Quân đoàn 1 là quân đoàn chủ lực cơ động đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam, được thành lập ngày 24/10/1973. Tư lệnh, Chính uỷ đầu tiên của Quân đoàn 1 là các đồng chí Lê Trọng Tấn, Lê Quang Hoà. Quân đoàn 1 hiện nay có Tư lệnh và các Phó Tư lệnh, Chính uỷ, Phó Chính uỷ; các cơ quan chức năng đảm nhiệm các mặt công tác tham mưu, chính trị, hậu cần, kỹ thuật và các đơn vị trực thuộc khác.
“Thần tốc - Quyết thắng”
Ngày truyền thống: 24/10/1973
Phần thưởng cao quý:
Với những chiến công và thành tích xuất sắc trong chiến đấu bảo vệ và xây dựng đất nước, Quân đoàn 1 đã vinh dự được Đảng và Nhà nước tuyên dương Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân (29/8/1985).
Quân đoàn 1, còn có tên hiệu là Binh đoàn Quyết thắng là một trong 4 quân đoàn chủ lực cơ động, trực thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam. Đây là đơn vị cấp quân đoàn thực thụ đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam, được thành lập ngày 24 tháng 10 năm 1973 tại Ninh Bình. Vào cuối chiến dịch Hồ Chí Minh, Quân đoàn 1 là đơn vị đánh chiếm Bộ Tổng tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng hòa, góp phần làm nên chiến thắng ngày 30/4/1975.
Thiếu tướng Lê Quang Hòa, chính ủy đầu tiên của Quân đoàn 1.
Năm 1972, sau thất bại của đợt tập kích đường không trong Chiến dịch Linebacker II, chính phủ Mỹ buộc phải ký Hiệp định Paris, theo đó năm 1973 Mỹ phải rút toàn bộ quân đội về nước. Tuy nhiên tình hình quân sự tại Quân khu IV QĐNDVN cũng đang bất lợi. Quân ủy điều động một vài sư đoàn đang bị tổn thất nặng rút về phía bắc để củng cố.
Tháng 7 năm 1973, Ban Chấp hành Trung ương Đảng tiến hành hội nghị lần thứ 21, ra nghị quyết về tăng cường quân sự tiến tới thống nhất đất nước. Chấp hành nghị quyết, tháng 10 năm 1973 Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng đề nghị Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã phê chuẩn việc thành lập các quân đoàn chủ lực. Theo đó, ngày 24 tháng 10 năm 1973, Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Quân ủy Trung ương, Phó Thủ tướng Chính phủ kiêm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ký quyết định (số 142/QĐ-QP) thành lập Quân đoàn 1 đóng quân trên địa bàn Tam Điệp, Ninh Bình[4]. Ban chấp hành Đảng bộ gồm 7 ủy viên, do Lê Quang Hoà làm Bí thư, Lê Trọng Tấn - Tư lệnh quân đoàn, Phó Bí thư và Hoàng Minh Thi ủy viên Thường vụ.
Theo quyết định của Bộ Quốc phòng, cơ cấu tổ chức của Quân đoàn gồm: Bộ Tư lệnh Quân đoàn. Ba cơ quan Quân đoàn: Bộ Tham mưu, Cục Chính trị, Cục Hậu cần. Các đơn vị khi thành lập: Sư đoàn bộ binh 308, Sư đoàn bộ binh 312, Sư đoàn bộ binh 320B (sau đổi thành 390), Sư đoàn phòng không 367, Lữ đoàn tăng thiết giáp 202, Lữ đoàn pháo binh 45, Lữ đoàn công binh 299 và Trung đoàn thông tin 140.
