Định Luật 7
7 Định Luật Của Người Lãnh Đạo Thuộc Linh
ĐỊNH LUẬT1 ĐỊNH LUẬT2 ĐỊNH LUẬT3 ĐỊNH LUẬT4 ĐỊNH LUẬT5 ĐỊNH LUẬT6 ĐỊNH LUẬT7
YÊU THƯƠNG NGƯỜI KHÁC KHÔNG PHẢI LÀ DỄ?
Dấu hiệu của người làm môn đệ Chúa là yêu thương nhau (GiGa 13:34, 35). Ta không thể nào đề cập công tác lãnh đạo thuộc linh mà chẳng nói gì đến vấn đề yêu thương con người. Các sách về quản trị ngoài đời có thể loại nó ra khỏi phần bàn cãi, nhưng các Cơ-đốc nhân thì không thể làm như thế.
Yêu thương người ta không phải là đơn giản như mới thoạt nghe! Các cấp lãnh đạo vốn biết rõ điều đó, nhưng họ thường không biết lý do tại sao. Một số người chúng ta rất dễ dàng bỏ cuộc trong nỗ lực muốn bộc lộ tình yêu thương. Một trong các thành viên của ban giám đốc chúng tôi có một nhóm môn đệ họp mặt nhau thật sớm vào buổi sáng trước khi mọi người đi làm việc. Ngày nọ, có một người trong nhóm đã không đến để học Thánh Kinh. Các thành viên khác quyết định đến nhà anh ta, đánh thức anh ta dậy, và học Thánh Kinh ngay tại đó! Họ không muốn anh ta vắng mặt và họ yêu thương anh ta đủ để làm một việc gì đó nhân cơ hội ấy. Tôi không nghĩ là anh ta sẽ vắng mặt vào một lần họp mặt nào nữa sau đó.
Các Cấp Lãnh Đạo Có Thể “Ở Với”
Những Người Được Họ Lãnh Đạo Không?
Ở ngoài đời, thỉnh thoảng các cấp lãnh đạo sống tách rời với số người làm việc dưới quyền họ. Các cấp lãnh đạo được nhiều đặc quyền và tiện nghi khác, khiến họ sống phân biệt với các công nhân. Tình bạn tri kỷ không được nuôi dưỡng giữa cấp lãnh đạo với các công nhân. Chúng được xem là nguy hiểm. Các cấp lãnh đạo sống tách rời với giới công nhân. Tất cả những điều đó cho thấy người ta đã không thấu triệt tầm quan trọng của tình yêu thương giữa người lãnh đạo với người làm công.
Có một số gánh nặng và trách nhiệm mà chỉ có người lãnh đạo mới có thể đảm đương. Ông ta không thể tiết lộ một số sự việc với các công nhân, tuy rất có thể là ông ta rất muốn làm như thế. Nhưng đứng riêng ra, hoàn toàn xa cách với những người dưới quyền mình, là một sai lầm lớn. Tự cô lập đối với những người cùng làm việc với mình là một nguyên tắc nguy hiểm.
Có một lúc nào đó , người lãnh đạo
phải chứng tỏ với số người làm việc
với mình rằng họ quan trọng
hơn các nhiệm vụ cần phải làm .
Theo Mac Mc 3:14 khi Chúa Giê-xu gọi các môn đệ Ngài, là để “họ ở với Ngài”. Việc kết hợp chặt chẽ giữa người lãnh đạo với những người ở dưới quyền lãnh đạo ấy là tối quan trọng để công tác lãnh đạo thuộc linh đạt thành công. Phải có ý thức hợp nhất, tương giao, tình bạn và trên hết tất cả, là tình yêu thương. Những người ở dưới quyền lãnh đạo thuộc linh phải biết rằng người lãnh đạo yêu thương họ và làm việc cho họ.
Nhưng phải trực diện với vấn đề này, yêu thương một số người nào đó vốn không phải là chuyện dễ dàng! Lẽ dĩ nhiên là Thượng Đế biết rõ vấn đề này trong đời sống chúng ta, và đã cung cấp những nguồn tài nguyên để chúng ta nhờ đó có được tình yêu thương với mọi người, bất chấp họ có “khó thương” đến đâu đi nữa. Yêu thương người ta không có nghĩa là không thành thật hay lừa dối. Lãnh vực của tình yêu thương của Thượng Đế rất thực tế và mở rộng cho tất cả mọi người cùng khảo sát. Nó là việc kết hợp nhiều điều nhỏ nhặt mà chúng ta làm cho người khác.
Khi tình yêu thương của Thượng Đế được kiểm soát, thì bạn chẳng cần chi phải giả mạo nó hay “lập một mặt trận giả”. Bạn có thể rất thật tình, thành thật và “phơi bày tất cả ruột gan” của mình trước mặt người khác. Bạn có thể thoải mái vui vẻ liên hệ với mọi người mà không cần lo chẳng hay người khác nghĩ thế nào về mình.
Với các cấp lãnh đạo thì đây là một vấn đề đặc biệt, vì họ vốn biết rõ những gì người khác nghĩ và nói về mình. Họ luôn luôn đứng trước mặt mọi người, cho họ nhìn thấy và đánh giá. Đời sống họ bị phơi ra trước mọi người nhiều hơn phần đông những người khác. Họ phải làm việc với mọi loại nhân cách, và không được hưởng sự xa hoa của những người không phải là lãnh đạo, những người vốn dễ dàng từ bỏ một mối liên hệ vì họ chẳng có trách nhiệm gì.
Các Vấn Đề Của Cấp Lãnh Đạo Trong Việc Yêu Thương Người Ta
Trước khi chúng ta có một cái nhìn theo chiều sâu vào tình yêu thương của Thượng Đế, mà các cấp lãnh đạo cần phải hiểu rõ và ứng dụng vào các mối liên hệ của họ với mọi người, chúng ta cần nhận diện các vấn đề phổ biến mà các cấp lãnh đạo thường gặp khi tỏ lòng yêu thương người khác. Các cấp lãnh đạo phải dễ dàng nhận diện được ngay các vấn đề ấy, và tất cả các cấp lãnh đạo có triển vọng đều phải học tập để nhận ra chúng và biết cách phải đối phó với chúng.
Một số cấp lãnh đạo vốn quá bận rộn.
Về bản tính thì một người lãnh đạo hay điều hành vốn hướng về một mục tiêu, nhiều hơn là phần đông người khác. Người lãnh đạo tìm cách hoàn tất mọi công việc hay một công trình nào đó, càng được nhiều bao nhiêu càng hay bấy nhiêu. Thường thường thì điều này khiến cho người lãnh đạo có vẻ và có thể trở thành vô cảm đối với mọi người. Người lãnh đạo thường cảm thấy bị áp lực của vô số trách nhiệm đè nặng trên mình và chỉ đơn giản là chẳng còn thì giờ dành cho những người cùng làm việc với mình nữa. Điều này thường trở thành một vấn đề về các ưu tiên.
Với người lãnh đạo, nhiệm vụ phải thực hiện dường như là quan trọng hơn bất kỳ một nhu cầu hay vấn đề cá nhân nào. Theo một ý nghĩa thì điều này là đúng. Nhưng điều cũng hết sức nguy hiểm khi ta bỏ qua hay chẳng quan tâm gì đến người khác. Chúa Giê-xu dành riêng thì giờ để gặp gỡ nhiều người khác, từng cá nhân cũng như cả đám đông quần chúng. Các cấp lãnh đạo phải thu xếp các ưu tiên của mình, sao cho thì giờ dành cho người khác không bị xem là thì giờ phung phí hay thì giờ không quan trọng.
Rất có thể là ta dành quá nhiều thì giờ cho người khác, do đó, gây trở ngại cho sự thành công của công tác lãnh đạo của chúng ta và cho nhu cầu của nhiều người khác đang bị lệ thuộc vào việc người lãnh đạo chu toàn các trách nhiệm của mình. Nhưng có một lúc nào đó, người lãnh đạo phải chứng tỏ với số người làm việc dưới quyền mình rằng, đối với ông ta, thì họ là quan trọng hơn các nhiệm vụ hay dự án cần phải làm. Nếu không làm được như thế, người lãnh đạo sẽ khám phá ra rằng chính sự lãnh đạo mà ông ta cần để hoàøn thành các nhiệm vụ kia đã bị giảm sút, và sẽ không còn nữa khi ông ta cần đến nó. Tình yêu thương và sự trung thành vốn có liên hệ hết sức chặt chẽ với nhau. Tình yêu thương giữa người lãnh đạo và những người được ông ta lãnh đạo càng được chứng tỏ rõ ràng bao nhiêu, thì các mối dây liên hệ và lòng trung thành sẽ càng vững chắc bấy nhiêu.
Tự đòi hỏi quá nhiều điều
Vấn đề tệ hại nhất mà người lãnh đạo hay gặp là chính ông ta. Người lãnh đạo vốn cầu toàn hơn con người trung bình. Ông ta trông mong cho mọi việc phải được làm đúng và với một tầng lớp nào đó sẽ nói tốt cho tổ chức hay công việc mà ông ta đang làm. Ông ta hấp tấp và lao vào những lãnh vực mà người khác có thể tự lo liệu lấy. Bỏ qua thì khó hơn là rước lấy nhiều việc hơn. Ông ta làm việc rất thành công và thường rất vui vì việc đó.
Vấn đề nảy sinh rất ít khi được người lãnh đạo nhận thấy vào lúc nó xảy ra. Những đòi hỏi và áp lực mà ông ta tự đặt lấy trên cuộc đời mình và thời dụng biểu của mình, khiến hầu như ông ta chẳng còn có thì giờ nào để yêu thương người khác nữa. Ông ta biện minh cho việc đó bằng cách lý luận rằng người khác sẽ tán thành những giờ làm việc lao khổ mà ông ta đã dấn thân vào, và sẽ sẵn sàng thấy rõ các động cơ đã thật sự thúc đẩy ông ta là tốt và có lợi lâu dài cho tất cả những người có liên hệ.
Tuy nhiên con người cần tình yêu thương và cần biết là người lãnh đạo yêu thương họ. Và thành thật mà nói thì việc này đòi hỏi thì giờ! Một nhân sự có thể cần đến tình thương và sự khích lệ của người lãnh đạo nhưng vì người lãnh đạo luôn luôn bị áp lực và đòi hỏi mà chính ông ta tự áp đặt trên mình, cho nên người kia cảm thấy mình có lỗi nếu phải chiếm đoạt số thì giờ rất có giá trị của ông ta.
Người lãnh đạo phải có nhiều thì giờ thư dãn hơn và dành nó cho người khác nữa. Theo một ý nghĩa người ấy phải có kỷ luật hơn trong cách sử dụng thì giờ. Các cấp lãnh đạo phải học tập dành thì giờ để bộc lộ tình yêu thương đối với người khác, cũng như phải chắc chắn là mình đã hoạch định số thì giờ dành cho những công việc khác.
Các cấp lãnh đạo cũng phải học tập để có thì giờ thư dãn nhiều hơn và giải toả bớt các áp lực. Có thể họ sẽ sống thọ hơn! Hãy xét lại thời dụng biểu và các trách nhiệm của bạn. Có những việc gì bạn đang làm, mà nhiều người khác vẫn có thể làm được không? Nếu bị bắt buộc, thì ngay lúc này đây, bạn có thể loại ra những công việc nào? Điều gì tạo cho bạn nhiều áp lực và thất vọng nhất? Điều bạn đang làm và vẫn tiếp tục làm quan trọng đến mức độ nào? Những câu hỏi này và nhiều câu hỏi khác nữa cần phải được người lãnh đạo tiếp tục đặt ra.
Vấn đề mất kiên nhẫn.
Các cấp lãnh đạo thường tỏ ra mất kiên nhẫn với những người cùng làm việc với mình vì nhiều lý do khác nhau. Bất chấp các lý do ấy, nóng vội vốn không thuộc về nếp sống của người lãnh đạo thuộc linh. Nó trái ngược hẳn với một đời sống đầy dẫy Thánh Linh. Những người chung quanh một người lãnh đạo như thế thấy rằng ông (hoặc bà) ta thiếu tình thương và chẳng quan tâm lo lắng cho họ.
Thiếu kiên nhẫn được phản ảnh qua cách nói hoặc nhìn của chúng ta. Có những cực đoan của những người hay nói lớn hơn, nhanh hơn vì họ sốt ruột, hoặc cứ nhìn (hay đập đập) vào chiếc đồng hồ của họ khi có người trò chuyện với mình. Nhiều biểu hiện sốt ruột tế nhị hơn được nhìn thấy khi người lãnh đạo không giao trách nhiệm cho người khác, hay làm một việc gì đó mà đáng lẽ người dưới quyền ông ta phải làm, nhưng lại chưa làm.
Phải cẩn thận đừng tỏ ra quá nhạy cảm .
Trong một số trường hợp , làn da của chúng ta
phải chai như da con hà mã vậy .
Nhiều khi điều có vẻ như sốt ruột đối với một số người, lại là sự khôn ngoan và tài lãnh đạo của một số người khác. Khi có người cứ ngồi lì tại văn phòng của bạn và tiếp tục phung phí thì giờ bằng cách tán gẫu những điều vô nghĩa của một kẻ ăn không ngồi rồi, biểu lộ một nếp sống lười biếng và vô kỷ luật, thì không phải là bạn tỏ thái độ mất kiên nhẫn khi cắt đứt những thói xấu ấy đi, và bắt buộc người đó phải trở lại với công việc. Đó là một phần của tài lãnh đạo đấy! Các cấp lãnh đạo thỉnh thoảng cần có sự khôn ngoan để biết phân biệt sự mất kiên nhẫn của chính họ, với tài năng và kỷ luật lãnh đạo.
Mất kiên nhẫn thường nảy sinh do tốc độ mà những người khác làm công việc của họ. Điều quan trọng là các cấp lãnh đạo không nên đòi hỏi người ta nhiều hơn là các khả năng của họ. Nhiều khi một người lãnh đạo trông mong người dưới quyền mình phải làm việc theo một tốc độ hay trình độ mà chỉ chính người lãnh đạo ấy mới có thể làm nổi. Lẽ dĩ nhiên điều này phản ảnh việc thiếu tình yêu thương của người lãnh đạo.
Lắm khi đó có thể là một vấn đề về kỷ luật: Có người vốn lười biếng, trì hoãn. Nếu là một người lãnh đạo có tình yêu thương, ông ta sẽ chú trọng vào các khả năng và tài năng của những người dưới quyền mình, và tìm cách thách thức mà không ép buộc người kia. Người lãnh đạo sẽ dành đủ thì giờ cho người kia hoàn thành nhiệm vụ được giao mà không tạo áp lực như áp lực ông ta tự áp đặt cho mình, nhưng những người khác thì không thể chịu đựng nổi. Một người lãnh đạo có tình thương sẽ làm tất cả những gì có thể làm được để bảo vệ cho những người dưới quyền mình khỏi thất bại. Ông ta sẽ tỏ ra kiên nhẫn với họ, và vui vẻ khi theo dõi và thấy họ tăng trưởng và thắng vượt được điều có lẽ vốn là một nhược điểm trong quá khứ.
Bất an về địa vị của mình.
