng tính, mẫu 3. Ở gốc của mỗi hoa có 1 lá bắc và 1 lá bắc con dựa trục. Bao hoa dạng tràng gồm 6 phiến cùng màu dạng cánh hoa xếp trên 2 vòng, dính nhau ở đáy thành ống ngắn. Bộ nhị gồm 6 nhị. Chỉ nhị đính trên bao hoa, 3 nhị thuộc vòng ngoài hữu thụ, 3 nhị vòng trong thường bất thụ hoặc tiêu giảm. Bao phấn hướng ngoài. Bộ nhụy gồm 3 lá noãn tạo thành bầu dưới, 3 ô, mỗi ô chứa nhiều noãn, đính noãn trung trụ, 3 đầu nhụy phát triển thành hình phiến, đôi khi to và có màu như cánh hoa. Quả nang, nứt lưng. Hạt có nội nhũ.
Ở Việt Nam có 7–8 chi: Belamcanda, Crocosmia, Eleutherine, Freesia, Gladiolus, Iris, Trimezia, Tritonia; có khoảng 7–8 loài.
- Rẻ quạt (Xạ can): Belamcanda chinensis (L.) DC.. Trồng làm cảnh và làm thuốc chữa viêm họng.
- Sâm đại hành: Eleutherine bulbosa (Mill.) Urb.. Thân hành dùng làm thuốc cầm máu, sát khuẩn và làm thuốc bổ. Dùng ngoài chữa trốc đầu, tổ đỉa, vảy nến.
- La dơn: Gladiolus hybridus Hort.
- Nghệ hương: Tritonia crocosmaeflora (Lem.) Nich.
Bộ chỉ có 5 họ (1. Blandfordiaceae, 2. Asteliaceae, 3. Lanariaceae, 4. Hypoxidaceae, 5. Orchidaceae)
Họ Lan (Orchidaceae)
Các loài trong họ có dạng thân thảo, sống nhiều năm nhờ thân giò hay thân rễ có thể phình thành củ. Thân giò được hình thành do phần phân dưới lá hoặc gióng phình lên đôi khi gọi là hành giả. Thân ngắn hoặc dài vô hạn định, đôi khi phân nhánh. Thường thân có mang lá nhưng đôi khi thân không có lá. Có những loại thân quấn. Rễ khí sinh phát triển mạnh, màu lục phía ngoài có lớp mô xốp (Lan phụ sinh, Lan leo). Lớp mô xốp có nhiệm vụ hấp thu nước của không khí, tích trữ nước mưa và tạo xung quanh rễ một lớp nước che chở. Lá có hình thái đa dạng. Các loại lan địa sinh có lá mọc cách, có cuống hay không có cuống, phiến rộng, gân song song. Lan phụ sinh có lá mập mang bởi những thân mà gióng có thể phù thành hành giả. Đôi khi lá thu hẹp thành vảy. Có những loại có lá xếp thành 2 dãy. Cụm hoa dạng chùm, mọc ở ngọn thân (Lan địa sinh) hay ở nách lá (Lan phụ sinh). Ít khi là hoa đơn độc ở nách lá; không bao giờ là hoa đơn độc ở ngọn thân. Mỗi hoa mọc ở nách một lá bắc, không có lá bắc con. Cuống hoa ngắn. Hoa thường lưỡng tính, không đều. Bao hoa gồm 3 lá đài, rời, đều, dạng tràng và thường nhỏ hơn cánh hoa. Tràng gồm 3 cánh hoa không giống nhau, 2 cánh bên thường giống lá đài, cánh hoa sau biến đổi thành cánh môi, dùng làm chỗ đậu cho sâu bọ. Bộ nhị có số lượng thay đổi, có những loại lan có 5, 4 hoặc 3 nhị. Sự giảm từ từ đưa đến chỗ hoa còn 2 (Lan hài thần vệ nữ) hay 1 nhị. Trong đa số trường hợp hoa chỉ còn 1 nhị đối diện với cánh môi. Nhị này có chỉ chị dính vào vòi nhụy tạo thành trục hợp nhụy (cột nhị nhụy). Bình thường bao phấn có 2 ô nhưng có thể 1 ô (do sự dính liền tạo ra). Hạt phấn ít khi rời nhau (Lan hài thần vệ nữ) mà dính nhau thành cụm bốn hạt phấn (dạng tetrad) hoặc tất cả hạt phấn của 1 ô phấn dính nhau thành một khối phấn. Mỗi khối phấn được mang bởi đầu vỉ phấn (chuôi) dính vào một gót nhầy dính (retinacle). Hai khối phấn được ngăn cách bởi trung đới. Khối phấn thường được đậy bởi mỏ bất thụ (do một đầu nhụy biến đổi thành),khi hạt phấn chín, mỏ bất thụ bong ra. Ở vài loài Lan, mặt ngoài khối phấn được bao bọc bởi một lớp sáp. Bộ nhụy gồm 3 lá noãn tạo thành bầu dưới 1 ô, mang nhiều đính noãn bên. Tận cùng trục nhị nhụy là 3 đầu nhụy, nhưng chỉ có 2 đầu nhụy hai bên là hữu thụ, thường xếp đứng thẳng hoặc đặt ở mặt dưới một cái mỏ cong về phía trước. Đầu nhụy thứ ba biến đổi thành mỏ bất thụ, ngăn cách bao phấn với các đầu nhụy hữu thụ. Ở gốc mỏ là 2 túi con đựng gót dính của các phấn khối. Sự thụ phấn nhờ côn trùng. Quả nang, mở bằng 6 đường nứt dọc hai bên đường hàn của mép lá noãn thành 6 mảnh. Hạt nhỏ, nhiều, không có nội nhũ, mầm chưa phân hoá. Hạt nảy mầm nhờ sự cộng sinh với nấm Rhizoctonia.
