I
Can chi
Ngũ hành
Mộc
Hỏa
Thổ
Kim
Thủy
Thiên can
Giát Ất
Bính Đinh
Mậu kỉ
Canh Tân
Nhâm Quý
Địa chi
Dần Mão Thìn
Tị Ngọ Mùi
Thìn Tuất Sửu Mùi
Thân Dậu Tuất
Hợi Tí Sửu
Ngũ hành tùy theo từng giờ, từng nơi khác nhau cho nên ngũ hành mà 10 thiên can và 12 địa chi đại biểu cho thời gian là khác nhau.
Thiên can có ngũ hành, địa chi cùng có ngũ hành. Nhưng Ngũ hành của thiên can là dương tính so với ngũ hành địa âm tính còn mạnh hơn.
Ngũ hành của Giáp và Ất đại diện cũng không giống nhau. Giát Mộc là dương mộc là đại thụ trong rừng sâu, còn Ất Mộc là âm mộc là cây. Cỏ bé, cho nên vận mệnh của hai cái đó cũng khác nhau.
Thứ hai là phân tích trạng thái của Ngũ hành trong bớn mùa. Ví dụ Mộc là sinh ở mùa xuân mới gọi là hợp thời nên mới hưng nượng, đến mùa hạ đã là thứ yếu, đến mùa Thu thì lá đã rơi, cây khô sẽ là lúc không tốt lắm. Đến mùa Đông thì cây coói không còn phát triển gì trong băng giá, đành nằm yên chờ đợi mùa xuân tới. Khi một người, có mệnh Mộc làm chính thì có thể phân tích mệnh người đó tốt hay xấu rồi.
Thứ ba là suy diễn quan hệ giữa các Ngũ hành tương sinh và quan hệ tương khắc.
Quan hệ ngũ hành trong 8 chữ ( bát tự) của một người cần phải bảo đảm sự cân bằng tương đới, một hành nào đó nổi bật lên nhiều và mạnh đều là việc không tốt, được gọi là sát khí quá lớn. Vì thế, việc hợp hoặc kị của ngũ hành cần phải xem trạng thái của 5 mặt : bị sinh, sở sinh, bị khắc, sở khắc, tiêu tiết.