Nhiều cấp lãnh đạo cảm thấy bị đe dọa. Nhiều khi họ bị những người xuất sắc đầy hứa hẹn trong tổ chức, có vẻ có nhiều tài năng và khả năng mà người lãnh đạo đó không có, đe doạ. Có khi sự bất an của họ là do sự thiếu tán thưởng và chấp nhận. Nếu người ta thỉnh thoảng không đáp ứng tích cực với người lãnh đạo ấy, ông ta sẽ có khuynh hướng nghi ngờ và đặt vấn đề về sự thành công của mình, mà hậu quả là cảm thấy mình bị đe doạ.
Các cấp lãnh đạo đang gặp nhiều vấn đề về bất an trong công việc làm. Đây là một vấn đề đặc biệt của quý vị mục sư lãnh đạo. Trong lịch sử của nó, một Hội thánh trung bình không thể giữ được một vị mục sư suốt nhiều nhiệm kỳ. Quý vị mục sư cứ thuyên chuyển luôn, và thường thay đổi nhiệm sở để có thể lại bắt đầu một cách mới mẻ, hay trốn chạy khỏi một vấn đề trước đó. Thiếu thành công trong một Hội thánh có thể cũng ngăn trở sự thành công của vị ấy trong một Hội thánh khác.
Cho dù các nguyên nhân ẩn phía sau sự bất an mà một cấp lãnh đạo có thể cảm thấy là gì, hậu quả của nó thường là sự thiếu tình yêu thương đối với người khác. Những người cảm thấy bất an vì nhân cách, khả năng hay chức việc của mình thường có khuynh hướng muốn che giấu nó đối với công chúng và nấp mình phía sau các công trình, thành tích của quá khứ. Liên hệ thân thiết với một người khác trong tổ chức có thể như là một điều nguy hiểm. Người lãnh đạo có thể sợ điều mà người kia có thể làm vào một ngày nào đó liên hệ với điều mà mình từng tiết lộ với người ấy với tư cách bạn thân. Lẽ dĩ nhiên là tình yêu thương của Thượng Đế thì khác hơn nhiều! Nhưng các cấp lãnh đạo vốn ý thức được rằng các định chuẩn về tình thương và các nhược điểm của con người có thể cũng thường xen vào đường lối yêu thương của Thượng Đế. Các hậu quả có thể là đầy đe doạ đối với người lãnh đạo.
Một trong những triệu chứng rõ ràng nhất của một người lãnh đạo bất an là thái độ hay chê bai người khác, nhất là những người đại diện cho quyền lãnh đạo thuộc linh. Một tinh thần phê bình chỉ trích nảy sinh từ một người lãnh đạo như thế, và những nhận xét có tính cách xúc phạm làm giảm uy tín người khác vốn phổ biến. Người lãnh đạo ấy cố tìm cách phê bình chỉ trích để củng cố địa vị và uy quyền của chính mình trước mắt nhiều người khác. Điều này thường có tác dụng ngược!
Quá nhạy cảm về những gì người khác nghĩ.
Thật là dễ bỏ qua một đáp ứng bằng tình yêu thương đối với một người dựa trên những điều mà những người khác có thể nghĩ. Một số quý vị mục sư cảm thấy tỏ một lời khích lệ với một tín đồ chứ không phải là với toàn thể tín đồ, là một sai lầm. Nó có thể đưa những người khác đến chỗ nghĩ rằng ông mục sư không thật sự quan tâm đến họ, hoặc có thiện cảm với một tín đồ nào đó hơn là với những người khác.
Tuy nhiên, vấn đề thật sự không phải là những gì người khác nghĩ, mà là Thượng Đế muốn chúng ta làm gì? Có thật là cần phải có một lời khích lệ không? Có một ý thức tập thể nơi bạn chỉ bày tỏ tình yêu thương trong các buổi họp công cộng và bỏ qua những thì giờ riêng tư khi bạn phải chứng tỏ ý thức cá nhân, là một sai lầm lớn. Hậu quả của một hành động như thế là vị mục sư có vẻ đạo đức giả - chỉ yêu thương nơi công cộng mà chẳng thương yêu trong chỗ riêng tư! Các tín đồ phải biết rằng một vị mục sư vốn đầy lòng yêu thương dịu dàng khi ông ta không đứng trên toà giảng cũng như lúc ông ta đang truyền giảng. Mối liên hệ của vị mục sư với các cá nhân trong cả tuần lễ, là điều giúp ích cho chức vụ trên toà giảng của ông ta vào Chúa nhật.
Các cấp lãnh đạo thuộc linh phải thận trọng trong việc đánh giá các hành động của mình căn cứ vào những gì người khác nghĩ hoặc nói. Đấng mà chúng ta có trách nhiệm phải khai trình là chính Thượng Đế. Khi chúng ta đã hoà thuận với Ngài, thì điều người khác nghĩ chẳng có nghĩa là gì cả! Khoảnh khắc chia xẻ tình yêu thương của Chúa Cứu Thế với một người khác sẽ trở thành sức mạnh cho chức vụ của chúng ta. Sẽ luôn luôn có người phê bình chỉ trích bạn! Phải cẩn thận đừng tỏ ra quá nhạy cảm. Trong một số trường hợp, làn da của chúng ta phải chai như da con hà mã vậy.
Nỗi sợ các mối liên hệ thiết thân.
Một số các cấp lãnh đạo tin rằng các mối liên hệ thân thiết và chức vụ lãnh đạo là hai điều kỵ nhau. Thật là bất hạnh. Nó sẽ dẫn tới một chức vụ lãnh đạo chẳng có tình yêu thương mà suy cho cùng, thì đó không phải là chức vụ lãnh đạo thuộc linh.
Các cấp lãnh đạo thường tự xây chung quanh mình một số vách tường bảo vệ, không cho phép nhiều cá nhân khác đến gần mình. Họ sợ rằng các mối liên hệ thân thiết với người khác sẽ phơi bày ra cho mọi người thấy con người thật của họ. Các lỗi lầm và nhược điểm của họ sẽ trở thành rõ rệt cho người khác, và một số người lãnh đạo cảm thấy khi việc này xảy ra, họ sẽ bị mất một số uy tín hay sự kính nể nào đó đối với tha nhân. Bạn chẳng bao giờ biết được người kia có thể làm gì với những gì anh ta biết.
Cũng có một khuynh hướng tin rằng người ta sẽ không còn thích bạn nhiều nữa, một khi họ biết rõ các lỗi lầm của bạn. Nhưng ChCn 17:17 nhắc nhở chúng ta rằng: “Tình thân hữu keo sơn mãi mãi. Nghĩa anh em quý lúc khổ nguy”. Câu 9 cùng chương ấy chép: “Che đậy lỗi lầm được người yêu mến. Nhắc lại sơ hở làm tình bằng hữu tiêu tan”. Tất cả những người lãnh đạo đều cần đến tình bạn thân thiết ấy, tức là cần một ai đó biết mình là người như thế nào mà vẫn yêu thương và che chở cho mình.
Bạn thân cũng là người quở trách người lãnh đạo. 27:6 chép: “Bạn gây thương tích hơn là địch thù hôn hít”. Một bạn tri kỷ sẽ giúp người lãnh đạo có được một viễn ảnh đúng về tình hình và thấu hiểu được rõ ràng hơn chính các động cơ thúc đẩy mình. 27:17 đề cập vấn đề này khi câu ấy chép: “Sắt mài sắt, bạn rèn bạn”.
Phần đông người ta chẳng bao gìơ có nhiều bạn tri kỷ. Họ có thể có nhiều chỗ quen biết và bạn bè xã giao, nhưng số bạn thân thiết hay tri kỷ thường rất ít. Loại tình bạn này được phát triển qua một thời gian lâu dài, và được thử thách trong nhiều hoàn cảnh, tình hình khác nhau. Thật là nguy hiểm khi chúng ta chia xẻ quá nhiều điều cho những người không phải là bạn tri kỷ. Cần phải có thời gian để xây dựng một tình bạn như thế, và để có lòng tin cậy và tình yêu thương lẫn nhau để che chở và bảo vệ nhau.
Chính trong lãnh vực của tình bạn tri kỷ mà một người lãnh đạo học biết được tình yêu thương. Khi một người lãnh đạo tự cô lập hoá khỏi tha nhân đến độ chẳng có bạn tri kỷ nào cả, thì sự tăng trưởng của vị ấy trong tình yêu thương bị suy giảm rất nhiều.
Học Tập Yêu Thương Người Khác
Học tập yêu thương người khác rất thiết yếu cho chức vụ lãnh đạo thuộc linh. Để thắng vượt một số các vấn đề về lãnh đạo vừa được đề cập, vài nguyên tắc cơ bản dưới đây sẽ rất cần thiết.
Thủy Chung như nhất.
Hãy học tập bày tỏ lòng yêu thương đối với mọi người bất cứ lúc nào. Người ta phải trông chờ được vào người lãnh đạo khi gặp khó khăn thử thách. Tình yêu thương của người ấy luôn luôn hiện diện.
Một bạn thân của tôi đang tình cách đốn một cây to trong sân trước nhà anh ta, Một trận bão lớn đang diễn ra, và nhổ bật gốc nhiều cây. Anh ta đang cần người giúp. Anh ta gọi tôi, cho tôi biết ý định của mình, và nhấn mạnh tính cách cấp bách của công việc ấy. Tôi lập tức chạy sang nhà anh và giúp anh. Thật là một việc hay, cây kia suýt chút nữa đã đè bẹp ngôi nhà của anh ta! Chúng tôi bị ướt cả, và anh quay sang tôi, bảo: “Cám ơn bạn!” Chỉ cần như thế là đã đủ lắm rồi!
Nhu cầu.
Nếu các cấp lãnh đạo tỏ tình yêu thương, thì điều không thể tránh được là họ sẽ bị các nhu cầu của tha nhân thu hút. Họ sẽ sẵn sàng giúp đỡ. IGi1Ga 3:17 chép: “Nếu một tín hữu có của cải sung túc, thấy anh em mình thiếu thốn mà không chịu giúp đỡ, làm sao có thể gọi là người có tình thương của Thượng Đế?”
Một trong các thành viên trong ban giám đốc của chúng tôi vốn là một khích lệ lớn cho tôi. Bất cứ khi nào tôi thấy cần, thì ông ta đều có mặt. Tôi biết ông ta rất yêu mến tôi. Tôi cần một chiếc ô tô chăng? Thế là ông ta đưa chiếc xe của ông ta cho tôi lái đi bao lâu tuỳ ý, chẳng cần đắn đo chi cả Ông ta đáp ứng các nhu cầu của tôi.
Tin cậy.
Một người lãnh đạo có thể tự huỷ sự thành công của mình nếu không thể được người khác tin cậy. Thanh danh của một bạn đồng công khác có thể được bạn bảo vệ an toàn khi người ấy vắng mặt hay không? Rất nhiều tình bạn có thể bị phá huỷ bằng những chuyện ngồi lê đôi mách, hơn bất kỳ một việc gì khác. ChCn 11:13 chép: “Đứa mách lẻo rêu rao điều kín giấu. Người tín trung bảo mật chuyện riêng tư”.
Các cấp lãnh đạo chẳng bao giờ nên phản lại điều bí mật mà người khác tin cậy phó thác cho mình. Những gì người ta tâm sự riêng với bạn phải vẫn được giữ nguyên như thế - đó là những chuyện riêng tư!
Trong một lần họp ban giám đốc, chúng tôi có thảo luận về một người, rằng chẳng hay ông ta có thể trở thành một người lãnh đạo giỏi trong một lãnh vực nào đó của sự phục vụï hay không. Chỉ có một điểm duy nhất chống lại ông ta, là ông ta không thể tin cậy được. Ông ta có vấn đề về ngồi lê mách lẻo. Ông ta không thể giữ kín điều người khác tin cậy uỷ thác cho mình. Chúng tôi biểu quyết không giao nhiệm vụ lãnh đạo cho ông ta lần ấy.
Tự chủ.
Vì thật là khó yêu thương một số người, thỉnh thoảng chúng ta bị mất tự chủ. Những người lãnh đạo không tự kìm chế được hay dễ bị các sự việc làm nổi giận, tự chứng tỏ là mình thiếu tình thương đối với người chung quanh. Tự chủ là một trái của Đức Thánh Linh (xem GaGl 5:22, 23) và nó phải có trong đời sống người lãnh đạo thuộc linh. Nét tương phản giữa một người chỉ có rất ít ngoại trừ tình yêu thương, với người có rất nhiều nhưng thiếu tình yêu thương đã được minh hoạ rõ ràng trong ChCn 15:16-18. Theo khúc sách này, thì ở đâu không có tình yêu thương, thì ở đó có giận dữ và tranh cạnh.
Những người làm việc với những cấp lãnh đạo thiếu tự chủ sẽ đi đến chỗ tin rằng các vị ấy không yêu thương mình. Đúng hơn thì đây là một kết luận thật rõ ràng.
Thành thật.
Đây là đức tính trái ngược với đạo đức giả - một từ ngữ ngày xưa vốn được dùng chỉ một diễn viên thủ một vai khác chỉ bằng cách đơn giản là đeo một chiếc mặt nạ vào. Từ ngữ Anh văn hypocrite: giả hình vốn do ý niệm đeo mặt nạ mà ra. Người thành thật không chịu thủ vai một người khác. Người ấy không chịu giả hình. Tình yêu thương phải thành thật và xuất phát tự đáy lòng. Bạn không thể giả mạo nó!
Nhiều vấn đề về lãnh đạo có thể được giải quyết nếu các cấp lãnh đạo thành thật và thật lòng yêu thương. Lừa dối và không thành thật phá huỷ chức vụ lãnh đạo thuộc linh. Chúng ăn mòn lòng tin cậy của mọi người đối với bạn, khiến họ thắc mắc đặt vấn đề đối với mức độ của sự hiến thân và tình yêu thương của bạn.
Tha thứ.
Eph Ep 4:32 dạy chúng ta phải có lòng nhân từ yêu mến nhau, tha thứ nhau. IPhi 1Pr 4:8 dạy tình yêu thương tha thiết khoả lấp nhiều tội lỗi. Nếu không biết tha thứ, các cấp lãnh đạo sẽ không thể bộc lộ tình yêu thương. Con người đáp lại những người sẵn sàng tha thứ, tìm cách phục hồi và tái lập các mối liên hệ thay vì xé nát chúng đi.
Nếu các cấp lãnh đạo không thể tha thứ cho người khác vì những gì họ đã nói hoặc làm, những người xung quanh họ sẽ cảm thấy tinh thần cay đắng, không chịu tha thứ đó, và sẽ xa lánh, không chịu gần gũi và ủng hộ cho người lãnh đạo ấy.
Một bà nọ cho tôi biết lý do tại sao bà ta không ủng hộ một thành viên nào đó trong ban giám đốc. Bà nhận thấy ông ta thiếu tha thứ đối với một bà khác, và không muốn mình gặp phải một việc giống như thế. Bà ta xa lánh lãnh vực phục vụ của nhân viên trong ban giám đốc ấy là vì lý do đó. Tôi khuyên bà ta nên tha thứ, cùng đến với nhân viên trong ban giám đốc kia để chia xẻ tầm quan trọng của việc ông ta nên tha thứ cho bà kia. Ông ta đã đáp ứng thuận lợi, và bây giờ cả hai bà nọ đều tham gia trong lãnh vực phục vụ của ông.
