Độn giáp cái nhìn khái quát
- Bộ môn Độn giáp thuộc tham thức, vậy tam thức là gì?
Có thể coi tam thức là ba mô thức thuật số cơ bản của lý số đông phương, trong đó Thái ất được xếp đứng đầu trong tam thức , chủ yếu nghiên cứu các tính toán liên quan đến sự hưng vong của các triều đại, các trận pháp ở tầm cỡ chiến lược
Độn giáp ứng dụng vào quân sự là chủ yếu, ngày nay với tư duy " thị trường là chiến trường" thì độn giáp cũng có chỗ đứng trong vấn đề kinh doanh, ngoài ra độn giáp còn là công cụ cơ bản trong tính toán địa lý "tam hợp" điều này cũng nói lên sự liên quan mật thiết giữa độn giáp với yếu tố "Địa" trong hệ thống tam tài Thiên, Địa, Nhân.
Lục Nhâm Đại độn có vị trí khiêm tốn hơn cả, giải quyết những vấn đề liên quan đến chiêm bốc cát hung của ngượi Ở đây yếu tố nhân sinh nổi trôi.
Rất nhiều sách nói nhìn trong hệ thống Tam tài thì Thái ất biểu hiện về "THiên", Độn giáp biểu hiện cho " Địa", Lục nhâm đại độn biểu hiện cho "Nhân", xem ra cũng có nhiều ý nghĩa xác thực. Chúng ta tiến hành xem ý nghĩa của kỳ môn độn giáp:
"Độn" trong tiếng Trung Quốc có nghĩa là ẩn đi, Giáp là mã đầu trong hệ thập can, một hệ mã long cốt mang tính cơ sở đo đếm thiên, địa, nhân.
Các học giả cho rằng Can giáp đứng đầu trong các Can nay ẩn nó thì thì " Cát". Được rút ra theo ý nghĩa của hào dụng cửu quẻ Càn " Quần long vô thủ cát"
Nghĩa là bày rồng không dầu cát. Tại sao lại như vậy, trong sách dịch nói rồng tượng trưng cho người có tài có đức, cùng hợp tác với nhau mà không có người đứng đầu. Theo quan điểm về quản lý mà nói các nhóm làm việc với nhau phân ra hai hình thức hợp tác cơ bản.
1. Bắt tay
Phù hợp với các nhóm làm việc có nhiều người giỏi và có phương pháp phối hợp với nhau khoa học, hiểu biết.
2. Điều khiển
Phù hợp với những nhóm người có trình độ nhận thức chưa cao, cần có sự thúc ép chỉ dẫn và trong trường hợp này thì nhu cầu có người lãnh đạo là cần thiết.
Phải chăng câu quân long vô thủ cát ứng với trường hợp 1 và dịch lý cho rằng cát.
Kỳ môn: tách làm 2 :
- Kỳ gồm có tam kỳ, Ất kỳ, Bính kỳ, Đinh kỳ. Trong Ất kỳ tương ứng với Nhật, Bính kỳ tương ứng với Nhật, Đinh kỳ tương ứng với tinh tú
- Môn là cửa, trong độn giáp bao hàm nghĩa rộng hơn là 8 phương hướngchiến lược hành động cơ bản.
Độn giáp có tầm quan trọng theo nghĩa hẹp giúp cho quan lại trong chế độ phong kiến có được phương hướng chiến lược trong lĩnh vực quân sự. Nghĩa rộng hơn giúp cho những yếu nhân cai trị các mặt chính của đời sống xã hội, như Chính trị, kinh tế, giáo duc...vv.
Học thuyết độn giáp được hình thành trên cơ sở của các mô hình : Tam tài( Thiên địa nhân), Can chi, âm dương ngũ hành. Tiên thiên bát quái , hậu thiên bát quái, cửu cung phi tinh. Hiện nay có nhiều trường phái độn giáp được phát triển ở Trung Hoa lục địa và rực rỡ ở Đài Loan. Nhưng thông dụng nhất vẫn là Thời gia kỳ môn học, sau đó phải kể đến niên gia kỳ môn học, nguyệt gia kỳ môn học, nhật gia kỳ môn học.
