PHẦN 1
Truyền thuyết rằng:
Vũ trụ có bát quái - núi có bát sơn - không gian có lục bộ - địa có bát hướng - nhân có bát thức.
Từ đời thượng cổ, về phía bắc sông Nguyệt Đức tỉnh Bắc Ninh phủ Lạng Giang, có một trái núi gọi tên Bổ Đà. Từ thuở khai thiên lập địa, trái núi này ẩn náu so với ngọn núi khác. Một chốn rừng u tịch, hổ thét beo gầm, dải đất tứ linh ( phượng lộn - rồng bay- voi chầu - hổ phục) nơi địa linh nhân kiệt, sơn thủy hữu tình dành cho các bậc chân tu dùi mài kinh sử.
Nơi đây khi xưa có 2 vợ chồng tiều phu ( tên gọi Minh Đà) chuyên sống bằng nghề bổ củi. Một hôm vợ chồng vác búa lên núi đốn củi, gặp một chỗ đất bằng phẳng, rộng chừng chiếc chiếu, ở đó có một gốc cây thông già, ông lấy búa bổ vào gốc cây thì kì lạ thay có một đồng tiền bằng vàng nảy ra, ông liền bổ một thôi vào gốc cây thì thấy 32 đồng tiền vàng. Thấy sự ly kỳ ông liền quỳ xuống mà nguyện rằng : Nếu như linh ứng cho ông xin mụn con trai, nếu được như nguyện ông sẽ xây chùa tô tượng, sớm tối khói hương phụng phật. Ngày qua tháng lại, vợ chồng ông sinh được một người con trai. Ông liền xây chùa tô tượng, dựng một gian lợp tranh, để sớm tối khói hương đáp lại lời nguyện của mình.
Trước đây sư cụ Nguyễn Đình Cấp đã từng vân du tại nam hương tích - bắc Phổ Đà Trung quốc. Khi trở về Việt Nam, ngắm xem phong thủy, cụ chọn 2 nơi thờ đức Quan Âm, nam Hương Tích ( Hà Tây ) và bắc Bổ Đà ( Bắc Giang). Cụ đã dựa vào phong cảnh của trang Tiên Lát để mô tả ngôi chùa vân tự trong cốt truyện Quan Âm Thị Kính.
Kệ rằng:
Na mô đức phật uy mầu
Tích chùa xin kể vài câu rõ ràng
Đất cát lại có trạch vàng
Ở Trang Tiên Lát tiếng vang thơm lừng
Có người đốn củi trên rừng
Minh Đà tên gọi tuổi chừng bốn mươi
Vợ chồng hiền đức cả đời
Búa, rìu gia sản lần hồi kiếm ăn
Giúp người chẳng ngại khó khăn
Chẳng màng danh lợi ,chẳng ganh đua tài
Biết không,không biết mặc ai
Hiếm hoi mong chút con trai đầu lòng
Nghĩ rằng, phúc ở tại lòng
Bỗng đâu của vật báu trong phơi bầy
Những đêm gió mát hây hây
Trời cao ,trăng tỏ vui dây phím đàn
Chồng dạo,vợ hát hân hoan
Đời ta tươi đẹp như ngàn mây xanh
Ngày mai trong sáng yên lành
Phúc đức là để dành phần mai sau
Chẳng tham danh vọng làm giàu
Cơ cầu ích kỷ là đầu oan gia
Nhà ta cha mẹ hiền hòa
Chúng ta mạnh khỏe ấy là điều mong
Đẹp duyên đẹp cả tấm lòng
Thuận buồm xuôi gió êm trong mộng vàng
Qua đêm rồi lại sang ngày
Thường thường vác búa lên rừng chặt cây
Phượng Hoàng trái núi gần đây
Là nơi Thạch tướng cưỡi mây và trời
Miếu thờ bước chẳng tới nơi
Khấu đầu làm lễ xong rồi mới đi
Qua đèo gió thổi vu vi
Tràn đầy sung sướng kém gì cảnh tiên
