Định Luật 2
ĐỊNH LUẬT1 ĐỊNH LUẬT2 ĐỊNH LUẬT3 ĐỊNH LUẬT4 ĐỊNH LUẬT5 ĐỊNH LUẬT6 ĐỊNH LUẬT7
BẠN PHẢI GIAO THIỆP VỚI TẤT CẢ MỌI NGƯỜI !
Có một “thông báo nội bộ” mà tôi đã gởi đi. Nó rất đơn sơ - chỉ toàn là các sự kiện. Chúng tôi định tổ chức vài ngày nghỉ cho tất cả mọi người ở Palm Springs. Tôi đã cố gắng vạch rõ thật chi tiết về địa điểm, chi phí, thì giờ, v.v.. và Hội thánh sẽ đài thọ một phần chi phí cho tất cả mọi người. Nhưng một lần nữa, tôi học hỏi được rằng những thông báo nội bộ như thế có thể gây bối rối và thậm chí chọc tức thiên hạ nữa. Việc một thông báo nội bộ như thế bị nhiều người hiểu lầm, dẫn tới hậu quả là nhiều cú điện thoại gọi đến và nhiều cuộc đàm thoại riêng làm hao tốn nhiều giờ để giải thích các chi tiết, mà đáng lẽ đã phải rất rõ ràng ngay trong bản thông báo kia rồi.
Truyền Đạt: Một Việc Cần Thiết
Chứ Không Phải Là Một Xa Xỉ Phẩm
Truyền đạt là tên của trò chơi! Nó không phải là một việc để ta có thể chọn làm hay không, cũng không phải là một sáng tạo mà ta có thể thay đổi, cách thực hiện nó rất thiết yếu cho công tác lãnh đạo thành công. Công tác lãnh đạo không thể hiện hữu nếu thiếu vắng truyền thông.
Truyền đạt không phải chỉ là tài nói mà thôi. Nó không phải chỉ đơn giản là nói đúng lời, đúng lúc. Bạn có thể làm tất cả những điều đó mà
Lãnh đạo mà không chú ý đến tầm quan trọng của việc truyền đạt , là tự làm hại mình vẫn chưa thể gọi đó là truyền đạt được. Người khác thường đọc “tinh thần” (thái độ) của bạn nhiều hơn là môi miệng bạn. Dường như họ muốn “điều nghiên” cách nói của bạn để khám phá xem tại sao bạn lại nói như thế, hay điều bạn nói đó có tầm quan trọng như thế nào.
Cách người ta đáp lại điều bạn truyền đạt cho họ, thường là chiếc phong vũ biểu để đo mức thành công của bạn trong công tác truyền thông. Nếu bạn biết truyền thông đúng cách, bạn có thể trông mong được thấy các kết quả của nó. Những kết quả này vốn đã phải có sẵn trong tâm trí bạn, trước khi bạn bắt đầu công việc truyền thông. Nó không xảy ra nhờ bạn nói nhiều. Một số nhà lãnh đạo tưởng rằng hễ mình nói nhiều thì người khác sẽ lãnh hội được bức thông điệp mà mình muốn truyền đạt. TrGv 5:7 chép: “Đâu nhiều lời quá, đó cũng có sự hư không nhiều”.
Chúng ta truyền thông với nhau bằng lời nói, hoặc không cần lời nói. Ngay cả một cái liếc mắt hoặc một biểu lộ trên gương mặt cũng đã truyền thông được rất nhiều điều cho người khác rồi. Có lẽ bạn sẽ bảo rằng truyền thông là cả một tiến trình liên tục của đời sống; cuộc sống không thể vận hành được nếu không có truyền thông. Hằng ngày, chúng ta truyền thông với nhau bằng nhiều cách kể cả tốt lẫn xấu. Lãnh đạo mà không chú ý đến tầm quan trọng của việc truyền đạt, cảm thông, là tự làm hại mình.
Tổ chức càng lớn, thì vấn đề truyền thông với mọi người càng phải được lưu tâm. Phần đông người ta chỉ tạo thêm nhiều rắc rối cho tiến trình truyền thông. Nhưng nếu tất cả những người cùng dấn thân tham gia bất luận một công tác hay dự án nào, thì mỗi người đều cần phải nhận được sự truyền thông về những gì họ phải làm, phải hoàn tất thế nào và khi nào phải hoàn thành.
Quán Triệt Các Cấp Bậc Truyền Thông
Để giải quyết vấn đề truyền thông cho một số đông người, các tổ chức đã thiết kế nhiều cấp bậc truyền thông hay trách nhiệm. Nếu là một người khôn ngoan, vị lãnh tụ chính sẽ giao trách nhiệm cho nhiều cấp lãnh đạo (hay quản lý) khác để truyền đạt cho những người trong khu vực trách nhiệm của mình. Có thể nghĩ đến một số cấp bậc cần thiết nào đó để có thể giới hạn số người mà một người phải tiếp xúc với.