Cũng như tất cả mọi người khác, các cấp lãnh đạo cũng gặp những vấn đề về yêu thương con người. Trong các mối liên hệ giữa người và người với nhau, thật là dễ quên giá trị của tình yêu thương. Nha Dc 8:6, 7 cho chúng ta biết rằng tình yêu mạnh như sự chết, nhiều nước cũng không dập tắt được nó, nhiều sông cũng chẳng nhận chìm nó được. Mọi tài năng, mọi khả năng trên đời đều không thể thay thế được tình yêu. Các cấp lãnh đạo phải chú trọng vào những gì Thượng Đế đã làm. Chỉ một mình tình yêu thương mới ngăn chận nổi mọi áp lực của cuộc đời và chịu đựng nổi mọi vấn đề của người ta.
BẢNG KIỂM ĐIỂM CỦA NGƯỜI LÃNH ĐẠO
1. Bạn có thấy thật là khó yêu thương một số người trong công tác hay lãnh vực phục vụ của mình không? Họ là ai? Bạn đối xử với họ như thế nào?
2. Bạn có cảm thấy mình quá “bận rộn” để có thể bộc lộ tình yêu thương với những người chung quanh không?
3. Nếu bạn có quá nhiều những điều đòi hỏi nơi mình, có những việc nào bạn đang làm có thể giao cho người khác để làm giảm thiểu gánh nặng của bạn không? Hãy liệt kê một vài việc.
4. Bạn có nhịn nhục, kiên nhẫn với các bạn đồng công và những người khác nữa đang cộng tác với mình không? Bạn có biết những gì khiến bạn mất kiên nhẫn không?
5. Bạn có thể nêu tên vài triệu chứng do bất an trong chính đời sống mình không?
6. Có bao giờ bạn tỏ ra quá nhạy cảm đối với những gì một người nào đó nói hay không? Bạn thắng vượt nó như thế nào?
7. Bạn có dành thì giờ xây dựng các mối liên hệ bạn bè thân thiết với người khác không? Như thế nào?
8. Trong sáu nguyên tắc cơ bản nhằm học tập yêu thương người khác, bạn cần áp dụng những nguyên tắc nào vào cuộc đời mình?
LÀM THẾ NÀO ĐỂ YÊU THƯƠNG NGƯỜI KHÁC BẰNG TÌNH YÊU THƯƠNG CỦA THƯỢNG ĐẾ
Lời đáp thật sự cho nhu cầu yêu thương người khác của một cấp lãnh đạo, là bản thân người ấy phải biết rõ và từng trải được tình yêu thương của Thượng Đế. IGi1Ga 4:8 chép: “Thượng Đế chính là Tình yêu”. Tình yêu thương vốn từ Ngài mà đến. Tình yêu thương của Ngài rất đặc biệt và siêu vượt trên mọi loại tình yêu thương khác. Nó khác với sự đa cảm và dễ xúc động. Tình yêu thương của Thượng Đế vẫn còn đó khi tất cả các loại tình yêu thương khác đều bị cạn kiệt, không còn tồn tại nữa. Nó vẫn ở lại với người ta trong cơn khủng hoảng, gặp hoạn nạn. Nó tồn tại mãi mãi và thoả mãn sâu xa.
Người Hi-lạp cổ thời đã biết có nhiều loại tình yêu thương khác nhau. Họ dùng ít nhất là bốn từ ngữ khác nhau để mô tả tình yêu thương. Một chữ diễn tả sự thương yêu trìu mến thuộc thể (eros). Theo nghĩa xấu nó ám chỉ tình dục vô luân. Chúng ta đều biết rằng “làm tình” không phải bao giờ cũng do tình yêu thương của Thượng Đế thôi thúc.
Một từ ngữ khác được người Hi-lạp (Storge) dùng để nói về tình yêu thương gia đình, giữa cha mẹ và con cái. Nó cũng được sử dụng để đề cập tình thương giữa các loài động vật. Họ còn có một chữ khác (phile) để diễn tả tình bạn chí thân. Chúa Giê-xu gọi các môn đệ Ngài là “bạn hữu” trong GiGa 15:14, 15, và chữ dùng ở đây là philoi.
Từ ngữ quan trọng nhất đối với các tín hữu là agape, tình yêu thiên thượng. Khi Thánh Kinh đề cập tình yêu của Thượng Đế mà tất cả chúng ta đều cần để yêu mến lẫn nhau thì phần lớn bộ sách ấy đều dùng từ ngữ agape. Chính đó là tình yêu đã đưa Chúa Cứu Thế Giê-xu lên thập tự giá để chịu chết vì tội lỗi chúng ta. Agape ám chỉ các hành động bất vị kỷ. Đó là tình yêu cống hiến, ban tặng. Nó quan tâm đến sự an vui phúc lợi của người khác mà chẳng nghĩ gì đến lợi lộc cá nhân, riêng tư. Từ hi sinh là ý niệm căn bản của từ ngữ agape. Đó là tình yêu không đòi hỏi điều kiện trước khi nó được thực hiện. Đó là sự tha thứ. Nó xây dựng lên chứ không phải là xé cho rách, phá cho sập. Nó luôn luôn khích lệ và tìm cầu điều tốt nhất cho đối tượng của mình.
Thảm Kịch Của Quyền Lãnh Đạo Không Có
Tình Yêu Thương Của Thượng Đế
ICo1Cr 13:1-3 trình bày năm lãnh vực trong đó tình yêu của Thượng Đế là thiết yếu, hay các kết quả không kiến hiệu trong đời sống người khác. Căn nguyên tại sao các cấp lãnh đạo không thôi thúc giục giã được người khác có thể được tìm thấy trong mấy câu này.
Lời nói thiếu sót!
Phao-lô nói “Dù tôi nói được các ngôn ngữ của loài người và thiên sứ, nhưng không có tình yêu thì tôi cũng chỉ khua chiêng, gióng trống ồn ào”. Các cấp lãnh đạo phải nói. Hy vọng những người khác nghe mình. Nếu họ không chịu nghe, vấn đề có thể do “lời nói thiếu sót” đã được đề cập ở đây: thiếu tình yêu thương. Rất có thể là khẩu tài vẫn có đấy, nhưng có lẽ là hãy còn thiếu tình yêu của Thượng Đế.
Ngày nọ, tôi ngồi lại trong một văn phòng bài trí sang trọng để trò chuyện với một lãnh tụ về một lãnh vực bất đồng đặc biệt. Tôi vô cùng kinh ngạc trước tài hùng biện và tinh thông ngôn ngữ của ông ta. Nhưng càng nói lâu bao nhiêu, ông ta càng khiến tôi khó chịu bấy nhiêu. Tôi cảm giác ông ta chẳng hề quan tâm tới quan điểm của tôi hoặc chính con người tôi. Cảm thúc ấy khiến tôi bị chạm tự ái, và tự cảm thấy mình không thể đáp lại những gì ông ta nói. Tôi nghĩ vấn đề này rất thường xảy ra khi chúng ta trò chuyện với người khác. Lắm khi hoàn toàn chỉ vì lý do ấy mà thôi - chỉ nói mà thôi! Chẳng có tình thương. Và thường thường thì nó xúc phạm người khác.
Chỉ có tri thức mà thôi, là “kiêu căng”.
ICo1Cr 13:2 mô tả các vấn đề về quán thông mọi tri thức, nhưng không có tình yêu thương. Các cấp lãnh đạo phải là những người hiểu biết. Kẻ dốt nát thì chẳng lãnh đạo ai được. Nhưng điều quan trọng là tri thức phải có tình yêu thương đi kèm - và đây là một thế quân bình rất khó đạt.
8:1 dạy chúng ta “Kiến thức dễ sinh kiêu căng, còn lòng yêu thương xây dựng cho nhau” Nó chẳng hơn gì sự dốt nát - nó không phải là vấn đề! Vấn đề là chúng ta cần có tình yêu thương cộng với kiến thức để biến tri thức trở thành kiến hiệu trong đời sống người khác.
Một thành viên trong ban giám đốc cho tôi biết trước đây ít lâu về một thượng cấp của cô ta rằng: “Ông ấy biết rõ những gì mình nói; chỉ có điều là ông ta chẳng coi ai ra gì cả!” Một vấn đề phổ biến. Muốn giúp ích được cho người khác, thì kiến thức thiết yếu phải có tình yêu thương đi kèm.
Đưc tin mà không có tình yêu thương thì chẳng là gì cả.
Các cấp lãnh đạo không thể điều hành công việc mà không có đức tin. Nhưng nếu thiếu tình yêu thương thì chúng chẳng là gì cả (xem ICo1Cr 13:2). Có đức tin dời núi thì quả là một ân tứ phi thường! Đức tin lớn đó tạo phấn khởi cho mọi người chung quanh.
Các cấp lãnh đạo có đức tin tin rằng Thượng Đế có thể làm những việc mà phần đông chúng ta chưa hề được nhìn thấy hoặc kinh nghiệm. Những trái núi lớn, thoạt nhìn dường như là các chướng ngại vật khó vượt qua đối với công việc Chúa vẫn phải sụp đổ trước đức tin của một số các nhà lãnh đạo! Nhưng nếu không có tình yêu thương, thì các kết quả sẽ vô cùng nhỏ bé trong việc tạo ảnh hưởng trên người khác.
Một vị mục sư mà tôi quen biết, thách thức các tín đồ của ông phải có đức tin lớn. Ông tin rằng Thượng Đế có thể làm được những việc dường như không thể làm nổi nhân một hoàn cảnh đặc biệt nào đó. Chỉ
Có một số người rất khó cộng tác
(trong trường hợp bạn thiếu chú ý ). Nhiều khi chúng ta phải lấy tình yêu thương mà "chịu đựng " họ . Dù sao thì Thượng Đế cũng đã "chịu đựng " chúng ta .
có điều rắc rối là ông quá xa cách các tín hữu. Vì quá nhiệt thành, mà ông đã đánh mất họ. Trong nỗ lực muốn thấy Thượng Đế làm những việc vĩ đại, ông đã chạy qua mặt họ. Các tín đồ không chịu cộng tác với ông, cho nên nỗ lực của ông ta là một thất bại nặng nề!
Có gì trục trặc, bất ổn thế? Các tín đồ cảm thấy ông không yêu thương họ. Họ cảm thấy ông ta chỉ muốn lợi dụng họ để xây lên một công trình vĩ đại cho đức tin của ông ta! Trong công tác lãnh đạo, đức tin mà không có tình yêu thương là một thảm hoạ.
Dâng hiến mà không có tình thương thì chẳng ích lợi gì.
Các cấp lãnh đạo phải có tấm lòng sẵn sàng dâng hiến. Họ phải chia xẻ với tín đồ lúc gặp thiếu thốn. Nhưng 13:2 nhắc nhở chúng ta rằng cả khi chúng ta dâng hiến cả tài sản “nhưng không do tình yêu thương... cũng vô ích”. Câu này thật là rõ ràng. Chắc chắn là đang có người nghèo thiếu. Có lẽ mọi người đều ý thức là cần phải có việc “bố thí”. Nhưng nếu không do tình yêu thương, thì chỉ vô ích mà thôi. Hành động không hoàn tất được ý định. Bố thí mà không có tình thương, thì không đạt được ý hướng của nó. Tất cả của dâng trên đời này cũng không giúp ích gì được cho người ta khi không có tình yêu thương.
Tử đạo mà không có tình yêu thương cũng vô ích.
Cả khi bạn xả thân để chịu hoả thiêu - thậm chí bạn dám tử vì đạo, thì theo 13:3 việc ấy cũng chỉ phí công vô ích mà thôi. Tử đạo để chỉ tử vì đạo mà thôi, thì không phải là yêu thương. Có rất nhiều trường hợp, chúng ta chỉ chơi trò “tử đạo”. Điều này không bảo đảm được là chúng ta yêu thương người ta. Nó có thể chỉ là một dạng thức của sự ích kỷ. Trong một hoàn cảnh cá biệt nào đó, người ta có thể tử vì đạo để được chú ý, tán thưởng hay ghi công về điều mình làm. Họ cần được mọi người lưu ý.
Tất cả các lãnh vực trên đây (ăn, nói, kiến thức, đức tin, bố thí và tử đạo) đều quan trọng; nhưng nếu không có tình yêu thương, chúng sẽ chẳng có kết quả gì trong đời sống người khác. Tình yêu thương phong phú hoá những điều đó đến độ xây dựng được cho người khác. Các động cơ thúc đẩy ích kỷ, được chuyển hướng để trở thành mối quan tâm đến tha nhân, khi tình yêu thương cầm quyền kiểm soát các lãnh vực ấy. Khi tình yêu của Thượng Đế tác động, thì các thảm hoạ của công tác lãnh đạo có thể được chuyển thành chiến thắng khải hoàn.
Quan Tâm Đến Người Khác Có Nghĩa Gì?
Các cấp lãnh đạo phải tỏ ra quan tâm đến người khác. Bạn không thể ép buộc người ta làm việc ấy; nó phải xuất phát tự đáy lòng. Nhưng làm thế nào để bạn chứng tỏ được một mối quan tâm như thế? 13:4 nêu rõ hai đức tính của tình yêu thương của Thượng Đế phản ảnh mối quan tâm đến người khác chứ không phải đến chính bạn.
Quan tâm hàm ý kiên nhẫn.
“Tình yêu hay nhẫn nại” quả là một câu phát biểu hết sức đơn giản! Khi các cấp lãnh đạo tỏ ra kiên nhẫn với người khác, người ta sẽ biết các vị ấy thật có quan tâm đến họ. Từ ngữ Hi-văn chỉ “nhẫn nại” ám chỉ việc phải dành nhiều thì giờ để nấu cho sôi. Nó luôn luôn được dùng để chỉ người, chứ không phải chỉ các đồ vật. Thượng Đế chẳng bao giờ dạy chúng ta phải nhẫn nại đối với các đồ vật. Ngài không cần loại nhẫn nại ấy. Ngài đang cai trị kiểm soát mọi sự! Tuy nhiên, Ngài đã tỏ ra nhẫn nại đối với con người.
Ê-phê-sô 4:2; nhắc nhở chúng ta rằng nhẫn nại đối với người ta bao gồm việc tỏ ra nhường nhịn (nghĩa đen, chịu đựng) lẫn nhau vì tình yêu thương. Có một số người rất khó cộng tác (trong trường hợp bạn thiếu chú ý) và khó nhất trí, thông cảm. Nhiều khi chúng ta phải lấy tình yêu thương mà “chịu đựng” họ. Dù sao thì Thượng Đế đã “chịu đựng” chúng ta - thật đáng ca tụng Ngài!
Tôi rất khó kiên nhẫn được với một nhân viên làm việc trong văn phòng ban giám đốc của chúng tôi. Tốc độ của anh ta với tốc độ của tôi là hai tốc độ khác hẳn nhau! Tôi muốn anh ta phải hoàn tất một công tác theo lịch trình của tôi. Tôi có quyền trông mong điều đó nơi anh ta - vì tôi là chủ của anh ta kia mà! Nhưng anh ta đã không hoàn thành đúng giờ. Anh ta xin triển hạn thêm. Tôi mất kiên nhẫn đến độ phát bệnh. Tình yêu thương của Thượng Đế ở đâu? Không có! Thay vì giúp đỡ anh ta, tôi lại chê trách và thiếu kiên nhẫn. Lạy Chúa, xin tha tội cho con!