Dạo chơi ngắm cảnh triền miên
Mặt trời đâu đã xế xiên tà tà
May thay gặp gốc thông già
Tay bổ,miệng niệm phật bà Quan Âm
Na mô đức phật từ tâm
Ba hai nhát búa sầm sầm dương lên
Phi thường lực khỏe trí bền
Lòng thành tiếp sức mải quên nhọc nhằn
Bỗng đâu trong gốc thông cằn
Vàng tung sóng tóe,phật ban nhỡn tiền
Lòng thành tin lại thêm tin
Liền quỳ xuống lạy cầu xin như nguyền
Được thời hương lửa chẳng quên
Dựng chùa thờ phụng canh bên thông già
Ngày đi tháng lại trôi qua
Mười ngày chín tháng sinh ra một trai
Khôi ngô tuấn tú hơn tài
Vợ chồng xung sướng trùng lại phúc nhà
Từ nay cho đến khi già
Một lòng thờ phụng phật Bà Quan Âm
Tiếp đến đời Lê Bảo Thái, vào năm 1720 cụ Phạm Kim Hưng từ quan về quê ở ẩn. Một hôm lên chùa Bổ Đà lễ Phật ngắm thấy phong cảnh tĩnh mịch, sơn thủy hữu tình, cụ liền quỳ xuống xin cụ Nguyễn Đình Cấp cho xuống tóc quy y Phật. Được sự đồng ý của cụ Nguyễn Đình Cấp, cụ về xin phép vợ con cho lên núi xuống tóc xuất gia quy y Phật và mua nửa quả núi xây dựng chùa Tứ Ân, trùng tu Am Tam Đức.
Kệ rằng:
Tôi Tính Ánh vốn quan nhân
Người làng Bình Vọng ở gần Thăng Long
Thương dân tội khổ trong lòng
Ngán thay chiều chính như ong vỡ đàn
Thôi đành treo ấn từ quan
Trở về thôn giã du nhàn cho khuây
Sách ô khăn gói đó đây
Đi tìm cảnh vật để xây mộng vàng
Một hôm đến núi Phượng Hoàng
Ngắm nhìn cảnh vật rộn ràng mến yêu
Cảnh sao cảnh đẹp tuyệt kiều
Hai bên trái núi cảnh đều tối linh
Bên thì Thạch Tướng thiên đình
Giúp dân cứu nước thu linh về trời
Bên thì tế độ cứu đời
Phật bà thác tích về nơi Niết Bàn
Cụ được Triều đình sắc phong: Đại Sỹ Quốc Tứ Hảo Tiết Như Thị Hòa Thượng, pháp tự Tính Ánh Tổ Sư. Cụ đã dày công, khai sơn phá thạch, chặt cây đốn củi mở mang bờ cõi, phát dẫy làm nương, khắc ván in kinh, khai trường thuyết pháp, đào tạo Tăng Ni và sáng lập ra Sơn môn Bổ Đà - Yên Ninh. Ngoài nhiệm vụ mở mang bờ cõi, cấy cầy lương thảo mưu sinh, cụ còn viết kinh, khắc được nhiều bộ kinh để đào tạo Tăng Ni trên toàn quốc.
Như những bộ kinh:
1. Chư kinh nhật tụng
2. Sa di quyển thượng, quyển hạ
3. Lăng nghiêm chính mạch
4. Yết ma hội bản
5. Nam hải ký quy
6. Hộ quốc kinh
7. Trục chỉ quy nguyên
8. San bổ thụ giới đàn tăng tập
9. Giới đàn Ni
10. Thiền Lâm Bảo Huấn
11. Thủy lục chư khoa
12. Vạn thiện đồng quy
13. Phật tâm luận
14. Hộ pháp luận
15. Phạm võng lược sớ
16. Khóa hư lục
17. Dược sư đề cương
18. Giới kinh
19. Di Đà sớ sao
20. Kinh Dược sư
21. Tây phương hợp luận
Những bộ kinh này, đã được in xuất bản sang: Lào, Campuchia, Thái Lan, Nhật Bản, Đài Loan, Hồng Kông, và chùa Quán Sứ để làm giáo trình giảng dạy cho Tăng Ni Sam thiền học đạo.
