Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển Việt Nam, còn gọi là Cảnh sát biển Việt Nam (tiếng Anh: Vietnam Coast Guard hay viết tắt là VCG - được quy định theo Điều 4, Nghị định 96/2013/NĐ-CP ngày 27 tháng 8 năm 2013), một số tài liệu còn viết là Tuần duyên Việt Nam, là lực lượng quân sự chuyên trách thuộc Chính phủ CHXHCN Việt Nam, thực hiện chức năng quản lý về an ninh, trật tự, an toàn và bảo đảm việc chấp hành pháp luật của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và điều ước quốc tế có liên quan mà Việt Nam là thành viên trên các vùng biển và thềm lục địa của nước này.
Theo các văn bản pháp luật hiện hành tại Việt Nam, Cảnh sát biển Việt Nam là lực lượng vũ trang nhân dân, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự thống lĩnh của Chủ tịch nước Việt Nam, sự quản lý thống nhất của Chính phủ. Cảnh sát biển Việt Nam được tổ chức và hoạt động theo quy định của Pháp lệnh Lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam ngày 5 tháng 2 năm 2008 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Bộ Quốc phòng trực tiếp quản lý và điều hành hoạt động của lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam.
Trước năm 1998, chính quyền Việt Nam không có một cơ quan Cảnh sát biển chuyên dụng nào mà chỉ có lực lượng hải quân tuần tra ngoài khơi cùng các hoạt động quân sự khác. Ngoài ra là các đội tàu tuần tra thuộc Bộ Tư lệnh Biên phòng, trong đó có các trạm kiểm soát ở cửa sông, cảng biển. Còn lại, tất cả trách nhiệm tuần tra sông thuộc về Cảnh sát Giao thông đường thủy (Cục Cảnh sát giao thông đường thủy - C68) dưới sự chỉ đạo của Công an các tỉnh và thành phố.
Ngày 28 tháng 8 năm 1998, Cục cảnh sát biển Việt Nam thuộc Bộ tư lệnh Hải quân được thành lập, đánh dấu sự ra đời của Cảnh sát biển Việt Nam. Lúc mới thành lập thì Cục cảnh sát biển chỉ là một Cục chức năng và không chỉ huy các Vùng cảnh sát biển được thành lập sau đó.
Năm 2008, Cục Cảnh sát biển được chuyển về trực thuộc Bộ Quốc phòng và đồng thời các Vùng cảnh sát biển được chuyển về trực thuộc Cục.
Năm 2013, Cục cảnh sát biển đổi tên thành Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển theo Nghị định số 96/2013/NĐ-CP, ngày 27 tháng 08 năm 2013 của Chính phủ. Có con dấu hình quốc huy, là cơ quan mang danh nghĩa trực thuộc Chính phủ Việt Nam. Cảnh sát biển Việt Nam có ngân sách riêng của Nhà nước, có cảnh hiệu, cảnh phục riêng do Chính phủ quy định. Ngày 10 tháng 9 năm 2014, các Vùng cảnh sát biển được đổi tên thành Bộ tư lệnh Vùng cảnh sát biển theo quyết định của Bộ trưởng Quốc phòng.
Hiện nay, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam được quy định tại pháp lệnh số 03/2008/PL-UBTVQH12 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội gọi là Pháp lệnh Lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam.
Cảnh sát biển Việt Nam hoạt động trong vùng biển quốc tế, vùng nước nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, có nhiệm vụ chính như kiểm tra, kiểm soát theo quy định của pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế có liên quan mà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên để bảo vệ chủ quyền; giữ gìn an ninh, trật tự, an toàn; bảo vệ tài nguyên, phòng chống ô nhiễm môi trường; phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh chống các hành vi buôn lậu, vận chuyển trái phép và mua bán người, vận chuyển, mua bán trái phép hàng hoá, vũ khí, chất nổ, chất ma tuý, tiền chất và các hành vi vi phạm pháp luật khác. Cùng với đó là nhiệm vụ hợp tác quốc tế trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo quy định của pháp luật và điều ước quốc tế góp phần giữ gìn an ninh, trật tự, hoà bình và ổn định trên các vùng biển.
Các vấn đề Cảnh sát biển có nhiệm vụ giải quyết bao gồm:
Tuần tra, kiểm soát tất cả người, phương tiện hoạt động trên các vùng biển Việt Nam để bảo vệ chủ quyền, giữ gìn an ninh, trật tự trên biển;
Xử lý vi phạm hành chính trên vùng biển Việt Nam;
Bắt giữ, tiến hành một số hoạt động điều tra các hành vi phạm tội trên vùng biển Việt Nam và toàn bộ vịnh Thái Lan: Buôn lậu, vận chuyển hàng hóa trái phép qua biên giới, tội phạm về ma túy, môi trường, cướp biển...
Bảo vệ môi trường biển;
Bảo vệ tài nguyên sống của biển;
Bảo vệ vận tải biển;
Hỗ trợ hàng hải;
Tìm kiếm cứu nạn (SAR);
Hợp tác quốc tế với các quốc gia để bảo vệ an ninh vùng biển;
Để thực hiện chức năng, nhiệm vụ, Cảnh sát biển Việt Nam có các quyền hạn theo quy định của pháp luật và có các quyền hạn cơ bản sau:
Kiểm tra, kiểm soát người, phương tiện hoạt động trong vùng biển Việt Nam.