Bát môn bao gồm: Hưu, thương, đỗ, cảnh, tử, kinh, khai, sinh. Trong đó phân ra tính cát hung mang tính tổng quátt như sau :
Hưu, Khai, sinh: Cát môn
Cảnh : trung tính, có trường phái cho rằng cảnh là Cát mộn
Kinh, thương, tử : Môn hung.
Cửu tinh gồm: Bồng, nhuế,xung, phụ, tâm , trụ, nhậm, anh, Tâm.
Hung tinh :Xung, bồng ,nhuế, trụ
Cát tinh :Tâm, Nhậm, cầm, Phụ.
Anh thú cát
Bát thần :Trực phù( còn gọi là tiểu trực phù), Đằng xà, thái âm, Lục hợp,bạch hổ, huyền vũ, cửu địa, cửu thiên.
Các bước thiết lập thông số tính toán với trường phái nhật gia kỳ môn độn giáp:
1. Ngày giờ chiêm độn
2. Tiết khí
3. Tam nguyên phù đầu
4. Âm dương cục số
5. Phù đầu nghi
6. Lập công thứ
7. tìm trực phù trực sứ
8. Tìm tam kỳ lục nghi, bát môn, bát thần
9. Độn giáp diễn quái
10. Tím thế ứng
11. Nạp giáp
12. An thế ứng
13.Tìm tứ cát, tam kỳ
14.tìm lộc mã quí.
Để hỗ trợ cho việc lên thông số trên người ta thường sử dụng bàn độn giáp, dưới đây là một ví dụ về bàn độn giáp.
Để tiện dụng không nhớ vẫn có thể dùng được tốt nhất lên làm một bàn độn giáp độ 5 vòng thì có thêm cả tiết khí vào cho dễ tính. Các cach cát hung làm thành bảng phối với bàn độn giáp, thi được cách rồi tra thêm ý nghĩa của cách luôn. Chỉ việc lập bảng tinh âm dương ngũ hành , sinh vượng... đây mới là việc của người học độn giáp. Cũng có thể lấy tiết khí, can ngày, can chi giờ tra luôn sách họ làm cho hết từ cách cát, hung trên từng cửa luôn (có 1080 cách cục làm sẵn). Nếu muốn cầu tài, quan, lộc thì phải xem trong quẻ độn có không, nếu có thì ở phương nào, muốn tính được phải chuyển về quái kinh dịch nạp lục thân, so với lộc mã quý từ can chi giờ chiêm, nếu có trong quẻ thi mới có và suy ngược ra phương vị thời giờ. Tất nhiên có thể phối thêm thập nhị bát tú, thần sát thêm vào... và phức tạp hơn.
Cái bí quyết để tính độn giáp nằm ở cần các yếu tố âm dương ngũ hành, phối mệnh chủ, thời gian có như vậy mới ra được những phương thức nghi binh ở cửa nào, phục binh ở cửa nào, khi nào có thể dùng biến tử thành sinh...
Duyen Nghi
Kỳ Môn Độn Giàp lập Thiên Địa 2 Bàn
Âm độn 3 cục, giờ Kỷ Tỵ
Bản Lục Nghi Tam Kỳ
Mậu .........3, Giáp Tý, Thiên Xung, Thương
Kỷ ............2, Giáp Tuất, Thiên Nhuế, Tử
Canh ........1, Giáp Thân, Thiên Bồng, Hưu
Tân ..........9, Giáp Ngọ, Thiên Anh, Cảnh
Nhâm ......8, Giáp Thìn, Thiên Nhậm, Sinh
Quí ..........7, Giáp Dần, Thiên Trụ, Kinh
Đinh ........6, Thiên Tâm, Khai
Bính ........5, Thiên Cầm,
Ất ............4, Thiên Phụ, Đổ
Giờ Kỷ Tỵ phù đầu là Giáp Tý ẩn tại Mậu 3 (Cung 3), có sao là Thiên Xung, và môn là Thương, cho nên trực phù là Mậu 3 Thiên Xung, và trực sử là Thương Môn.
