Căng thẳng kích thích sự thèm ăn, làm tăng mỡ bụng, tăng nguy cơ mắc bệnh và thậm chí nó có thể đóng một vai trò nào đó trong các mối quan hệ thân thiết của chúng ta.
Danh sách có thể tiếp tục, nhưng chính xác thì căng thẳng là gì và nó có mối liên hệ như thế nào với tất cả những hậu quả này? Hướng dẫn này sẽ cung cấp cho bạn sự hiểu biết thấu đáo về nhiều khía cạnh của căng thẳng.
· Định nghĩa về căng thẳng
· Tác hại và lợi ích của stress
· Nhận thức về tinh thần ảnh hưởng đến tác nhân gây căng thẳng như thế nào
· Căng thẳng ở nam và nữ
· Sự trao đổi chất
· Cortisol - lợi ích và bất lợi của nó
· Kỹ thuật quản lý căng thẳng
1. CĂNG THẲNG LÀ GÌ?
Căng thẳng có thể được định nghĩa là một phản ứng không đặc hiệu đối với bất kỳ kích thích nào vượt qua hoặc đe dọa vượt qua khả năng duy trì cân bằng nội môi của cơ thể (trạng thái cân bằng của các cơ chế sinh học bên trong cơ thể). Nói cách khác, khi cơ thể tiếp xúc hoặc dự đoán trước tác nhân gây căng thẳng, nó sẽ khởi động cơ chế phản ứng để giúp khôi phục trạng thái cân bằng.
Tuy nhiên, điều quan trọng cần nhớ là phản ứng sinh học này về cơ bản là giống nhau bất kể loại căng thẳng mà chúng ta áp đặt lên bản thân, và chỉ khác nhau về mức độ của phản ứng cần thiết.
2.SỰ CỐ CỦA CƠ CHẾ PHẢN ỨNG VỚI SỰ CĂNG THẲNG
Cơ chế phản ứng với căng thẳng của chúng ta được thiết kế để phản ứng với những căng thẳng sinh lý cấp tính - những căng thẳng gây căng thẳng lên cơ thể chúng ta chỉ trong một khoảng thời gian ngắn (ví dụ: thoát khỏi một con chó rượt trên đường 😊 ) khi chúng ta phản ứng bằng công việc thể chất.
Chúng tôi thường gọi cơ chế này là phản ứng 'chiến đấu hoặc bỏ chạy' . Chúng ta hoặc đối đầu với tác nhân gây căng thẳng hoặc loại bỏ bản thân khỏi nó. Căng thẳng chỉ tồn tại trong thời gian ngắn và có nhiều thời gian để cơ thể phục hồi sau phản ứng căng thẳng.
Sau khi chúng ta loại bỏ tác nhân gây căng thẳng, về mặt lý thuyết, cơ thể tìm cách trở lại trạng thái bình tĩnh để thiết lập lại đường cơ bản hoặc cân bằng nội môi, hoặc có thể trải qua quá trình thích nghi để chịu đựng sự tiếp xúc với chính tác nhân gây căng thẳng đó trong tương lai tốt hơn. Giai đoạn phục hồi này đảm bảo có đủ thời gian để mỗi hệ thống (ví dụ: hệ thống miễn dịch) hoàn thành bất kỳ quá trình phục hồi, bổ sung, sửa chữa hoặc thích ứng cần thiết nào và được minh họa bên dưới.
3.NHẬN THỨC TINH THẦN VÀ CĂNG THẲNG
Căng thẳng có hại cho cơ thể không? Đó có phải là điều nên tránh, quản lý và giảm thiểu - hay nên chấp nhận và sử dụng nó để mang lại lợi ích cho cơ thể?
Mặc dù không có câu trả lời chắc chắn nhưng có bằng chứng cho thấy rằng mặc dù biểu hiện của căng thẳng chủ yếu là về mặt sinh lý, nhưng cuối cùng thì nhận thức hoặc cách giải thích về căng thẳng có thể quyết định liệu nó có lợi hay có hại.