Tình hình đó chứng tỏ tôi thiếu tình yêu thương. Tôi cầu xin Chúa tha tội cho mình, và thử một phương cách khác. Cách đó chứng tỏ lòng nhẫn nại. Nhân viên làm việc trong văn phòng ban giám đốc đó cám ơn tôi vì đã yêu thương anh ta. Tôi có học tập được bài học này không?
Tài thúc giục và thách thức người ta của các cấp lãnh đạo sẽ suy giảm rất nhiều nếu một người lãnh đạo tỏ ra thiếu kiên nhẫn. Tình yêu thương của Thượng Đế là nhẫn nại “chịu đựng” người khác.
Quan tâm là nhân từ.
Tôi thích âm thanh của tiếng “nhân từ” này. Từ ngữ Hi-văn trong 13:4 vốn được dùng chỉ rượu được giữ lâu năm cho dịu đi. Chúa Cứu Thế đã dùng từ ngữ này khi Ngài phán: “Ách ta êm dịu” (Mat Mt 11:30). Thuận phục Ngài không phải là một gánh nặng. Con bò nhiều kinh nghiệm kéo chiếc cày. Con bò chưa kinh nghiệm (người tín hữu) được dạy kéo cày bằng cách buộc lỏng vào chiếc ách, và chỉ học tập kinh nghiệm của con bò đã từng trải (Chúa Cứu Thế) bên cạnh nó mà thôi.
Tình yêu thương cũng giống như thế. Đó là tỏ ra dễ dãi, chứ không phải là khó khăn, thô bạo, với người khác. Đó là đi bên cạnh người khác để giúp đỡ người ấy học tập và tăng trưởng. GaGl 5:22 liệt nó vào số “trái của Thánh Linh”. Eph Ep 4:32 khi dùng nó với ý niệm là tha thứ lẫn cho nhau.
Nghĩa gốc trong từ ngữ Hi-văn là tính cách hữu dụng, hữu ích. Nó phản nghĩa với thô bạo, cay đắng. Các cấp lãnh đạo thấu triệt lòng nhân từ chẳng bao giờ chất trên người khác một gánh nặng đến mức khiến người ấy phải ngã quỵ. Họ rất dễ cho người ta đi cùng, và thái độ của họ là yêu thương. Họ tìm cách giúp đỡ, chứ không phải là gây tổn thương.
Các Thái Độ Không Thuộc Về Đời Sống Người Lãnh Đạo
Nếu tình yêu thương của Thượng Đế đang vận hành trong đời sống người lãnh đạo, người ấy sẽ không biểu hiện một số thái độ. Đó là luận điểm của ICo1Cr 13:4-6, tám điểm tích cực đã được liệt kê. Sau đây là tám điều mà tình yêu thương sẽ không làm.
Tình yêu chẳng ghen tị.
Từ ngữ thường được dùng theo nghĩa tốt và được dịch ra là nhiệt thành. Nhiệt thành trong các lãnh vực tốt là đều quan trọng và sinh lợi. Nhưng nhiệt thành có thể dẫn đến ghen tị. Ước ao cũng có được một điều gì đó mà người khác có, là ghen tị.
Nhiều khi các cấp lãnh đạo phạm vào tội tự so sánh mình với các cấp lãnh đạo khác. Họ bắt đầu muốn điều mà một người khác có. Khi nó đã trở thành một thói quen thường xuyên và bắt đầu cai trị kiểm soát bạn, thì bạn càng trở thành kẻ ghen tị cuồng nhiệt hơn. Tình yêu thương của Thượng Đế không còn vận hành trong lòng bạn nữa.
Bạn đối xử thế nào với các thành công của người khác khi chúng được trình bày với bạn? Hãy học tập vui mừng! Thượng Đế đỏi hỏi bạn phải chịu trách nhiệm về điều bạn làm và những gì bạn có thể làm, chứ không phải về những gì một người khác đã làm. Hãy tạ ơn Chúa về các phước hạnh Ngài ban cho người khác và về công việc của họ. Đừng bắt đầu tham muốn nó. Dù sao thì kinh nghiệm cho chúng ta thấy rằng chúng có thể tạo ra nhiều vấn đề mà bạn không cần, cũng chẳng muốn có.
Tình yêu chẳng khoe mình.
Thánh Clement người Alexandria, một lãnh tụ xưa kia của Hội thánh, bảo rằng khoe mình là tự tô điểm mình bằng việc nhấn mạnh trên những điều phụ thuộc và vô ích! Tình yêu thương của Thượng Đế vẫn có điều để khoe, nhưng không phải là phô trương vô ích hoặc chỉ chú trọng vào “cái ta”.
Tình yêu của Thượng Đế không khoe khoang về các thành tích mà ân phúc Thượng Đế giúp ta làm được, trừ phi việc khoe khoang đó quy vinh và làm rạng danh chính Thượng Đế. Thật dễ khoe khoang về những điều không thật sự đáng kể liên quan đến các mối liên hệ nhân sinh hay các giá trị vĩnh cửu. Tình yêu của Thượng Đế thì khác hẳn, và con người lưu ý!
Vị mục sư tiền nhiệm trong lãnh vực phục vụ trước đây của tôi (cũng là người cha thuộc linh của tôi) chỉ cho tôi các ngôi nhà mới mà Hội thánh chúng tôi đang xây cất. Lúc ấy tôi đang suy nghĩ đến việc sẽ trở thành mục sư của Hội thánh, nhưng cũng cảm thấy hơi phân vân về những trách nhiệm đáng sợ và số nợ mà Hội thánh đang gánh chịu. Tôi chẳng biết nói gì nên bảo ông: “Đây là một công trình phi thường. Chắc ông phải tự hào lắm khi nghĩ rằng Hội thánh này lại có thể xây cất một công trình lớn như thế”.
Ông trả lời tôi như thế này: “David ơi, phải nhớ Hội thánh không phải là các công trình xây cất kia đâu. Nếu Chúa đến đêm nay, Antichrist sẽ phải gánh lấy món nợ lớn đấy!”
Tôi không nhớ là chẳng hay lúc ấy nó có khích lệ được tôi không, nhưng chắc chắn là nó đã đặt mọi sự việc vào đúng với viễn cảnh! Tôi đã tạo cơ hội cho ông khoe mình một ít, nhưng ông đã né tránh nó. Thay vào đó, tôi nhận được một bài học quan trọng.
Các công trình xây cất thì chẳng có gì quan trọng. Người của Chúa mới là quan trọng! Khoe mình về những điều phụ thuộc hay vô ích, là xúc phạm đến tình yêu của Thượng Đế. Nó chứng minh rằng tiêu điểm mà chúng ta chú trọng vào là sai lầm - chúng ta đang nhìn chăm vào các đồ vật, thay vì phải chú trọng vào con người, vào các tín đồ.
Tình yêu chẳng kiêu căng.
Từ ngữ Hi-văn chữ kiêu căng có nghĩa là “thổi”. Nó được dùng theo thể “middle voice” trong văn phạm Hy-lạp có nghĩa là “tự thổi mình lên”. Tình yêu của Thượng Đế không tự phô trương trước mặt người khác, luôn luôn “phóng đại” tầm quan trọng, các khả năng hay thành tích của mình. ChCn 27:2 chép “Đừng tự khen mình, để việc ấy cho người khác làm”.
Dấu hiệu rõ ràng của sự thiếu tình thương là kiêu căng. Người hiểu biết mà không có tình thương thì “tự thổi phồng mình” (ICo1Cr 8:1). Các cấp lãnh đạo rất dễ sa vào chiếc bẫy này vì họ thường có sự hiểu biết mà nhiều người khác chung quanh họ không có.
Tình yêu thương không hành động cách khiếm nhã.
Nói cách khác, tình yêu thương của Thượng Đế không phải là không có hình thức. Chữ thích hợp ở đây có lẽ là “lịch thiệp”, “khéo cư xử”. Nó hàm ý “phép xã giao”. Tình yêu của Thượng Đế không tỏ ra khiếm nhã, cộc cằn. Nó nói những điều thích hợp vào thời gian thích hợp trong tình yêu thương.
Nhiều người chúng ta vốn có ý tốt, nhưng lại chẳng quan tâm đến đều chúng ta nói có ảnh hưởng thế nào đến người khác. Chúng ta cho thấy rằng tình yêu của Thượng Đế không kiểm soát cách mình nói với tha nhân. Điều bạn nói có thể là tốt và đúng, nhưng cách nói của bạn có thể ảnh hưởng lớn lao đến cách người khác sẽ đáp ứng lại với bạn. Tình yêu phải lịch thiệp.
Tình yêu không vị kỷ.
Chỉ tìm cầu điều tốt có lợi cho chính mình mà thôi thì không phải là tình yêu của Thượng Đế. Muốn mọi sự phải theo ý ta, thì không phải là yêu thương. Tình yêu của Thượng Đế vốn đầy đức khiêm hạ. Nó xem người khác quan trọng hơn chính bạn (xem Phi Pl 2:3, 4). Những gì liên quan đến người khác phải là quan trọng đối với người lãnh đạo thuộc linh.
Ngày nọ, buổi họp ban giám đốc của chúng tôi trao đổi ý kiến về một công tác phục vụ cá biệt. Mọi người đều đưa ra những gì mà mình cho là ý hay nhất. Chúng đều tốt đến một chừng mực nào đó. Bỗng mọi người chúng tôi đều cảm thấy mình có một chút vị kỷ nào đó. Chúng tôi nhận thức được rằng mình đã chẳng quan tâm gì đến vấn đề các ý kiến của mình ảnh hưởng đến người khác như thế nào.
Thật đáng ngạc nhiên khi một cơ hội như thế đã nhanh chóng thay đổi như thế nào, khi quan điểm của một người khác được chú ý để đưa ra xem xét. Mọi ý kiến đều được đánh giá và kiểm điểm. Công việc đã trở thành một công việc của tình thương chứ không phải là của lòng vị kỷ nữa. Muốn mọi việc phải theo ý mình là điều tự nhiên. Nhưng thật ra, chúng ta không nhất thiết phải như thế!
Tình yêu không “nhạy giận”.
Từ ngữ “nhạy giận” căn cứ vào tự ngữ Hi-văn có nghĩa là “mài cho bén”. Tình yêu thương không bị người khác “mài bén”. Nó không khiến ta trở thành cay đắng khi bị tha nhân phản ứng và phê bình chỉ trích.
Đã có lần Phao-lô bị chọc tức. Ông đã phản đối việc thờ thần tượng của người A-then (xem Cong Cv 17:16). Nhưng ông đã phản đối việc thờ thần tượng, chứ không phản đối người ta vì chọc giận ông. Đây là cả một thế giới của sự khác biệt! Nhiều khi chúng ta có thể bất mãn, tức tối vì một số vụ việc hay hoàn cảnh sai trái và rõ ràng là vi phạm Lời Chúa. Nhưng tình yêu của Thượng Đế không nổi giận với người ta. Các cấp lãnh đạo thuộc linh phải học biết chỗ khác nhau này!
Tình yêu không chấp trách.
Lúc Phao-lô viết “tình yêu thương không lưu tâm đến điều sai trái mình phải chịu” (bản Anh văn) là ông sử dụng ngôn ngữ của người làm kế toán. Ý niệm ở đây là tính toán. Tình yêu của Thượng Đế là tha thứ, chứ không phải là giữ lòng thù oán đối với người đã xúc phạm bạn. Khi chúng ta cứ để tâm trí mình suy nghĩ về đều người khác đã làm cho mình, là chúng ta đang tính toán. Đó là một hình thức của tính tự kỷ trung tâm. Điều cần thiết là phải chôn vùi mọi việc người khác đã làm cho ta và thôi nghĩ đến chúng.
Có lần một người bạn của tôi kể lại lý do của điều anh ta làm cho một người là để trả thù người ấy về một việc người ấy đã làm cho anh nhiều năm trước. Thật là tai hại! Anh ta đã mang lấy nỗi cay đắng ấy quá nhiều năm như thế! Anh ta đã phải bận tâm tính toán điều sai trái mà người kia đã làm cho mình. Anh ta đã không thể tha thứ, chứ chưa nói là đã có thể quên đi!
Tình yêu không vui mừng về việc bất công, nhưng hân hoan trong sự thật.
Bạn phản ứng thế nào khi thấy hoặc nghe người khác làm sai làm ác? Tình yêu thương của Thượng Đế không thể vui mừng mà trái lại còn buồn rầu nữa. Câu này chống lại tinh thần chê bai chỉ trích, lên án người khác về các tội lỗi trong đời sống họ.
Thật dễ vui mừng khi một người khác gặp bất hạnh, nhất là khi điều đó có thể có lợi cho bạn, hay khiến bạn được ưu thế trước mặt nhiều người khác. Nhưng đó không phải là cách làm của tình yêu của Thượng
Người lãnh đạo thuộc linh bảo vệ
và che chắn cho người cộng tác với mình .
Người ấy bênh vực cho họ , cả khi biết rằng
đời sống họ có vấn đề .
Đế. Tình yêu của Thượng Đế không cần triệt hạ kẻ khác để tự cảm thấy mình quan trọng. Nó không vui mừng khi người khác gặp thất bại.
Ngày nọ, ban giám đốc chúng tôi thảo luận về các vấn đề của một Hội thánh gần đó. Họ đang sa sút. Chúng tôi được an ủi vì Hội thánh của chúng tôi đang tăng trưởng. Dường như chúng tôi có vẻ vui mừng khi nghe các vấn đề của Hội thánh kia. Tôi cảm thấy đau lòng. Tôi biết rằng điều đó là sai lầm.
Để giúp cho chính thái độ của mình, tôi đặt công việc của Hội thánh kia vào bảng liệt kê các vấn đề cần cầu nguyện của tôi, và một ngày nọ, tôi gọi điện thoại cho vị mục sư ấy để khích lệ ông. Thái độ của tôi đã thay đổi hẳn. Tôi thật sự muốn cho ông thành công. Từng trải ấy đã có ý nghĩa lớn lao đối với tôi. Trong một hình thức nhỏ, tôi cảm thấy yêu mến ông và công tác phục vụ của ông. Tôi đã cầu xin Chúa giúp tôi có thiện cảm và lòng thương xót khi nghe về nỗi bất hạnh của người khác. Sẽ có ngày có thể tôi cũng gặp vấn đề, và mong rằng nhiều người khác sẽ quan tâm lo nghĩ đến mình!
Bạn Phản Ứng Thế Nào Để Thay Đổi Tình Hình?
Tình yêu của Thượng Đế có thể giúp ích. Mọi việc không luôn luôn xoay chuyển theo cách chúng ta nghĩ hay trù hoạch. Khi gặp biến chuyển, tình yêu thương có thể nâng đỡ và khích lệ chúng ta. ICo1Cr 13:7 đề cập bốn điều sẽ giúp định tính chất các phản ứng của chúng ta đối với “tất cả mọi sự ” trong cuộc đời khi tình yêu của Thượng Đế nắm quyền cai trị kiểm soát.
Tình yêu khoan dung tất cả.
Từ ngữ Hi-văn ở đây có nghĩa là bảo vệ hay bảo tồn bằng cách che chắn. Trong Hi-văn hiện đại, nó ám chỉ cái mái nhà. Ý muốn nói ở đây, là tình yêu của Thượng Đế phủ lên một chiếc mái che, để che chở hay phủ trùm trên người khác.