Can giờ là Kỷ, trong bản lục nghi tam kỳ là Kỷ 2 cung, vì vậy trực phù gia thời can lâm Kỷ 2 vậy.
Chi giờ là Tỵ, từ phù đầu là Giáp Tý tại Mậu 3, thì Ất Sửu là Kỷ 2, Bính Dần Canh 1, Đinh Mão Tân 9, Mậu Thìn Nhâm 8, và Kỷ Tỵ là Quí 7, cho nên trực sử gia thời chi là lâm cung Quí 7 vậy. Tóm lại ta có công thức như sau
Trực Phù: Mậu 3, Thiên Xung
.........................Kỷ 2
Trực Sử: Thương Mon
.....................Quí 7
Từ công thức trên ta có Địa bàn và Thiên Bàn như sau
Địa Bàn:
Thiên Bàn:
An Sao
Từ địa bàn Thiên xung cung 3 mà đi tới cung 2, đếm thuận là đi qua 3 cung, cho nên các sao khác đều di chuyển thuận chiều kim đồng hồ qua 3 cung, cho nên ta có
Thiên Xung địa bàn cung 3 bay đến cung 2 trên thiên bàn,
Thiên Phụ địa bàn cung 4 bay đến cung 7 trên thiên bàn,
Thiên Anh địa bàn cung 9 bay đến cung 6 trên thiên bàn,
Thiên Nhuế địa bàn cung 2, bay đến cung 1 trên thiên bàn,
Thiên Trụ địa bàn cung 7, bay đến cung 8 trên thiên bàn,
Thiên Tâm địa bàn cung 6, bay đến cung 3 trên thiên bàn,
Thiên Bồng địa bàn cung 1, bay đến cung 4 trên thiên bàn,
Thiên Nhậm địa bàn cung 8, bay đến cung 9 trên thiên bàn,
Thiên Cầm thì dương độn theo sao của cung Khôn là sao Thiên Nhuế, âm độn thì theo sao của cung Cấn là sao Thiên Nhậm (Nam Khôn, Nử Cấn). Nhưng có nhiều sách thì chỉ dùng sao cung Khôn Thiên Nhuế cho cả âm lẩn dương.
Để tính trên bàn tay được dể dàng, ta chỉ cần nhớ thứ tự các sao như sau Bồng, Nhậm, Xung, Phụ, Anh, Nhuế, Trụ, Tâm thì ta có thể an các sao trên thiên bàn dể dàng. Sau khi an được Trực Phù vào cung 2 trên thiên bàn, thì ta theo thứ tự chiều kim đồng hồ mà an tiếp các sao (đọc như thứ tự trên) Phụ 7, Anh 6, Nhuế 1, Trụ 8, Tâm 3, Bồng 4, Nhậm 9.
An Môn
Từ địa bàn Thương môn cung 3 mà đi tới cung 7, đếm thuận là đi qua 4 cung, cho nên các môn khác đều di chuyển thuận chiều kim đồng hồ qua 4 cung, cho nên ta có
Thương môn địa bàn cung 3 chuyển thuận đến cung 7 trên thiên bàn,
Đổ môn địa bàn cung 4 chuyển thuận đến cung 6 trên thiên bàn,
Cảnh môn địa bàn cung 9 chuyển thuận đến cung 1 trên thiên bàn,
Tử môn địa bàn cung 2 chuyển thuận đến cung 8 trên thiên bàn,
Kinh môn địa bàn cung 7 chuyển thuận đến cung 3 trên thiên bàn,
Khai môn địa bàn cung 6 chuyển thuận đến cung 4 trên thiên bàn,
Hưu môn địa bàn cung 1 chuyển thuận đến cung 9 trên thiên bàn,
Sinh môn địa bàn cung 8 chuyển thuận đến cung 2 trên thiên bàn.