Sử dụng vũ khí, công cụ hỗ trợ, phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ và thực hiện quyền nổ súng.
Xử lý vi phạm hành chính và tiến hành hoạt động điều tra hình sự.
Thực hiện trưng dụng tài sản của tổ chức, công dân Việt Nam.
Truy đuổi người, phương tiện vi phạm pháp luật trên biển.
Huy động người, phương tiện, trang thiết bị kỹ thuật dân sự của cá nhân, tổ chức Việt Nam.
Yêu cầu tổ chức, cá nhân và phương tiện nước ngoài hoạt động trong vùng biển Việt Nam hỗ trợ, giúp đỡ.
Bắt giữ tàu thuyền vi phạm pháp luật.
Sử dụng các biện pháp nghiệp vụ và thực hiện các quyền hạn khác được quy định tại Điều 24 Luật An ninh quốc gia năm 2004. Tư lệnh Cảnh sát biển quyết định việc sử dụng các quyền hạn theo quy định tại Điều này theo thủ tục, thẩm quyền do Chính phủ quy định và chịu trách nhiệm trước pháp luật về quyết định của mình.
1. Cảnh sát biển Việt Nam hoạt động trong vùng biển Việt Nam và vùng biển Đông Nam Á.
2. Trong trường hợp vì mục đích nhân đạo, hòa bình, phòng chống tội phạm, vi phạm pháp luật trên biển, Cảnh sát biển Việt Nam được hoạt động ở địa bàn liên quan, trên vùng biển nước ngoài, vùng biển quốc tế, nhưng phải tuân thủ pháp luật Việt Nam, thỏa thuận song phương, điều ước và pháp luật quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
Văn phòng
Thanh tra
Phòng Tài chính
Phòng Đối ngoại
Phòng Điều tra hình sự
Phòng Thi hành án dân sự
Phòng Cứu hộ cứu nạn
Bộ Tham mưu
Cục Chính trị
Cục Hậu cần
Cục Kỹ thuật
Cục Nghiệp vụ và pháp luật
Hạm đội Cảnh sát biển.
Các Hải đội Cảnh sát biển.
Cụm Trinh sát số 1.
Cụm Trinh sát số 2.
Cụm đặc nhiệm phòng, chống tội phạm ma túy số 1.
Cụm đặc nhiệm phòng, chống tội phạm ma túy số 2.
Cụm đặc nhiệm phòng, chống tội phạm ma túy số 3.
Cụm đặc nhiệm phòng, chống tội phạm ma túy số 4.
Trung tâm thông tin Cảnh sát biển.
Trung tâm Đào tạo và Bồi dưỡng nghiệp vụ Cảnh sát biển.
Các Vùng Cảnh sát biển Việt Nam
Trong nội thủy, lãnh hải và vùng nước cảng biển của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, Lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam có nhiệm vụ kiểm tra, kiểm soát theo quy định của pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế có liên quan mà Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam là thành viên để bảo vệ chủ quyền; giữ gìn an ninh, trật tự, an toàn; bảo vệ tài nguyên, phòng, chống ô nhiễm môi trường; phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh chống các hành vi buôn lậu, vận chuyển trái phép và mua bán người, vận chuyển, mua bán trái phép hàng hoá, vũ khí, chất nổ, chất ma tuý, tiền chất và các hành vi vi phạm pháp luật khác.
Trong vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, Lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam có nhiệm vụ tuần tra, kiểm soát theo quy định của pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế có liên quan mà Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam là thành viên để bảo vệ quyền chủ quyền, quyền tài phán; bảo vệ tài nguyên, phòng, chống ô nhiễm môi trường; phát hiện, ngăn chặn và đấu tranh chống các hành vi buôn lậu, cướp biển, cướp có vũ trang chống lại tàu thuyền, vận chuyển trái phép và buôn bán người, vận chuyển, mua bán trái phép các chất ma túy.
Ngày 10 tháng 9 năm 2014, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ký Quyết định nâng cấp Bộ Chỉ huy Vùng Cảnh sát biển thành Bộ Tư lệnh Vùng Cảnh sát biển.[5][6]
Bộ Tư lệnh Vùng 1
Bộ Tư lệnh Vùng 2
Bộ Tư lệnh Vùng 3
Bộ Tư lệnh Vùng 4
Theo Luật sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam năm 2014ː
Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm, miễn nhiệm Tư lệnh và Chính ủy Cảnh sát biển.
Tư lệnh và Chính ủy Cảnh sát biển có trần quân hàm cao nhất là Trung tướng.
Phó Tư lệnh Cảnh sát biển có trần quân hàm cao nhất là Thiếu tướng không quá 3 người.
Phó Chính ủy Cảnh sát biển có trần quân hàm cao nhất là Thiếu tướng không quá 1 người.
Tư lệnh và Chính ủy Vùng Cảnh sát biển có trần quân hàm cao nhất là Thiếu tướng
Các chức vụ khác có trần quân hàm cao nhất là Đại tá.