Trong một nghiên cứu được thực hiện bởi chuyên gia Keller và các đồng nghiệp, 30.000 cá nhân đã được theo dõi để xác định nhận thức của họ về căng thẳng và tác động của nó đối với tỷ lệ tử vong (Keller, et al., 2012).
Đúng như dự đoán, những người báo cáo mức độ căng thẳng thấp có tỷ lệ tử vong thấp nhất. Ngược lại, những người trải qua mức độ căng thẳng cao có nguy cơ tử vong cao nhất, nhưng khám phá thú vị nằm ở nhận thức về mức độ ảnh hưởng của căng thẳng đối với cơ thể.
Những người đã xác định được mức độ căng thẳng cao, nhưng cũng tin rằng căng thẳng không có hại cho cơ thể đã chứng minh tỷ lệ tử vong tương tự như những người trải qua mức độ căng thẳng thấp. Mặc dù nghiên cứu này phải đối mặt với một số giám sát, nhưng nó đã mở đường cho các nghiên cứu khác kiểm tra quan niệm tương tự về nhận thức tinh thần như một chỉ báo chính về tác động của căng thẳng.
4.HAI CƠ CHẾ PHẢN ỨNG VỚI CĂNG THẲNG
Để hiểu rõ hơn về sự khác biệt này, trước tiên có thể hữu ích khi xem lại các cơ chế phản ứng với căng thẳng chính. Phản ứng căng thẳng sinh học của chúng ta được thiết kế để tồn tại và được điều chỉnh bởi cả hệ thống thần kinh và nội tiết (nội tiết tố).
Hệ thần kinh là một hệ thống thông tin liên lạc hoạt động nhanh, nhưng tồn tại trong thời gian ngắn , hoạt động bằng cách truyền các xung thần kinh - nó phản ứng rất nhanh với các kích thích, nhưng tác động của nó không kéo dài lâu (ví dụ: nhịp tim tăng đột ngột, kéo dài trong thời gian ngắn khi giật mình).
Hệ thống nội tiết là một hệ thống thông tin liên lạc hoạt động chậm hơn nhưng lâu dài hơn, hoạt động bằng tác động của hormone - nó được kích hoạt chậm hơn (đôi khi do hoạt động thần kinh) và tác động của nó có thể kéo dài hơn (ví dụ, nhịp tim tăng liên tục trong thời gian 60 -phút chạy).
5.STRESS PHẢN ỨNG VÀ ẢNH HƯỞNG SINH LÝ CỦA CHÚNG
Các tác nhân gây căng thẳng chính của tổ tiên chúng ta liên quan đến cuộc chiến sinh tồn hoặc đến cái chết chống lại kẻ thù hoặc kẻ xâm lược và bản chất của căng thẳng là một phản ứng sinh lý cấp tính, dữ dội (Hình 1).
Tuy nhiên, sau cuộc gặp gỡ ngắn ngủi nhưng đầy căng thẳng này, những gì tiếp theo là sự phục hồi dồi dào để trở lại ban đầu (trạng thái bình tĩnh - phó giao cảm).
Điều này cho phép mỗi hệ thống sinh lý (ví dụ, hệ thống miễn dịch) có thời gian để tự phục hồi và tái tạo sau khi chiến đấu để duy trì cân bằng nội môi.
Ngược lại , căng thẳng ngày nay thường liên quan đến các tác nhân gây căng thẳng tâm lý cường độ thấp hơn, kéo dài và đôi khi không bao giờ biến mất (căng thẳng mãn tính, hoặc trong trường hợp nghiêm trọng ) mà tích tụ (Hình 2).
Ví dụ, bạn có thể ngủ quên trong lúc báo thức và hoảng sợ thức dậy trễ giờ họp, bỏ bữa sáng, bị trễ giờ đi làm, đến muộn để thuyết trình, bị sếp khiển trách, rồi cuối cùng bạn cũng phải đến văn phòng ngay sau đó. bạn nhận được một cuộc gọi rằng con bạn bị ốm và cần được đón từ trường - nghe có vẻ quen thuộc?
Những yếu tố gây căng thẳng kéo dài này, mặc dù nhỏ hơn riêng lẻ, tích tụ và phủ nhận cơ thể cần thời gian để sửa chữa, phục hồi và bổ sung.