Ngày 15 tháng 3 năm 1975, trong khi Chiến dịch Tây Nguyên đang thu được thắng lợi giòn giã. Quân đoàn 1 được lệnh di chuyển vào nam sẵn sàng tham chiến. Chỉ trong 12 ngày đêm, toàn bộ đội hình quân đoàn (trừ sư 308 ở lại miền Bắc làm nhiệm vụ nghi binh), đã di chuyển vượt chặng đường dài 1.789 km từ Bắc vào Nam theo đường Trường Sơn, kịp thời vào trực tiếp tham gia chiến đấu trên hướng Bắc Sài Gòn. Sau đó, quân đoàn di chuyển vào chiến trường theo tuyến Quốc lộ 1 - Đường 9 - qua Lao Bảo sang Lào - về Kon Tum theo đường 14 qua Buôn Mê Thuột, đến ngày 14 tháng 4 năm 1975 vào đến Đồng Xoài - Phước Long chuẩn bị cho trận đánh cuối cùng. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh, Quân đoàn 1 nhận nhiệm vụ tấn công từ phía Bắc Sài Gòn, bao vây tiêu diệt đối phương ở Phú Lợi, Bến Cát, Bình Dương, Lai Khê, Tân Uyên; ngăn chặn Sư đoàn 5 Quân lực Việt Nam Cộng hòa rút về nội đô và vô hiệu hóa đơn vị này; tấn công đánh chiếm Bộ Tổng tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng hòa, các bộ tư lệnh binh chủng ở Gò Vấp, Bình Thạnh; tổ chức một lực lượng tấn công hợp điểm với các quân đoàn khác tại Dinh Độc Lập Do phải hành quân gấp từ miền Bắc vào bằng mọi phương tiện thuỷ, bộ và đường không. Quân đoàn 1 bắt đầu tấn công chậm một ngày so với các đơn vị khác.
Tư lệnh: Đại tá Đỗ Minh Xương
Chính ủy: Đại tá Nguyễn Đức Hưng
Tham mưu trưởng: Đại tá Trương Mạnh Dũng
Phó Tư lệnh: Đại tá Trương Quang Hoài
Phó chính ủy: Đại tá Phạm Quốc Hóa
Văn phòng
Thanh tra
Phòng Tài chính
Phòng Khoa học Quân sự
Phòng Thông tin KHQS
Phòng Điều tra Hình sự
Bộ Tham mưu
Cục Chính trị
Cục Hậu cần: Cục trưởng: Đại tá Nguyễn Huy Dũng
Cục Kỹ thuật: Cục trưởng: Đại tá Nguyễn Tuấn Hải
Sư đoàn Bộ binh 308 (Đoàn B08, Đoàn Quân Tiên Phong) tại Xuân Mai, Chương Mỹ, Hà Nội
Sư đoàn Bộ binh 312 (Đoàn B12, Đoàn Chiến Thắng) tại Phổ Yên, Thái Nguyên
Sư đoàn Bộ binh 390 (Đoàn B90, Đoàn Đồng Bằng) tại Bỉm Sơn - Thanh Hóa
Lữ đoàn Pháo binh 368 (Đoàn B68) tại Bỉm Sơn, Thanh Hóa
Lữ đoàn Phòng không 241 (Đoàn H41) tại Quỳnh Lưu, Nho Quan, Ninh Bình
Lữ đoàn Xe tăng 202 (Đoàn H02) tại Phú Lộc, Nho Quan, Ninh Bình.
Lữ đoàn Công binh 299 (Đoàn H99) tại Yên Thủy, Hòa Bình
Trường Quân sự Quân đoàn 1 tại thành phố Tam Điệp, Ninh Bình
Trường Trung cấp Nghề số 14 tại thành phố Tam Điệp, Ninh Bình
Tiểu đoàn Trinh sát 701, Bộ Tham mưu
Tiểu đoàn Cảnh vệ 702, Bộ Tham mưu
Tiểu đoàn Trinh sát 703, Bộ Tham mưu
Tiểu đoàn Hóa học 21, Bộ Tham mưu
Tiểu đoàn Thông tin 140, Bộ Tham mưu
Tiểu đoàn Đặc công, Bộ Tham mưu
Bảo tàng Quân đoàn 1, Cục Chính trị
Tiểu đoàn Vận tải 752, Cục Hậu cần
Kho K54, Cục Hậu cần
Bệnh xá cơ quan, Cục Hậu cần[20] tại thành phố Tam Điệp, Ninh Bình
Tiểu đoàn Kho K256, Cục Kỹ thuật
Tiểu đoàn 879, Cục Kỹ thuật
Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân (1985).
Huân chương Quân công hạng Nhất (2008)
Trong Binh Đoàn có 55 tập thể và 46 cán bộ, chiến sĩ được trao tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân; Binh Đoàn và 2 tập thể được tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh; 1 tập thể được tặng thưởng Huân chương Độc lập; 302 tập thể và cá nhân được tặng thưởng Huân chương Quân công và hơn 1.000 tập thể, cá nhân được tặng thưởng Huân chương Chiến công cùng nhiều phần thưởng khác.