Để tính trên bàn tay được dể dàng, ta chỉ cần nhớ thứ tự môn như sau, Hưu, Sinh, Thương, Đổ, Cảnh, Tử, Kinh, Khai. Sau khi an Thương môn vào cung 7 trên thiên bàn, thì ta lần lượt an luôn các môn Đổ 6, Cảnh 1, Tử 8, Kinh 3, Khai 4, Hưu 9, Sinh 2.
An Bát Thần
Bát thần là Trực Phù, Đằng Xà, Thái Âm, Lục Hợp, Câu Trần (hoặc Bạch Hổ), Huyền Vũ, Cữu Địa, Cữu Thiên. Có 2 cách an, một theo Trực Phù nơi địa bàn, hai theo Trực Phù trên thiên bàn. Sách hán văn thì có quyển an theo địa bàn, có quyển an theo thiên bàn. Còn các sách Việt thì đều an theo thiên bàn cả.
Cho nên ta dùng cách thiên bàn vậy. Trước hết an thần Trực Phù vào cung đả an trực phù sao (Thiên Xung trong thí dụ trên) trên thiên bàn. Sau đó lần lược an các thần theo thứ tự trên, âm độn thì đi nghịch chiều kim đồng hồ, dương độn thì đi thuận. Vì vậy thần Trực Phù vào cung 2 trên thiên bàn, Đằng Xà 9, Thái Âm 4, Lục Hợp 3, Bạch Hổ 8, Huyền Vũ 1, Cửu Địa 6, và Cửu Thiên 7 (nghịch chiều đông hồ nên 2,9,4,3,8,1,6,7. Như là dương độn theo chiều kim đồng hồ thì ta đi 2,7,6,1,8,3,4,9 vậy)
vietlyso
Độn Giáp
là một trong ba môn học xếp vào tam thức (Thái Ất, Độn giáp, Lục nhâm đại độn). Có sách thêm hai chữ "Kỳ Môn" ở trước và có tên gọi là Kỳ Môn Độn giáp.
Độn Giáp là môn tính toán căn cứ vào sự tiêu trưởng của Âm Dương để đặt ra những nguyên tắc và định lý quyết đoán sự diễn tiến cát hung của sự vật .
Trong tam thức, nếu như Thái Ất thiên về Thiên, nó nghiên cứu sự chuyển động của các tinh tú ảnh hưởng đến Trái Đất thì Độn Giáp, lại thiên về Địa, nó nghiên cứu ảnh hưởng của địa lý, phong thủy đối với con người.
Độn Giáp là môn dự đoán, phát sinh từ Dịch học, ứng dụng dịch lý. Độn Giáp là hệ thức thời gian theo Can Chi tương ứng với các thuộc tính của Tiết khí, theo một chu kỳ tính theo năm (tháng) hoặc Nguyên, Hội, Vận v.v mà mỗi vị trí thời gian Can Chi phản ánh một quá trình phát sinh, phát triển và kết quả của sự vật, hiện tượng, con người. Nói đến Độn Giáp là nói đến Tiết khí được lượng hoá qua độ mạnh yếu của khí Âm Dương bằng hằng số của Dịch học gọi là Cục.
Trong mười Thiên can thì ba nhóm Thiên can Ất, Bính, Đinh được gọi là Tam Kỳ, sáu nhóm Thiên can Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quí được gọi là Lục Nghi. Can giáp được ẩn đi nên gọi là Độn Giáp. Tam kỳ tượng trưng cho mặt trời, mặt trăng và tinh tú.
Môn là Bát Môn, tức là tám cửa. Tám cửa gồm có Hưu Môn, Sinh Môn, Thương Môn, Đỗ Môn, Cảnh Môn, Tử Môn, Kinh Môn và Khai Môn. Tám cửa này là từ tám phương vị của Bát Quái mà ra. Trong quân sự còn có tên khác là Bát Trận Đồ. Tên các cửa trong Bát Trận Đồ là Thiên Môn, Địa Môn, Phong Môn, Vân Môn, Long Môn, Hổ Môn, Điểu Môn và Xà Môn. Bát Trận Đồ này xem thì rất đơn giản, dễ dàng nhưng kỳ thực thì thiên biến vạn hóa, cao siêu thần diệu. Bát Môn thực tế là tám loại cảm ứng điện từ của hệ Mặt Trời và Trái Đất đối với con người ta.