Ở Việt Nam có trên 130 chicó khoảng 800 loài.
- Lan gót tiên: Paphiopedilum delanatii Guill.
- Lan lưỡi bò (Ngọc điểm): Rhynchostylis gigantea (Lindl.) Ridl.
- Sâm cuốn chiếu (Lan cuốn chiếu): Spiranthes sinensis (Pers.) Ames. hay S. australis (R. Br.) Lindl.. Dùng làm thuốc bổ, trị suy nhược thần kinh, viêm họng.
- Lan đất (Địa lan, Cau diệp tím): Spathoglottis plicata Blume
Bộ có 15 họ (1. Hemerocallidaceae, 2. Phormiaceae, 3. Xeronemataceae, 4. Asphodelaceae, 5. Xanthorrhoeaceae, 6. Anthericaceae, 7. Anemarrhenaceae, 8. Hyacinthaceae, 9. Agavaceae, 10. Themidaceae, 11. Agapantaceae, 12. Alliaceae, 13. Amaryllidaceae, 14. Herreriaceae, 15. Aphyllanthaceae)
Họ Thủy tiên (Amaryllidaceae)
Các đại diện trong học có thân hành hay thân rễ, sống nhiều năm. Lá mọc từ gốc, mỏng hay mọng nước, gân lá song song. Ở Crinum, các bẹ lá hợp thành một thân giả cao 10–15 cm. Cụm hoa dạng chùm, tán, ít hay nhiều hoa và có một lá bắc tổng baobọc lại. Trục cụm hoa dài mọc từ mặt đất. Hoa đều, lưỡng tính, mẫu 3. Bao hoa dạng tràng gồm 6 phiến cùng màu với cánh hoa, bao hoa hợp thành ống dài, ít khi rời. Vài loại có tràng phụ. Theo Eichler, tràng phụ này do các lưỡi nhỏ của cánh hoa dính liền nhau tạo thành. Còn theo Baillon, nó tương đương với đĩa mật của hoa. Bộ nhị thường gồm 6 nhị xếp 2 vòng. Chỉ nhị rời hay dính nhau. Bao phấn thẳng hay đính giữa(đính lắc lư). Bộ nhụy gồm 3 lá noãn tạo thành bầu dưới 3 ô, mỗi ô chứa nhiều noãn, đính noãn trung trụ; đầu nhụy chia 3 thùy. Quảnang nứt lưng. Hạt có nội nhũ.
Ở Việt Nam có 13 chi: Amaryllis, Brunsvigia, Clivia, Crinum, Eucharis, Eucryles, Haemanthus, Hippeastrum, Hymenocallis, Lycoris, Narcissus, Pancratium, Zephyranthes; 22 loài.
- Tỏi lơi (Đại tướng quân, Náng): Crinum asiaticum L.. Trị ung thư; lá hơ nóng làm tan sưng viêm, giã đắp trị bệnh ngoài da.
- Tỏi lơi lá rộng (Trinh nữ hoàng cung, Náng lá rộng): Crinum latifolium L.. Lá dùng làm thuốc trị viêm tiền liệt tuyến, viêm họng; trị ung thư đường tiêu hoá, đường tiết niệu.
- Náng hoa đỏ: Crinum defixum Ker–Gawl. hay C. ensifolium Roxb.. Hành dùng trị bỏng, mụn nhọt, lá được dùng như lá Tỏi lơi.
- Phong huệ (Huệ đỏ, Tóc tiên hoa đỏ): Zephyranthes rosea (Spreng.) Lindl.. Lá chữa rụng tóc, giảm ho; rễ trị sốt và lỵ.