Có nhiều hoàn cảnh hoặc tình hình, trong đó loại phản ứng này rất cần thiết trong cuộc đời người lãnh đạo thuộc linh. Người ấy bảo vệ và che chở cho những người công tác với mình. Ông ta là người bênh vực họ. Ông ta bênh vực họ cả khi biết rằng đời sống họ có vấn đề. Tình yêu thương của ông ta là sẵn sàng gánh lấy những điều đó khi nhiều người khác không thể kiên nhẫn làm như thế. Ông ta chú trọng vào việc gây dựng người ta mà điều ấy thì đòi hỏi phải mất thì giờ.
Tình yêu tin tưởng tất cả.
Điều này không có nghĩa là chúng ta phải cả tin và ngây thơ. Trái lại, nó chỉ một niềm tin cậy chắc chắn vào tất cả mọi việc đang xảy ra. Thượng Đế vốn đứng phía sau tất cả. Mọi sự đều có một chủ đích. Đây là niềm tin trái ngược với kẻ luôn luôn nghi ngờ, tự hỏi tại sao chúng lại xảy ra, hay đã xảy ra như thế.
Một người lãnh đạo thuộc linh học tập nương tựa vào Thượng Đế và Lời Ngài, chứ không phải là vào các cảm nghĩ hoặc chẳng hay mọi sự việc có diễn tiến theo cách mình trù liệu hay không. Người ấy tin cậy quyền tể trị của Thượng Đế và biết rằng có những lúc sẽ phải “thất bại”. Những cơ hội đó sẽ trở thành những bậc đá trên con đường đi lên, khi bạn tin cậy nơi Chúa.
Những người làm việc cho một người lãnh đạo thuộc linh biết an nghỉ trong Chúa, cả khi gặp căng thẳng và biến chuyển lớn lao, đều sẽ tự nhận thấy mình thích nghi được với tình hình, mà nếu không phải là như thế, sẽ không tài nào đối phó nổi.
Tình yêu hy vọng tất cả.
Chúng ta phải lạc quan. Tình yêu của Thượng Đế nhìn vào tương lai. Nó đặt nền móng cho cách đáp ứng của mình trên cá tính và quyền năng của Thượng Đế. Thượng Đế có quyền làm điều mà một số người xem dường như bất năng. Tình yêu luôn luôn hy vọng điều tốt nhất. Nó nhìn thấy “tất cả mọi sự” đều là cơ hội để Thượng Đế hành động hầu chứng minh rằng Ngài thật là ai.
Loại tình yêu này không dễ chán nản. Nó luôn luôn tin vào điều có thể làm, chứ không dừng lại ở những gì thuộc quá khứ hay rắc rối trong hiện tại. Con người sẵn sàng đáp ứng với tình yêu biết hy vọng. Họ được khích lệ. Họ sẽ cứ tiếp tục công việc, cả trong những tình hình khó khăn nhất.
Tình yêu chịu đựng tất cả.
Tình yêu có thể chịu đựng áp lực. Từ ngữ Hi-văn có nghĩa là “vẫn tồn tại bên dưới”. Nó được cho các đồ vật hay hoàn cảnh, chứ không phải con người. Tình yêu chịu đựng khi gặp hoàn cảnh khó khăn. Nó biết phải cứ tiến bước như thế nào, khi nhiều người khác bỏ cuộc. Nó quan tâm đủ để cứ ở lại, khi mọi sự không diễn biến theo cách mọi người mong muốn.
Một vị mục sư báo cho tôi biết ông sắp lìa khỏi Hội thánh của mình. Ông thất vọng. Sự tăng trưởng đã không có như ông mong muốn. Ông không còn kiên nhẫn được nữa. Ông không muốn dính dáng với một Hội thánh đang sa sút. Tôi chỉ hỏi ông: “Thế ông có yêu thương những người tín đồ ấy không?” Ông ta không biết chắc rằng điều ấy là quan trọng. Nhưng nó rất quan trọng đấy. Tình yêu của Thượng Đế sẽ giữ bạn lại tại nơi mà phần đông người khác đều muốn bỏ đi. Tình yêu thương của Thượng Đế sẽ chịu đựng được trong những hoàn cảnh nhiều thử thách nhất.
Từng Trải Tình Yêu Của Thượng Đế
Tình yêu của Thượng Đế nảy sinh trong lòng chúng ta nhờ sự hiện diện và quyền năng của Đức Thánh Linh (xem RoRm 5:5; GaGl 5:22). Nhờ được Đức Thánh Linh ngự trị trong lòng, mỗi người tín hữu đều có khả năng từng trải tình yêu của Thượng Đế hằng ngày trong cuộc đời mình (xem ICo1Cr 6:19, 20). Tiềm năng chính là ở đấy. Vấn đề có thể là cách ứng dụng. Vấn đề căn bản trong công tác lãnh đạo thuộc linh, là được Đức Thánh Linh cai trị kiểm soát để yêu thương như Thượng Đế muốn bạn yêu thương và theo nhu cầu yêu thương của bạn. Nhu cầu quan trọng là cần có nhiều cấp lãnh đạo đầy dẫy Thánh Linh.
Đã có nhiều công thức từng được gợi ý về làm thế nào để có được một đời sống đầy dẫy Thánh Linh. Những điều kiện như cầu nguyện, đức tin, vâng phục, làm chứng, học hỏi nghiên cứu, v.v.. đều đã được đưa ra như “bí quyết” để có được một đời sống đầy dẫy Thánh Linh. Tất cả dường như đều thuộc vào loại mà tôi gọi là “hội chứng nhiều hơn nữa”. Tôi chỉ cần làm một điều gì đó “nhiều hơn” điều tôi hiện đang làm, là tôi sẽ đạt được kết quả mong muốn là được đầy dẫy Thánh Linh. Điều đó có thể gây nhiều thất vọng và tự gây thất bại cho mình. “Nhiều hơn” là bao nhiêu? Tôi cần cầu nguyện nhiều hơn chăng? Lẽ tất nhiên, luôn luôn là cần càng nhiều hơn! Tôi có cần vâng lời Chúa nhiều hơn chăng? Lẽ tất nhiên luôn luôn là cần càng nhiều hơn nữa!
Để đơn giản hoá vấn đề được đầy dẫy Thánh Linh này, tôi bắt đầu bằng cách thừa nhận rằng Đức Thánh Linh là Thượng Đế. Ngài có đầy đủ khả năng để khiến cho tình yêu của Ngài biểu hiện trong đời sống tôi. Thật ra theo một ý nghĩa Ngài chẳng cần chi đến sự giúp đỡ của tôi. Tôi thường cản đường Ngài trong điều Ngài muốn làm. Thật ra, tôi chẳng cần gì phải lo lắng đối với điều Ngài muốn làm.
Tiếp theo, tôi nhận biết có một điều ngăn chận giòng chảy của quyền năng Thượng Đế trong đời sống tôi - đó là tội lỗi. Nó làm buồn lòng và dập tắt Thánh Linh. Kết luận đơn giản của tôi: Dứt khoát với tội lỗi, thì tự động Thánh Linh sẽ đầy dẫy tôi! Có lẽ bạn không thích tính cách đơn giản của việc này, nhưng nó đã giúp ích cho tôi, và nó cũng có thể giúp ích cho bạn nữa. Nếu tội lỗi chận đứng công tác của Đức Thánh Linh, thì đó chính là vấn đề mà tôi cần phải giải quyết. Xin thử một thí dụ để dễ hiểu hơn.
Tôi có vấn đề trong việc bày tỏ tình yêu thương với một người cá biệt nào đó. Tất cả những gì tôi đã thử làm, đều thất bại. Mọi sự đều diễn biến ngày càng tồi tệ hơn. Một ngày nọ tôi nhận ra vấn đề: tôi đã có tinh thần không chịu tha thứ đối với một việc gì đó mà người ấy đã làm. Một khi tội lỗi này được cất đi thì tình yêu thương của tôi đối với người ấy được phục hồi. Rất đơn giản.
Một thí dụ khác: Tôi đã xúc phạm nặng nề một nhân viên khác trong ban giám đốc bằng một hành động tôi đã thực hiện với tư cách một người lãnh đạo. Lúc đó tôi cảm thấy mình phải nói lên lời xin lỗi, nhưng tôi đã bỏ qua không làm. Rất lâu sau đó, tôi phát giác ra một vấn đề nghiêm trọng trong việc yêu thương người nhân viên trong ban giám đốc ấy. Cuối cùng sau nhiều chiến đấu nội tâm, tôi đã đến với người ấy và xin lỗi về việc tôi đã làm nhiều tháng trước. Mối liên hệ được vãn hồi và giờ đây, tình yêu thương được tự do bộc lộ giữa tôi và người ấy.
Thí dụ thì có rất nhiều. Tội lỗi chận nghẹt giòng chảy của tình yêu của Thượng Đế. Hãy giải quyết tội lỗi đi, bạn lại sẽ từng trải tình yêu của Thượng Đế. Trên hết mọi sự, đừng bỏ qua những gì bạn biết là mình phải làm (như tìm sự tha thứ). Hãy giải quyết ngay tức khắc mọi việc đi. Mẫu mực tình yêu sẽ ngày càng kiên định hơn.
BẢNG KIỂM ĐIỂM CỦA NGƯỜI LÃNH ĐẠO
1. Bạn có những thái độ nào mà đời sống người lãnh đạo không nên có?
2. Bạn yếu ở điểm nào trong năm lãnh vực trong đó tình yêu thương của Thượng Đế là thiết yếu không? Lãnh vực nào? Bạn có thể làm gì để củng cố nó (chúng)?
3. Có điều nào trong tám điểm tiêu cực mà bạn cần tránh trong chính đời mình?
5. Tình yêu thương của bạn có lạc quan nhiều về tương lai không?
6. Muốn thay đổi hoàn cảnh, bạn phản ứng như thế nào?
7. Bạn có thể làm gì để từng trải tình yêu thương của Thượng Đế trong đời mình?
CÁC DẤU HIỆU CỦA NGƯỜI LÃNH ĐẠO CÓ TÌNH YÊU THƯƠNG
Trong chương trước, chúng ta đã khảo sát tình yêu thương của Thượng Đế như đã được mô tả trong ICo1Cr 13:1-13 và ứng dụng vào công tác lãnh đạo. Trong chương này chúng ta sẽ đề cập các phương diện thực tiễn khác nữa của “tình yêu thương trong công tác lãnh đạo”.
Có một trong những nhu cầu quan trọng nhất của đời sống một người lãnh đạo thuộc linh là từng trải và biểu lộ tình yêu của Thượng Đế. Trong Tân ước, chúng ta được dạy mười sáu lần là “phải yêu thương lẫn nhau”. Trong khúc sách quan trọng IGi1Ga 4:7-19 luận về tình yêu của Thượng Đế, chúng ta được dạy những điều sau đây:
1. Thượng Đế là Tình yêu.
2. Tình yêu đến từ Thượng Đế.
3. Phải nhận biết Thượng Đế mới có tình yêu của Ngài.
4. Tình yêu của Thượng Đế được bày tỏ khi Chúa Giê-xu chịu chết trên thập tự giá vì tội lỗi chúng ta.
5. Thánh Linh của Thượng Đế làm nảy sinh tình yêu thương trong lòng chúng ta.
6. Tình yêu không sợ hãi.
7. Chúng ta được lệnh phải yêu thương nhau.
8. Khả năng yêu thương của chúng ta có cơ sở là sự kiện Thượng Đế đã yêu chúng ta trước.
Tình yêu của Thượng Đế là vĩnh hằng và tồn tại mãi - nó vẫn tồn tại sau khi mọi việc khác đều không còn nữa (Gie Gr 31:3; ICo1Cr 13:8). Nó hành động mà không đòi hỏi phải được đáp lại (RoRm 5:8; IGi1Ga 4:10) và chẳng bao giờ là vị kỷ hoặc thiên về vật chất (2:15-16). Tình yêu của Thượng Đế là lòng nhân từ thương xót đối với các nhu cầu của tha nhân (3:17-18) và quan tâm đến các quyền lợi của tha nhân (RoRm 13:8-10). Phẩm chất căn bản của nó là hi sinh (Eph Ep 5:2, 25; IGi1Ga 3:16; 4:9-10).
Một trong những đặc tính kỳ diệu nhất của tình yêu của Thượng Đế là nó vốn vô điều kiện. Nó được đặt trên cơ sở là sự thành tín của Thượng Đế, chứ không phải trên tài năng hay đức độ của chúng ta (PhuDnl 6:7-9; RoRm 3:22-24). Nó cũng vô điều kiện vì Thượng Đế vốn giàu lòng nhân từ thương xót đối với chúng ta (Thi Tv 103:8-11; Eph Ep 2:4) và sẵn sàng tha tội cho chúng ta (ChCn 10:12; 17:9; IPhi 1Pr 4:8). Chỉ đơn giản là vì Ngài yêu thương và yêu thương chúng ta rất nhiều, thế thôi! Chúng ta không tài nào chiếm đoạt hay làm gì để xứng đáng nhận được một tình yêu như thế... chúng ta chỉ có việc tiếp nhận và đáp ứng lại với nó mà thôi.
Thật là điều kỳ diệu khi đề cập tình yêu của Thượng Đế, và khảo sát các nét đặc trưng và những cách đáp ứng kỳ diệu của nó. Các cấp lãnh đạo thuộc linh cần có tình yêu của Thượng Đế trong đời sống và công tác lãnh đạo của mình. Nhưng quán triệt các dấu hiệu của tình yêu thương trong công tác lãnh đạo để tuân thủ điều mà các cấp lãnh đạo Hội thánh có trách nhiệm phải làm trong công tác phục vụ Chúa là điều rất hữu ích. Xin khảo xét các trách nhiệm cơ bản sau đây.
Chăn Bầy Của Chúa
Có lẽ không còn câu nào khác nêu rõ vai trò và trách nhiệm của một người lãnh đạo Hội thánh hơn là nhiệm vụ quan trọng này. Người ấy phải chăn dắt, yêu thương chăm sóc bầy chiên đã được Chúa giao cho mình.
Trong Cong Cv 20:17-36 có một khúc sách thật cảm động về trách nhiệm của những người lãnh đạo Hội thánh Ê-phê-sô, và trách nhiệm của họ đối với sứ đồ Phao-lô. Phao-lô đã dạy các lãnh tụ này (các “trưởng lão” của Hội thánh) phải làm việc sau đây: “Anh em hãy giữ lấy mình và luôn cả bầy mà Đức Thánh Linh đã lập anh em làm kẻ coi sóc để chăn Hội Thánh của Đức Chúa Trời, mà Ngài đã mua bằng chính huyết mình” (câu 28).
Hướng dẫn và nuôi nấng.
“Chăn giữ... Hội thánh mà Thượng Đế đã mua” là trách nhiệm của người lãnh đạo Hội thánh. Một bầy chiên vốn có xu hướng tự nhiên là đi lang thang (EsIs 53:6), gặp nhiều rắc rối và nguy hiểm. Người chăn phải yêu thương theo dõi chăm sóc chúng (như “những người quản lý”) và làm tất cả những gì có thể làm đựơc để bảo vệ và bênh vực chúng (Cong Cv 20:28-30).