Những bản mộc này vẫn còn lưu giữ tại chùa Bổ Đà (Bắc Giang), chùa Yên Ninh ( Hải Dương ). Đây là một tài sản vô cùng quý báu của đạo Phật, nhằm xây dựng đạo đức cho Tăng-Ni tín đồ Phật tử trên toàn quốc.
* Lịch sử Tùng Lâm Bổ Đà trải qua các thời kỳ đương cơ Trụ trì.
Tổ sư ( Nguyễn Đình Cấp ).
1. Khai sơn, quốc tứ hảo tiết Tự Tính Ánh Tổ sư.
2. Tự Hải Ngọc Tổ sư.
3. Tự Phổ Giác Tổ sư.
4. Tự Vô Tranh Tổ sư.
5. Tự Tuệ Không Tổ sư.
6. Tự Thanh Dung Tổ sư.
7. Tự Chiếu Không Tổ sư.
8. Tự Phả Thuần Tổ sư.
9. Tự Như Chiếu Tổ sư.
10. Tự Chí Tâm Tổ sư.
11.Tự Phả Tiến Tổ sư.
12 Tự Nguyên Lộc Tổ sư.
13. Thích Quảng Luân Tổ sư.
14. Sa Môn. Tự Tục Vinh.
Đã có dầy công gìn giữ trùng tu xây dựng Tùng Lâm Bổ Đà rộng lớn như ngày nay.
Thật là:
Cảnh thiên nhiên đã sẵn bày
Mở mang lại có bàn tay con người
......
* Về yêu nước:
Chùa Bổ Đà, trong Sơn môn, có các vị Tăng già cởi áo Cà Sa tòng quân nhập ngũ noi theo truyền thống phụng đạo yêu nước của ông cha.
Thời kỳ phong kiến, thống trị đô hộ, các sư đã cùng nhân dân khởi nghĩa, đi tham gia cứu nước.
- Thời kỳ kháng chiến chống Pháp: Chùa Bổ Đà có 12 vị tham gia chống Pháp, trong đó có 6 vị hiến xương máu cho Tổ Quốc.
- Tổng động viên chống Mỹ : chùa Bổ Đà có 3 vị tòng quân nhập ngũ lên đường đánh giặc....
Với truyền thống tốt đẹp đó pháp phái Bổ Đà luôn phát huy biểu thị đức tính đại hùng, đại lực, đại từ bi của đạo Phật.
Nhà văn Nguyên Hồng vân du đến chùa Bổ Đà có vịnh rằng:
Khi nước có ngoại xâm dầy xéo
Gấp cà sa khoác áo chiến bào
Thật là vinh dự xiết bao
Tinh thần vô úy góp vào giang sơn
PHẦN 2
Ngoài việc khai sơn phá thạch, chặt cây đốn củi mở mang bờ cõi, khắc ván in kinh, khai trường thuyết pháp, đào tạo Tăng Ni. Sư Tổ còn soạn thảo ra 3 điều ước 10 điều lệ để phục vụ Sơn môn Bổ Đà - Yên Ninh.
Tức Cảnh Bổ Đà
Bồ Tát tọa ở nơi đây
Sơn cao trông thấy có đầy cây chen
Biết bao ngọn tháp đài sen
Vút nên như thể đua chen cùng trời
Tùng Lâm cảnh đẹp tuyệt vời
Là nơi hội tụ bao đời thiền sư
Là nơi kết hạ an cư
Là nơi thuyết giảng kinh thư nhà thiền
Là nơi mài rũa bút nghiên
Tăng Ni muốn đăng tài hiền về đây
Bạt nàn là một rừng cây
Sáng ra thánh thót có đầy tiếng chim
Đêm về cây ngủ lặng im
Tùng lâm như thể ẩn chìm trong mây
Đám mây trắng ví sợi dây
Vút nên nhè nhẹ bùa vây Phượng Hoàng
Ai đến đây cũng ngỡ ngàng
Tổ Sư chọn chỗ vắng hoang lập chùa
Lánh xa trần tục ganh đua
Lánh xa những chốn vui đùa thế gian
Từ đây đạo pháp truyền lan
Độ đời cứu cả muôn vàn chúng sinh.