Kỳ Môn Độn Giáp nguyên gọi là Tam Nguyên Kỳ Môn Độn Giáp. Tam Nguyên tức là Thượng Nguyên, Trung Nguyên, Hạ Nguyên (có nơi còn gọi là Thiên Nguyên, Nhân Nguyên, Địa Nguyên dựa trên cơ sở Tam Tài là Thiên Địa Nhân rồi tìm ra Thiên Thời Địa Lợi Nhân Hòa).
Độn giáp được hình thành trên cơ sở của các thuyết : Tam tài (Thiên, địa, nhân), Can Chi, Âm Dương, ngũ hành, Tiên thiên bát quái, Hậu thiên bát quái, cửu cung phi tinh... Hiện nay có nhiều trường phái độn giáp được phát triển ở Trung Hoa lục địa và Đài Loan. Phổ biến nhất là thời gia kỳ môn học, sau đó là niên gia kỳ môn học, nguyệt gia kỳ môn học, nhật gia kỳ môn học...
Kỳ Môn Độn Giáp là môn khoa học cho ta biết được thời điểm nào, phương vị nào sẽ có lợi cho ta và phương vị nào sẽ bất lợi cho ta, rồi ta có thể dựa vào đó cải thiện vận mệnh của ta cho từng thời điểm.
Kỳ Môn Độn Giáp được ứng dụng trong việc lựa chọn thời gian, hướng bày binh, xuất quân, cầu tài, cầu danh, yết kiến quí nhân, xuất hành, khai trương, động thổ, xây cất, tìm người cưới gả …
Trước đây, Độn giáp ứng dụng vào quân sự là chủ yếu. Ngày nay độn giáp có thể ứng dụng trong các hoạt động mang tính cạnh tranh, thi đua, nhất là trong lĩnh vực kinh doanh. Ngoài ra độn giáp còn là công cụ quan trọng trong tính toán địa lý "tam hợp" điều này cũng nói lên sự liên quan mật thiết giữa độn giáp với yếu tố "Địa" trong hệ thống tam tài Thiên - Địa - Nhân.
Muốn lập Hệ thức Độn giáp, phải có:
Biết năm, tháng, ngày, giờ để tính can chi, xét can ngày để tính được nguyên nào:
- Can Giáp Kỷ gia với Tý Ngọ Mão Dậu là Thượng nguyên
- Can Giáp Kỷ gia với Dần Thân Tỵ Hợi là Trung nguyên
- Can Giáp Kỷ gia với Thìn Tuất Sửu Mùi là Hạ nguyên
Rồi tra tiết khí trong năm, qua đó tính được âm hay dương độn và mấy cục (xem bảng).
Ví dụ xem giờ Giáp Tí, ngày Giáp Tí, tháng Mậu Dần năm Ất Dậu (sau giao thừa Tết Ất Dậu, 09/02/2005):
Ngày xem Giáp Tí thuộc thượng nguyên, tiết Lập xuân, nên có Dương độn 8 cục.
Lập được bảng Lục nghi, Tam kỳ:
Giờ là Giáp Tí, xác định Trực phù là Thiên Nhậm, Trực sử là cửa Sinh.
Lập công thức Độn giáp là Thiên Nhậm / 8 và Sinh môn / 8.
Sau đó an và phân tích vị trí các cửa, các sao và các thần, trên cơ sở Dịch lý, Dịch số tiến hành phân tích và đoán giải.
Có nhiều cách xét đoán một hệ thức độn giáp như: xem tổng quát, xem thân thế và vận hạn của một người, xem từng sự việc, xem theo cách bói Dịch, xem về các cách dụng binh và xem các cách đặc biệt...
Người coi căn cứ giờ ra thuộc can nào (Ất, Bính Đinh…) và căn cứ các sao thuộc vòng cửu tinh, Trực phù lạc vào cung nào mà có phương án đoán giải.
Cách xem này tương tự như xem Tử vi, Tử bình, Bát tự Hà Lạc…
wikipedia