Phi-e-rơ người tự mô tả mình là một trưởng lão, viết cho các bạn trưởng lão của ông như sau:
Bây giờ, tôi có đôi lời nhắn nhủ các người lãnh đạo Hội thánh. Tôi cũng là người lãnh đạo như anh em; chính mắt tôi đã trông thấy Chúa Cứu Thế chết trên cây thập tự. Khi nào Ngài trở lại, tôi cũng sẽ hưởng vinh quang với Ngài. Tôi nài khuyên anh em. Hãy chăn bầy chiên Thượng Đế giao cho anh em, chăm sóc họ cách vui vẻ, đừng phàn nàn miễn cưỡng, không phải vì được lợi lộc gì nơi họ mà chỉ vì muốn tích cực phục vụ Chúa. Đừng áp chế ai, nhưng hãy làm gương tốt cho họ noi theo. Rồi khi Thủ lãnh Chăn Chiên đến, anh em sẽ được chung hưởng vinh quang bất diệt với Ngài (IPhi 1Pr 5:1-4).
Công tác lãnh đạo bằng tình yêu của Thượng Đế quan tâm chăn giữ bầy chiên của Chúa. Việc “chăm sóc” này không phải vì bị ép buộc nhưng là tự nguyện do nhiệt tình. Động cơ thúc đẩy không phải là lợi riêng hay cơ hội để cầm quyền trên người khác. Các cấp lãnh đạo Hội thánh là những người chăn dưới quyền Chúa Cứu Thế Giê-xu, là “thủ lãnh của những người chăn chiên” (5:4, cũng xem Thi Tv 23:1). Điều mong ước của chúng ta phải là câu “Tốt lắm” và phần thưởng của Ngài.
Đừng “áp chế” bầy chiên
Những điểm tiêu cực trong khúc sách này cho thấy loại lãnh đạo không có tình thương trong những gì họ nói mà làm. Người lãnh đạo này “áp chế” (làm chủ, làm chúa) bầy chiên. Ông ta muốn chứng tỏ cho họ biết ai là người được giao quyền và đòi hỏi họ phải thuận phục. Thật khó xem đó là gương tốt của một người lãnh đạo có tình yêu thương.
Nhiều năm trước đây, có một người lãnh đạo trong Hội thánh nơi tôi làm mục sư đã thực thi quyền lãnh đạo của mình khá mạnh tay. Ông thường nói về việc thế nào các tín đồ phải thuận phục quyền lãnh đạo, và cảm thấy với tư cách mục sư, tôi phải giảng về sự thuận phục chức vụ lãnh đạo thường xuyên hơn trong các bài giảng. Ông ta đề cập đến việc con người phản loạn như thế nào. Qua nhiều buổi họp, tôi chú ý thấy ông ta áp đảo nhiều người khác và buộc mọi người phải nhất trí với ông.
Rõ ràng là ai nấy đều oán ghét con người ấy và cách hành quyền lãnh đạo của ông ta. Một lần nọ, trong một buổi họp, một người anh em bị ông dọa nạt đã mạnh mẽ đối đầu với ông và nói: “ông đã chẳng quan tâm đến ai cả ngoại trừ bản thân ông ! Nếu thỉnh thoảng ông chịu khó tỏ ra chút ít tình yêu thương, có lẽ phần đông chúng tôi sẽ chịu nghe những gì ông nói”. Mọi người hiện diện trong phòng hôm ấy đều cảm thấy buổi họp thật căng thẳng. Chẳng ai biết phải nói gì. Chủ toạ buổi họp cho chúng tôi giải tán sau khi cầu nguyện và khuyên mọi người hãy cầu nguyện cho vấn đề này và hỏi ý Chúa xem Ngài muốn chúng ta phải làm gì.
Đến buổi họp tháng sau đó, người lãnh đạo áp chế kia đã là một con người tan vỡ. Điều đã nói với ông ta trong buổi họp trước đã khiến ông ta rất đau lòng vì đó là lần đầu tiên trong đời mình, ông ta được nhìn thấy chính mình như cách nhiều người khác đã thấy. Ông nhận ra vấn đề của mình là thiếu tình thương người. Ông đã quan tâm tới các vấn đề và những việc cần phải làm cho xong, hơn là quan tâm đến người khác. Lời xưng tội và xin tha thứ công khai của ông đã được mọi người trong buổi họp tiếp nhận nồng hậu, và tiếp sau đó là một thì giờ cầu nguyện và khích lệ lạ lùng. Từ đó trở đi, công tác lãnh đạo của ông ta đã đổi khác.
Phục Vụ Người Nghèo Thiếu
Trợ cấp vật chất.
Lần đầu tiên các cấp lãnh đạo hội thánh được tuyển chọn trong Hội thánh tại Giê-ru-sa-lem. Vấn đề gợi ý sự cần thiết phải có công tác lãnh đạo là sự chăm sóc cho các quả phụ. Chúng ta đọc thấy trong Cong Cv 6:1-3.
Lúc ấy, số tín hữu càng gia tăng nhanh chóng. Người Do-thái theo văn hoá Hy-lạp than phiền người Hy-bá vì các quả phụ trong nhóm họ không được cấp phát thực phẩm đầy đủ. Mười hai sứ đồ triệu tập toàn thể tín hữu và tuyên bố: Chúng tôi không thể bỏ việc giảng dạy lời Chúa để lo phân phối lương thực. Vậy xin anh em cử bảy người được tiếng khen, đầy dẫy Thánh Linh và khôn ngoan để chúng tôi uỷ thác việc này.
Nhiều hệ phái đã kết luận rằng các cấp lãnh đạo này là “chấp sự” chứ không phải “trưởng lão” vì câu “phân phối lương thực”. Tuy nhiên, tại thời điểm này cũng như trong sử ký nguyên thuỷ của Hội thánh tại Giê-ru-sa-lem, người ta không hề thấy việc đề cập các chấp sự.
Trong 11:27-30, các Cơ-đốc nhân tại An-ti-ốt đã mở một cuộc lạc quyên để cứu giúp những người trong xứ Giu-đê đang gặp nạn đói. Họ nhờ Ba-na-ba và Phao-lô chuyển số tiền ấy cho “các trưởng lão” chứ không phải là cho các chấp sự. Rõ ràng là các trưởng lão đã phụ trách việc chăm sóc cho những người nghèo thiếu.
Trong ITi1Tm 5:1-6 có một phần thảo luận khá dài về vấn đề chăm sóc cho các quả phụ và về những ai trong đám họ phải được Hội thánh
Các cấp lãnh đạo chỉ hoàn tất công tác
trong việc họp han trị sự , tường trình và
khảo cứu mà thôi vẫn chưa thấu triệt
các đòi hỏi của Thượng Đế và các nhu cầu
của những người thuộc về Ngài .
trợ cấp những người không được gia đình trợ cấp, và những người hội đủ một vài phẩm cách là trung tín với Chúa và Hội thánh Ngài, phải được Hội thánh trợ cấp. Câu 16 đề cập việc trợ giúp các quả phụ thật sự là quả phụ. Mấy câu tiếp sau đó (5:17 và tt) đề cập trách nhiệm của các trưởng lão.
IGi1Ga 3:17, 18 nói mạnh về vấn đề chăm sóc những người thiếu thốn:
Nếu một tín hữu có của cải sung túc, thấy anh em mình thiếu thốn mà không chịu giúp đỡ, làm sao có thể gọi là người có tình thương của Thượng Đế? Các con ơi, đừng yêu thương đầu môi chót lưỡi, nhưng phải thật lòng yêu thương người khác và chứng tỏ tình yêu đó bằng hành động.
Người lãnh đạo giàu tình thương sẽ đáp ứng nhu cầu của người ta. Gia Gc 2:14-17 cũng lý luận tương tự và kết hợp nó với đức tin cứu rỗi:
Anh em thân yêu, nếu anh em bảo mình có đức tin mà không chứng tỏ bằng hành động thì có ích gì không? Đức tin ấy chẳng cứu được ai. Nếu anh em gặp một người bạn đói khổ rách rưới, mà chỉ nói: Chào anh, Chúa ban phúc lành cho anh! Chúc anh mạnh khoẻ, no ấm! nhưng chẳng cho họ cơm ăn, áo mặc thì lời nói ấy có ích lợi gì? Vậy đức tin phải đi đôi với hành động. Đức tin không thực hành chỉ là đức tin vô dụng.
Phục vụ người đau ốm.
Thư tín Gia-cơ cũng chỉ ra trách nhiệm của người lãnh đạo có tình yêu thương đối với những người đang gặp đau yếu:
Có ai đau yếu? Nên mời các trưởng lão trong Hội thánh đến nhân danh Chúa xức dầu cầu nguyện. Lời cầu nguyện do đức tin sẽ chữa lành người bệnh. Vì Chúa sẽ đỡ người bệnh dậy, nếu người ấy có tội, Chúa sẽ tha thứ. Hãy nhận lỗi với nhau và cầu nguyện cho nhau để anh em được lành bệnh. Lời cầu nguyện của người công chính rất mạnh mẽ và hiệu nghiệm. Ê-li cũng chỉ là người như chúng ta, nhưng khi ông cầu xin cho đừng mưa, thì trong ba năm rưỡi chẳng có mưa rơi xuống đất. Rồi ông cầu xin cho mưa trở lại, trời liền mưa và đất đai sinh hoa mầu.
Câu 14 vạch rõ người đau ốm phải mời các trưởng lão đến. Từ Hi-văn “mời” hàm ý một cuộc họp mặt riêng tư, chứ không phải một buổi họp công cộng. Người đau yếu phải “mời” các trưởng lão của Hội thánh đến với mình. Họ phải đến với người ấy, chứ không phải là ngược lại.
Các trưởng lão được chỉ dạy phải xức dầu cho người bệnh và cầu nguyện xin Chúa chữa lành người ấy. Lúc Chúa Giê-xu sai Mười Hai Sứ đồ ra đi với sứ mạng truyền giảng, chúng ta đọc thấy các vị đã “xức dầu chữa lành nhiều người bệnh” (Mac Mc 6:13). Xức dầu ở đây không liên hệ đến giá trị y học của dầu. Dầu là biểu hiệu của quyền năng và sự hiện diện của Thượng Đế.
Cần lưu ý là văn bản đòi hỏi phải có mặt nhiều hơn là một trưởng lão. Không có người duy nhất nào được đề cao hay ca ngợi trong chức vụ chữa bệnh. Chính Thượng Đế mới là Đấng chữa bệnh. Phải có nhiều hơn một vị trưởng lão bảo đảm việc Thượng Đế phải được tôn vinh, chứ không phải là các trưởng lão. Chính Chúa mới cứu hay chữa lành được cho người bệnh. Văn bản chép: “Chúa sẽ đỡ người bệnh dậy”. Phần của các trưởng lão là cầu nguyện. Không phải vì người bệnh thiếu đức tin mà hậu quả là người ấy không được chữa lành. Chính Thượng Đế mới là Đấng cầm quyền kiểm soát tối cao.
Các trưởng lão phải “cầu nguyện do đức tin”. Đây không phải là một lời cầu nguyện đòi hỏi. Đây là một lời cầu nguyện thờ phượng, một niềm tin âm thầm vào Thượng Đế hằng sống có thể làm điều Ngài muốn. Không phải đức tin lớn của chúng ta đặt vào Thượng Đế có thể chữa được bệnh, mà là đức tin đặt vào một Thượng Đế vĩ đại!
Các cấp lãnh đạo biểu hiện tình yêu của Thượng Đế sẽ trợ giúp các tín đồ có nhu cầu vật chất và thuộc thể. Đó là tình yêu thương. Điều gì kém hơn thế đều không phải là những gì Thượng Đế đòi hỏi các cấp lãnh đạo thuộc linh. Các cấp lãnh đạo chỉ hoàn tất công tác trong các buổi họp ban chấp hành, các bản tường trình và khảo cứu mà thôi vẫn chưa thấu triệt các đòi hỏi của Thượng Đế và các nhu cầu của những người thuộc về Ngài. Điều đó vượt xa những buổi họp, các phương pháp và phần tài liệu; nó là việc lo lắng chăm sóc cho tín đồ và làm những gì chúng ta có thể làm được để đáp ứng các nhu cầu của họ.
Răn Bảo Và Trực Diện
Có lẽ trách nhiệm này là khó khăn nhất. Chúng ta không thường kết hợp việc cảnh cáo và đối đầu bằng tình yêu thương. Nhưng đó là cách duy nhất có thể làm với tình yêu thương.
Bảo vệ bầy.
Phao-lô bảo rằng một người lãnh đạo phải có khả năng “vững tin chân lý đã học hỏi mới có thể dạy lại kẻ khác và hướng dẫn những kẻ lầm lạc” (Tít 1;9). Sau khi vạch rõ trách nhiệm của các cấp lãnh đạo hội thánh, Phao-lô đề cập bản chất chủ yếu của việc họ trực tiếp đối đầu là để “làm câm miệng” những kẻ phá đổ cả nhà người ta (câu 11).
Trong Cong Cv 20:29-30 Phao-lô khuyên các cấp lãnh đạo thuộc linh Ê-phê-sô:
Vì tôi biết sau khi tôi đi, sẽ có phần tử giả mạo trà trộn phá hoại anh em như lang sói độc ác chẳng tiếc gì bầy chiên. Trong anh em cũng sẽ có người xuyên tạc chân lý để lôi cuốn tín hữu.
Các cấp lãnh đạo Hội thánh có trách nhiệm bảo vệ bầy khỏi những cuộc tấn công từ bên ngoài chức vụ và khỏi bị chia rẽ bên trong chức vụ. Người lãnh đạo có tình yêu thương chăm sóc bầy chiên và bảo vệ nó, bất chấp bản thân có thể bị chê bai chỉ trích vì làm như thế. Chẳng ai muốn trực tiếp đối đầu với kẻ xấu cả, nhưng các cấp lãnh đạo thuộc linh phải làm việc ấy bằng tình yêu thương.
Rồi Phao-lô lại đề cập vấn đề trực diện với kẻ xấu khi ông nhấn mạnh: “Thưa anh em thân yêu, nếu có tín hữu nào bị tội lỗi quyến rủ, anh em là người có Thánh Linh hãy lấy tinh thần dịu dàng khiêm tốn dìu dắt người ấy quay lại đường chính đáng. Anh em phải cẩn thận giữ mình để khỏi bị quyến rủ”. Còn trong ICo1Cr 4:14-16, ông viết những lời đầy yêu thương này về việc trực tiếp đối đầu với kẻ xấu:
Tôi viết những điều này, không phải để anh em xấu hổ, nhưng để khuyên răn anh em như con cái thân yêu. Dù anh em có một vạn thầy giáo trong Chúa cứu Thế, nhưng chỉ có một người cha: tôi đã dùng Phúc Âm sinh anh em trong Chúa Cứu Thế. Nên tôi khuyên nài anh em bắt chước tôi.
Đây là một người cha giàu tình thương trực diện với con cái mình. Ông ta muốn cảnh cáo và răn dạy chúng, không phải vì chống lại chúng và cố hạn chế các hoạt động và niềm vui sống của chúng, nhưng làm như thế là để bảo vệ chúng khỏi huỷ hoại cuộc đời chúng.
Tiến trình sửa trị của Hội thánh.
Phần khó khăn nhất của công tác lãnh đạo thuộc linh là trực diện để cảnh cáo các tín hữu về hậu quả của các hành động của họ. Trên khắp thế giới việc sửa trị của Hội thánh đang rất thiếu sót. Đã có việc khoan dung cao độ đối với cách ăn ở tội lỗi. Tương đối chủ nghĩa và tư tưởng trần tục đã góp phần vào vấn đề khổng lồ này. Giờ đây, quyền lợi cá nhân được coi trọng hơn trách nhiệm tập thể.
Môi trường để trực diện với những kẻ làm quấy vốn rất khó. Phần đông người khác đều không muốn nghe chuyện ấy. Họ cực lực chỉ trích và khăng khăng bảo rằng đó không phải là công việc của chúng ta. Nhưng theo Lời Chúa, thì đó là công việc của chúng ta, và chúng ta phải làm cho xong.
Tiến trình trực diện và sửa trị của Hội thánh đã được Chúa chúng ta phác thảo rõ ràng:
Nếu anh em con có lỗi với con, nên đến nói riêng cho anh ấy biết. Nếu anh ấy giác ngộ, nhận lỗi, thì con được lại anh em. Nếu anh không nghe, con nên nên mời một vài nhân chứng đến xác nhận điều con nói. Nếu anh vẫn không nhận lỗi, con báo cáo cho Hội thánh. Nếu ngoan cố không nghe Hội thánh, anh sẽ bị Hội thánh tuyệt giao và khai trừ. Ta quả quyết với các con, điều gì các cấm đoán dưới đất sẽ bị cấm đoán trên trời, điều gì các con cho thực hành dưới đất sẽ được thực hành trên trời. Ta cũng quả quyết: Nếu hai người trong các con đồng tâm cầu xin bất cứ điều gì, Cha ta trên trời sẽ thực hiện điều đó. Nếu hai ba người trong các con nhân danh ta họp mặt, ta sẽ đến với họ (Mat Mt 18:15-20).
Bước 1: Trực diện cá nhân và riêng tư . Nếu chịu nghe, nhận tội và ăn năn, thì mục đích đã đạt được. Tình yêu thương của người trực diện sẽ khoả lấp các tội lỗi (IPhi 1Pr 4:8) và không nhắc lại điều đó cho bất kỳ ai khác.
Chính tại điểm này mà nhiều rắc rối đã xảy ra. Thường thường thì các cấp lãnh đạo sẽ thảo luận một tình hình trong một nhóm hay với một vài người khác trước khi chính mình gặp riêng người kia. Việc này dẫn tới nhiều tiếng đồn và lời buộc tội sai lầm. Càng có đông người chen vào tại điểm này, thì tổn hại sẽ càng lớn rộng thêm.
Nếu người kia không chịu nghe trong cuộc đối đầu riêng tư, thì.....
Bước 2: Trực diện với hai hoặc ba nhân chứng . Nhiều khi một người sẽ sửa đổi câu chuyện, hay xuyên tạc các sự kiện, hoặc bảo rằng mình không có nói điều mà người trực diện mình bảo là mình nói. Chính vì thế mà cần phải có hai hoặc ba nhân chứng tham gia khi kẻ phạm tội không chịu đáp ứng với sự trực diện cá nhân và riêng tư. Câu phát biểu của Chúa Giê-xu “Nếu hai ba người trong các con nhân danh ta họp mặt, ta sẽ đến với họ” (Mat Mt 18:20), đề cập việc sửa trị của Hội thánh chứ không phải việc hội họp căn bản của một Hội thánh!
Nếu người kia chịu nghe thì chẳng cần phải có biện pháp gì thêm nữa. Theo kinh nghiệm của tôi, thì nhiều người sẽ nhận điều họ đã làm và thật sự “chịu nghe” tại điểm này của cuộc trực diện khi có hai nhân chứng hoặc nhiều hơn. Phần lớn việc sửa trị của Hội thánh đã có thể hoàn tất ở hai bước căn bản đầu tiên này. Nếu càng có nhiều lãnh vực phục vụ chịu cẩn thận thực thi các bước này theo trình tự đã nêu, sẽ có ít rắc rối hơn trong những buổi họp công cộng, và ít có chuyện ngồi lê đôi mách và tiếng đồn lan truyền về tội lỗi của một người nào đó.
Bước 3: Kể lại sự việc ấy với Hội thánh . Thật là khó biết rõ đã có ngụ ý gì ở đây, nhất là con số các thành viên của Hội thánh Giê-ru-sa-lem lên đến nhiều ngàn người. Làm thế nào để áp dụng việc này, nếu nó có nghĩa là việc toàn thể các thành viên phải họp lại để nghe một chuyện như thế? Có lẽ đây là việc phải làm trong những giai đoạn mà sự tăng trưởng của Hội thánh hãy còn nhỏ hơn, không có quá đông người.
Điều dường như hữu lý hơn là các cấp lãnh đạo của Hội thánh mới là nhóm người quan trọng nhất để đối phó với tình hình. Sau lần trực diện cá nhân và riêng tư, và trường hợp gồm luôn hai ba người chứng, bước tiếp theo sẽ có sự tham gia của bộ phận quản trị chính thức của Hội thánh, thường do các trưởng lão đại diện. Điều này có thể giải thích lời răn bảo trong Tit Tt 1:9 dành cho các trưởng lão hoặc giám mục.
Nếu người anh em kia chịu đáp ứng với cuộc trực diện và trình bày chính thức này thì hãy tạ ơn Chúa! Sẽ chẳng còn phải làm gì nữa cả, và các cấp lãnh đạo phải bảo vệ cho người ấy khỏi bị tổn hại hay chê trách gì thêm.
Bước 4: Khai trừ người ấy . Đến đây thì các cấp lãnh đạo chẳng còn có cách chọn lựa nào khác hơn là kể người anh em kia như một người không tin Chúa - “một người ngoại quốc và là kẻ thu thuế”. Nghĩa là người ấy phải bị loại trừ, không còn được giao hảo như một thành viên của Hội thánh nữa. Chủ đích của hành động này là nhằm phục hồi địa vị cho một người anh em, chứ không phải là giải quyết cho xong vấn đề.
Trong ICo1Cr 5:1-13, chúng ta có trường hợp một thành viên của Hội thánh phạm tội loạn luân. Lời truyền dạy ở đây là loại người anh em phạm tội ra khỏi đoàn thể. Trong câu 5, vị sứ đồ đã răn bảo họ: “chúng ta giao người ấy cho Sa-tan để huỷ diệt thân xác, nhưng linh hồn được cứu khi Chúa Cứu Thế Giê-xu trở lại”.
Do không còn được chiếc dù (ô) của Hội thánh, các thành viên và các cấp lãnh đạo của nó che cho nữa, giờ đây người anh em phạm tội nọ phải nhận chịu hậu quả của các hành động của mình như chưa từng gặp trước kia. Sự kiện đáng chú ý trong câu chuyện này, là người anh em ấy đã ăn năn. Và trong IICô-rinh-tô, Phao-lô khuyên Hội thánh phục hồi địa vị cho người ấy để chứng tỏ tình yêu thương của họ đối với người ấy vì người ấy đã biết ăn năn.
Lãnh Đạo Bằng Gương Tốt
HeDt 13:7 dạy: “Anh em hãy nhớ đến những người dìu dắt và truyền dạy lời Chúa cho mình. Hãy nghĩ đến kết quả tốt đẹp của đời sống họ và học tập lòng tin Chúa của họ”. Trong IPhi 1Pr 5:3, Phi-e-rơ viết rằng các cấp lãnh đạo phải làm “gương tốt” cho bầy. Trong ITi1Tm 5:17-18 Phao-lô nói về các cấp lãnh đạo đang cai trị:
Con hãy hết lòng tôn kính các trưởng lão khéo lãnh đạo Hội thánh, đặc biệt là những người đã dày công truyền giáo và giáo huấn. Vì Thánh Kinh đã dạy: Con đừng khớp miệng con bò đang đạp lúa và người làm việc thì xứng đáng lãnh thù lao.
Trong 3:4, 5 các đòi hỏi cho khả năng lãnh đạo của một trưởng lão phát sinh từ sinh hoạt gia đình của người ấy:
Giỏi việc tề gia, dạy dỗ con cái biết vâng phục trọn vẹn. Nếu không biết tề gia, làm sao cai trị Hội thánh của Thượng Đế?
Ở đây, việc quản trị Hội thánh được mô tả bằng mấy chữ “cai trị” (bản Anh văn là “săn sóc”) - là những từ đã được dùng ở LuLc 10:1-42 trong câu chuyện về Người Sa-ma-ri nhân từ chăm sóc cho các nhu cầu thuộc thể và vật chất của người bị kẻ cướp đánh đập rồi bỏ cho chết. Người lãnh đạo giàu tình thương cai trị hay lãnh đạo bằng gương tốt và từng trải trong gia đình của họ, quản lý việc của Hội thánh bằng một tấm lòng chăm lo săn sóc các tín đồ và phục vụ các nhu cầu của họ.
Trong tất cả các vấn đề này, người ta thấy được tình yêu thương của người lãnh đạo và những hành động chứng minh xứng đáng với tước vị “lãnh đạo thuộc linh”. Chúng ta đang cần càng nhiều hơn những nhà lãnh đạo biết rõ tình yêu thương của Thượng Đế và chứng minh nó trong mọi trách nhiệm và hành động đối với các tín đồ.
BẢNG KIỂM ĐIỂM CỦA NGƯỜI LÃNH ĐẠO
1. Hãy liệt kê vài đức tính của tình yêu của Thượng Đế mà bạn muốn có trong chính đời sống mình.
2. Tại sao bạn nghĩ rằng nhiều cấp lãnh đạo vốn thiếu tình yêu thương trong các mối liên hệ giữa họ với các tín đồ?
3. Bạn có thể cho một thí dụ cụ thể về thế nào một người lãnh đạo đã chứng tỏ tình yêu thương bằng chính việc người ấy đã làm không? Việc làm ấy có được tiếp nhận như một hành động do tình yêu thương không?
4. “Chăn bầy” có nghĩa gì?
5. Các cấp lãnh đạo có thể trợ giúp các nhu cầu thuộc thể và vật chất như thế nào?
6. Hãy giải thích các bước của công tác sửa trị của Hội thánh, và cho thí dụ minh hoạ nếu bạn có thể rút ra từ kinh nghiệm bản thân.
7. Hội thánh của bạn có thể củng cố địa vị của mình và thực thi việc sửa trị của Hội thánh như thế nào?
8. Bạn có phải là một người lãnh đạo không? (Chương tiếp sau đây rất quan trọng!)
CHUNG QUY: BẠN CÓ PHẢI LÀ MỘT NGƯỜI LÃNH ĐẠO KHÔNG?
Các nhà lãnh đạo vốn nhờ học tập rèn luyện mà thành chứ không phải là bẩm sinh! Đó là luận điểm ẩn phía sau cả quyển sách này. Chúng tôi xin nêu ra đây bảy điểm thiết yếu cho thấy một người lãnh đạo thuộc linh thật ra là người như thế nào: gương tốt, biết truyền đạt, có khả năng, có động cơ thúc đẩy, có uy quyền, có chiến lược và có tình yêu thương. Nhưng làm thế nào để bạn biết chắc mình là một người lãnh đạo thuộc linh, nhất là khi bạn vẫn chưa có kinh nghiệm trong công tác lãnh đạo? Bạn phải bắt đầu từ đâu?
Công Tác Lãnh Đạo Không Dành Cho Tất Cả Mọi Người
Có người tin rằng tất cả mọi người đều có thể và đều phải trở thành người lãnh đạo. Nếu tất cả mọi người đều là lãnh đạo, thì ai sẽ làm mọi việc khác? Không, công tác lãnh đạo không dành cho tất cả mọi người. Kinh nghiệm chứng minh rõ ràng việc đó. Có một số người cố tìm cách trở thành lãnh đạo chỉ để phát hiện ra rằng chẳng có ai chịu theo họ cả. Nhiều người khác không chịu nổi áp lực và các đòi hỏi của công tác lãnh đạo. Một số người không thể đưa ra các quyết định hoặc điều khiển kẻ khác. Một số không thích sống cô đơn hay cô lập. Quả thật là công tác lãnh đạo không dành cho tất cả mọi người.
Có nhiều mức độ trong công tác lãnh đạo. Có người có thể lãnh đạo thành công 10 người, nhưng lại thất bại khi lãnh đạo 1.000 người. Có những điểm khác nhau lớn lao giữa việc lãnh đạo 10 người so với lãnh đạo 1.000 người. Các yêu cầu và trách nhiệm khác nhau rất lớn.
Có nhiều phong cách lãnh đạo khác nhau. Có người thích làm việc tại bàn giấy, có người thích thôi thúc giục giã tha nhân hành động. Có người giỏi đào tạo huấn luyện một vài người, người khác lại có tài vận động quần chúng đông đảo. Một số người thì cứng rắn bất khả chuyển lay, nhiều người khác lại dễ dãi và thay đổi luôn.
Vậy thế nào là một người lãnh đạo? Điều gì là cần thiết để chứng minh cho tài lãnh đạo của bạn nếu bạn muốn trở thành lãnh đạo nhưng vẫn chưa có kinh nghiệm trong công tác ấy?
Thẩm Định Khả Năng Lãnh đạo
Tài lãnh đạo có thể được đánh giá hay trắc nghiệm căn cứ vào một vài sự việc. Một trong số các trắc nghiệm này tự nó vốn không đủ để chứng minh bạn là một người lãnh đạo; nhưng khi phối hợp với nhau, chúng có thể giúp xác nhận bạn có phải là một nhà lãnh đạo hay không.
Trắc nghiệm 1: Tiếng gọi của Chúa
Trong công tác lãnh đạo thuộc linh, một người dứt khoát phải biết rằng Thượng Đế đã kêu gọi mình vào vai trò lãnh đạo. Nhưng Thượng Đế làm việc ấy như thế nào? Có phải bạn mở Thánh Kinh ra, và câu đầu tiên mà bạn nhìn thấy là câu mà Thượng Đế sẽ dùng để phán dạy bạn? Có phải bạn nghe tiếng nói trong đêm khuya, hay qua một giấc mơ? Hay bạn nghe những tiếng chuông reo? Hay có nhiều ánh chớp loé lên trên bầu trời? Lẽ tất nhiên là không phải. Vậy, làm thế nào để bạn biết được, nếu Thượng Đế gọi bạn vào công tác lãnh đạo thuộc linh?
Tiếng gọi của Thượng Đế là một ấn tượng liên tục đè nặng trong lòng bạn, khiến bạn mong muốn trở thành một ngươi lãnh đạo thuộc linh. Nếu bạn không thật lòng mong muốn trở thành một người lãnh đạo
Nếu Thượng Đế gọi bạn trở thành
một người lãnh đạo , thì mong ước ấy
phải rất mạnh mẽ và trước sau như một .
Nếu bạn có thể nhận lấy mà cũng
có thể từ bỏ nó , thì hãy từ bỏ nó .
thuộc linh, thì đừng lao vào đó. Bàn về các cấp lãnh đạo của chi hội địa phương, Phao-lô đã viết cho Ti-mô-thê rằng những người ấy phải mong ước chức vị lãnh đạo (xem ITi1Tm 3:1).
Nguyên bản Hi-văn nhấn mạnh bản thân người ấy phải có một ước muốn tha thiết tự đáy lòng, chứ không phải do áp lực của một ai khác tạo ra trên người ấy. Nếu Thượng Đế gọi bạn, ước muốn ấy phải mạnh mẽ và liên tục. Nếu nó đến rồi đi hoặc bạn có thể nhận lấy hay từ chối, thì hãy từ bỏ nó đi. Đừng lao vào!
Trắc nghiệm 2: Hoài bảo cá nhân
Điều này nảy sinh từ tiếng gọi của Chúa. Phải chăng bạn muốn trở thành một người lãnh đạo? Bạn thật sự mong muốn như thế? Các cấp lãnh đạo thiếu hoài bão cá nhân đối với chức vụ lãnh đạo thường là những nhà lãnh đạo không thành công và yếu kém. Bạn phải thật lòng mong muốn và vui mừng về nó. Có quá nhiều cấp lãnh đạo vẫn than phiền về các trách nhiệm của chức vụ lãnh đạo.
Một trong số nhiều người trong Hội thánh của chúng tôi vẫn than phiền luôn về các trách nhiệm của mình trong tư cách một người lãnh đạo. Tất cả những người khác đều là vấn đề, và gánh nặng công tác của ông ta là quá nặng nề để có thể gánh vác nổi. Ông ta làm khó cho những người cùng làm việc với mình. Nhiều khi thật là khó chịu đựng nổi ông ta. Ông ta có tinh thần chê bai chỉ trích. Ông ta không thích ánh hào quang thuộc linh lờ mờ mà chức vị lãnh đạo đem đến cho mình. Ông ta muốn được chú ý.
Hôm nay người ấy không còn địa vị lãnh đạo nữa. Bạn có thể nói là ông ta đã đánh mất nó. Riêng tôi thì rất nghi ngờ là có lần ông ta đã có nó. Suốt thời gian được địa vị lãnh đạo, ông ta thiếu mất ước muốn và niềm vui cá nhân của người làm lãnh đạo. Người ao ước thì cũng vui vẻ nhận trách nhiệm lãnh đạo và hân hoan đảm trách chúng.
Trắc nghiệm 3: Trưởng thành
Hãy quên đi công tác lãnh đạo thuộc linh nếu bạn vẫn còn là một em bé Cơ-đốc hay bạn vẫn chưa tăng trưởng trong sự hiểu biết về Chúa Cứu Thế. Sự tăng trưởng là thiết yếu cho công tác lãnh đạo thuộc linh. Sự tăng trưởng là cần thiết để biện biệt chẳng hay bạn có phải là một người lãnh đạo thuộc linh hay không.
Chỉ vì bạn đã làm công tác lãnh đạo ngoài đời không dẫn tới kết luận rằng công tác lãnh đạo thuộc linh sẽ dễ dàng đến tay bạn. Nếu không có sự trưởng thành trong Chúa Cứu Thế, bạn sẽ phải té sấp mặt xuống ngay! Bạn sẽ lao vào những vấn đề mà bạn chẳng bao giờ nghĩ là có thể có! Bạn sẽ bị tổn hại, còn người khác thì chán nản thất vọng, và có lẽ bạn sẽ phải bỏ cuộc vì hoàn toàn tuyệt vọng!
Trắc nghiệm 4: Từng trải
Tục ngữ xưa có câu: “Nếu chưa thử làm, bạn sẽ chẳng bao giờ biết” có thể áp dụng vào đây. Nếu bạn chưa từng lãnh đạo ai cả, thì thật là khó biết được bạn có phải là một người có thể lãnh đạo hay không! Từng trải rất quan trọng để bạn tự tin và bảo đảm cho công tác lãnh đạo của bạn. Đừng đi qua suốt cuộc sống Cơ-đốc của bạn để phân vân tự nhủ bạn vốn có thể hay đáng lẽ ra bạn đã phải là một người lãnh đạo! Xin hãy bắt đầu thử nghiệm ngay đi!
Hãy bắt đầu từ một việc nhỏ. Xin đừng đến với ông mục sư của bạn và nói: “Tôi thích làm người hướng dẫn cho lớp học 200 người này!” Nếu ông mục sư của bạn là người khôn ngoan, ông ta sẽ chẳng bao giờ giao loại trách nhiệm đó cho một người chẳng có chút từng trải làm người lãnh đạo thuộc linh nào cả. Hãy nhận một trách nhiệm dưới quyền lãnh đạo của một người lãnh đạo nào đó. Hãy trung tín trong một số ít việc, thì tài lãnh đạo của bạn sẽ tăng trưởng đến nhiều việc.
Điều quan trọng nhất cần nhớ trong việc thu thập kinh nghiệm cho công tác lãnh đạo thuộc linh, là phải trung tín và đáng tin cậy. Đây có thể là một chức vụ nhỏ và vô nghĩa đối với bạn, nhưng phải tận tâm hoàn thành nó! Những người trung tín trong những việc nhỏ rất có triển vọng để được sử dụng trong những lãnh vực lớn hơn của sự phục vụ. Những người không thể tin cậy được, cho dù có rất nhiều cơ hội cũng sẽ chẳng bao giờ trở thành những người lãnh đạo thuộc linh mạnh mẽ.
Trắc nghiệm 5: Được nhiều người khác xác nhận
Có ai khác nghĩ rằng bạn là một người lãnh đạo (ngoài cha mẹ bạn) hay không? Trước khi bạn tra xét xem mình có phải là một người lãnh đạo thuộc linh hay không, thì tốt hơn hết là bạn nên quan sát xem những người khác đang nói gì. Chính vì thế mà thời gian rất cần thiết cho việc đánh giá những người lãnh đạo thuộc linh. Phải có thì giờ để quan sát con người hành động. Phải có thì giờ để xác định sự trung thành và sự đáng tin cậy.
Mấy năm trước đây, có một thanh niên trong Hội thánh chúng tôi cảm thấy Chúa muốn anh ta trở thành một người lãnh đạo thuộc linh. Anh ta cho chúng tôi biết việc đó, như điều anh phải làm. Nhưng hãy còn thiếu một điều: việc được những người khác xác nhận. Khi hỏi về sự hữu hiệu của anh ta, thì nhiều người tỏ ra nghi ngờ và thắc mắc về anh ta. Chúng tôi còn phải chờ thêm ít lâu nữa (đây là một lời khuyên tốt!).
Các tín đồ trong lãnh vực phục vụ của anh ta không phục cách lãnh đạo của anh ta. Có lẽ họ sai lầm. Có lẽ có chút gì “cá nhân” trong đó. Hãy để cho anh ta được hưởng lợi thế của một điểm nghi ngờ. Chúng tôi rà soát lại với nhiều người khác trong một lãnh vực phục vụ khác. Bản tường trình vẫn y như thế. Trong những cuộc thảo luận ấy, nhiều người vẫn tiếp tục phản ảnh hoài nghi công tác lãnh đạo của anh ta. Chỉ có chúng tôi phải đưa ra quyết định chăng? Chúng tôi quyết định không sử dụng anh ta vào một công tác lãnh đạo đặc biệt trước khi tài lãnh đạo thuộc linh của anh ta trở thành hiển nhiên hơn đối với những người cùng làm việc với anh ta.
Lời góp ý của các thành viên khác trong Thân thể Chúa Cứu Thế rất quan trọng để xác định chức vụ lãnh đạo thuộc linh. Nếu tất cả mọi người đều thắc mắc đặt vấn đề về chức vụ lãnh đạo của một người, thì có thể nghi ngờ việc người ấy có thể thành công trong chức vụ lãnh đạo!
Trắc nghiệm 6: Các kết quả
Trong lúc bạn thực thi công tác lãnh đạo của mình, đã có kết quả gì không? Có những chỉ tiêu nào đã đạt được? Các tín đồ có được thách thức, tuân thủ kỷ luật để trở thành môn đệ, tự nguyện đăng ký tham gia công tác không? Các tín đồ có hưởng ứng tích cực không?
Các chỉ tiêu đặc thù và có thể đo lường được rất quan trọng để xác định các kết quả của công tác lãnh đạo thuộc linh. Các chỉ tiêu là một nền tảng vững chắc cho việc thẩm định.
Một mùa hè nọ, tôi thấy một người thực thi tài lãnh đao tuyệt vời khi ông ta tự mình huy động hơn 500 người để làm một công tác chỉnh trang các tiện nghi của Hội thánh chúng tôi. Có lẽ có một số người nghi ngờ tài lãnh đạo của ông ta, nhưng các kết quả đã chứng minh rằng ông ta quả là một người lãnh đạo. Ông ta đã hoàn thành các chỉ tiêu đề ra trong thời hạn quy định và với số kinh phí cho phép.
Ta có thể nhìn thấy kết quả trong đời sống những người được rèn luyện và có động cơ thúc đẩy trong công tác lãnh đạo. Họ có phải là những người sinh lợi không? Điều này làm chứng tốt cho tài lãnh đạo của một người biết dốc đổ thì giờ và năng lực của mình vào đó. Không phải lúc nào cũng được những người bên ngoài chú ý, nhưng người thật sự có tài lãnh đạo thuộc linh có thể được đánh giá căn cứ vào việc mọi người làm việc cho người ấy và dưới quyền người ấy có hiệu quả thế nào.
Các kết quả khác cần thẩm định là năng suất và hạnh phúc của những người cộng tác với người lãnh đạo. Khi mọi sự cứ thường xuyên rối tung cả lên, thì có thể thắc mắc đặt vấn đề đối với công tác lãnh đạo.
Trắc nghiệm 7: Kiến thức
Bạn biết được gì về công tác lãnh đạo? Bạn có đọc các sách viết về vấn đề ấy không? Chúng sẽ rất hữu ích. Chẳng hề có quyển nào trong các sách đó có câu trả lời cuối cùng cho việc trở thành người lãnh đạo, nhưng chúng sẽ chẳng làm gì hại bạn đâu! Bạn có tham dự những cuộc hội thảo hay hội nghị nào về vấn đề lãnh đạo và quản trị?
Riêng tôi thì tin rằng các cuộc hội thảo, các lớp tu nghiệp và các trường cao đẳng đào tạo người cho công tác lãnh đạo thuộc linh phải có các giáo trình trong chương trình học tập của họ, đề cập đến chức vụ lãnh đạo thuộc linh. Các giáo trình ấy chẳng những chỉ đòi hỏi phải đọc nhiều sách trong các lãnh vực lãnh đạo và quản trị, mà còn phải tìm cách cung cấp cho các sinh viên nhiều kinh nghiệm có giá trị trong việc rèn luyện tài lãnh đạo.
Hãy học tập tất cả những gì bạn có thể học hỏi được về công tác lãnh đạo. Hiện có rất nhiều sách trong tầm tay bạn (cả sách trong đạo lẫn ngoài đời). Cũng hãy học tập đời sống của những người đang là các cấp lãnh đạo thuộc linh. Hãy học hỏi nghiên cứu những gì họ làm và cách họ làm mọi việc. Hãy học những gương mẫu của các nhà lãnh đạo thuộc linh trong Thánh Kinh. Kiến thức về lãnh đạo sẽ giúp bạn phát triển chính tài lãnh đạo của bạn.
Kiểm Điểm Các Chứng Cứ
Hãy lấy bảy trắc nghiệm này và tự đánh giá chính bạn theo biểu đồ dưới đây. Chứng cứ cho mỗi trắc nghiệm có vững mạnh không, có nghĩa là một sự việc liên tục đối với bạn không? Hay nó rất yếu kém, ngụ ý rằng trắc nghiệm ấy chỉ có thể ứng dụng vào một số ít các trường hợp mà thôi? Loại chứng cứ “yếu kém” chỉ thị sự cần thiết phải dành nhiều thì giờ và cơ hội hơn cho việc đánh giá. Có lẽ phần chứng cứ vẫn chưa thấy có trong đời sống của bạn. Nếu là như thế, hãy đánh dấu vào loại “không”.
1. Tiếng gọi của Chúa
2. Hoài bảo cá nhân
3. Trưởng thành
4. Từng trải
5. Được người khác xác nhận
6. Kết quả
7. Kiến thức
Đừng thất vọng vì kinh nhiệm của quá khứ hay những khó khăn trong hiện tại. Chúa có quyền khiến bạn trở thành người lãnh đạo mà Ngài muốn bạn phải trở thành! Hãy tin cậy Ngài và trông cậy vào quyền năng và sức lực của Ngài! Nếu hoài bảo của bạn là chức vụ lãnh đạo, hãy cầu nguyện hằng ngày để Chúa phát triển và củng cố tài lãnh đạo của bạn. Hãy cầu xin Ngài ban cho bạn sự khôn ngoan dành cho công tác lãnh đạo đó.
Có nhiều lúc bạn sẽ cảm thấy rằng trở thành một người lãnh đạo thật chỉ bõ công. Bạn sẽ bị người ta phiền trách chê bai vì địa vị lãnh đạo của mình. Mọi sự sẽ không biến chuyển theo cách bạn mong muốn hay trù hoạch đâu. Sẽ có nhiều tranh chấp và vấn đề cá nhân. Người khác sẽ bất mãn và bị xúc phạm do cách bạn xử lý mọi việc. Nhiều người khác sẽ chống lại bạn và phản đối quyền lãnh đạo của bạn. Nhiều lúc thật dễ nói rằng “Tôi bỏ cuộc”. Hãy cất đi mấy tiếng ấy khỏi ngữ vững của bạn ngay từ bây giờ! Đừng bao giờ từ chức, bỏ cuộc! Bạn có thể đổi thay các sự việc hoặc tình hình; nhưng đừng bao giờ bỏ cuộc!
Sẽ có ngày bạn thấy mọi công sức mình đã bỏ ra thật là xứng đáng khi nghe Cứu Chúa phán rằng: “Tốt lắm, con rất ngay thật trung hành”. Điều chúng ta cần, là lời tán thưởng của Ngài. Thưa bạn là người lãnh đạo thân mến của tôi, nó rất đáng bõ công, không những chỉ vì phần thưởng tương lai, mà cả vì phước hạnh hiện tại nữa.
Công tác lãnh đạo không phải dễ dàng, nhưng nó xứng đáng với công sức của chúng ta. Tôi yêu thích nó. Còn bạn thì thế nào? Trong vấn đề lãnh đạo, tôi không muốn mọi việc trong cuộc đời mình phải đổi khác đi, Tôi không xứng đáng làm người lãnh đạo, nhưng tôi ao ước nó. Tôi muốn làm điều tốt nhất mình có thể làm được vì vinh quang của Chúa Cứu Thế Giê-xu tôi! Tôi cần được Ngài trợ giúp hằng ngày, và điều đó được mọi người cùng cộng tác với tôi nhìn thấy rõ ràng! Tôi không phải là một người hoàn toàn, cũng không biết tất cả những gì cần phải biết về công tác lãnh đạo. Nhưng tôi đang thử, đang cố gắng. Tôi đang tiến đến, và bạn cũng phải làm như thế! Mọi người chúng ta đều có thể học tập. Mọi người và mọi hoàn cảnh tình hình đều là giáo sư của chúng ta!
Các nhà lãnh đạo vốn nhờ học tập rèn luyện mà thành, chứ không phải là bẩm sinh! Do đó, mọi người chúng ta đều có hy vọng! Chúa có thể khiến chúng ta trở thành các nhà lãnh đạo mà Ngài muốn chúng ta phải trở thành! Nguyện danh kỳ diệu của Ngài được ca ngợi tán tụng!