Nếu có 40 người cùng dấn thân tham gia một công tác nào đó, và họ muốn giới hạn số người mà một người sẽ tiếp xúc là ba người mà thôi, thì sẽ phải có bao nhiêu cấp bậc truyền thông? (Phải chăng bạn vốn là người thích những câu đố nát óc?). Câu giải đáp: chỉ ba cấp bậc. Một lãnh tụ chỉ truyền đạt cho ba vị khác trên cấp bậc thứ nhất (tổng cộng là 4); ba vị lãnh đạo kia mỗi người sẽ truyền đạt cho ba người (tổng số là 9); chín người này mỗi người sẽ truyền đạt cho ba người (tổng cộng 27), và như thế (bạn hi vọng) tất cả 40 người đều nhận đựơc bức thông điệp của bạn. Một công tác truyền thông như thế sẽ thành công hơn là nếu chỉ một mình vị lãnh tụ cố tự mình tiếp xúc với tất cả 39 người khác.
Khởi sự từ Đầu.
Công tác truyền thông vốn bắt đầu từ chính Thượng Đế. Đức Chúa Cha đã cảm thông với Đức Chúa Con, Đức Chúa Con cảm thông với Đức Thánh Linh, v.v.. ngay trước khi thế gian này và loài người được tạo dựng. Loài người học sự truyền thông từ Thượng Đế vì Ngài đã truyền thông cho loài người trước tiên. Ngài đã làm việc ấy lần đầu tiên bằng việc Ngài đã làm - sáng tạo vũ trụ này. Thi Tv 19:1-3 nói cho chúng ta biết rằng cả vũ trụ này luôn luôn lên tiếng. Nó truyền thông cho chúng ta về tính cách vĩ đại của Thượng Đế.
Thượng Đế cũng trực tiếp phán dạy loài người bằng nhiều cách (xem HeDt 1:1, 2) và truyền thông bằng sự mặc khải trọn vẹn và cuối cùng trong Thân vị Chúa Cứu Thế Giê-xu. Ngày nay, phương pháp chủ yếu mà Thượng Đế truyền thông cho loài người là thông qua Thánh Kinh.
Vì Đấng truyền thông vĩ đại là chính Thượng Đế, nên thật là một việc làm khôn ngoan nếu người lãnh đạo thuộc linh biết dành thì giờ để học hỏi cách Thượng Đế tiếp xúc với loài người. Sau đây là vài thí dụ để bạn có thể bắt đầu:
. Thượng Đế luôn luôn nói thật, Ngài chẳng bao giờ nói dối.
. Thượng Đế truyền phán cách có quyền, vì Ngài chính là Thượng Đế uy quyền.
. Thượng Đế đã dùng nhiều phương pháp để tiếp xúc với loài người.
. Thượng Đế đã phán bảo thật chi tiết với loài người về những gì Ngài muốn họ làm.
. Thượng Đế phán bảo loài người có thể chờ đợi các hậu quả gì.
. Thượng Đế phán dạy bằng tình yêu thương và lòng nhân từ thương xót.
. Thượng Đế phán dạy loài người tại sao Ngài muốn họ làm theo những gì Ngài đã dạy. Tất cả luôn luôn vì lợi ích của họ và sự vinh hiển của Ngài.
Bảng liệt kê này có thể được kéo dài thêm mãi. Chúng ta có thể học hỏi được rất nhiều về phương pháp giao lưu tiếp xúc và truyền thông truyền đạt của Thượng Đế.
Sự thông công trong việc cầu nguyện.
Một vị lãnh đạo thuộc linh sẽ bị thiệt thòi rất nhiều nếu không từng trải được cấp bậc giao lưu tiếp xúc mà chúng tôi gọi là cầu nguyện - sự giao thông giữa con người với Thượng Đế. Về một phương diện, sự giao thông giữa chúng ta với người khác sẽ bị hạn chế, nếu chúng ta không giao thông với Thượng Đế bằng sự cầu nguyện. Trong phần mô tả công tác của Môi-se, cầu nguyện chiếm vị trí ưu tiên một. Trò chuyện với Thượng Đế vốn quan trọng hơn trò chuyện với bất kỳ một ai khác.
Có nhiều khi phương pháp duy nhất để chúng ta có thể truyền thông cho người khác điều mà chúng ta muốn nói, là sau khi đã cầu nguyện. Có một thí dụ lạ lùng về vấn đề này trong sách Nê-hê-mi. Lúc ấy, ông đang trực diện với vai trò lãnh tụ; tình hình tại Giê-ru-sa-lem đang rất cần một con người như thế (xem NeNe 1:2, 3). Điều đầu tiên mà Nê-hê-mi đã làm, là cầu nguyện (xem 1:4-11). Lúc nhà vua hỏi Nê-hê-mi ông muốn cầu xin gì, thì Nê-hê-mi lại cầu nguyện (xem 2:4). Để sự tiếp xúc có hiệu quả, Nê-hê-mi tìm cầu sự trợ giúp của Thượng Đế. Bạn có làm như thế không?
Nhiều cấp bậc truyền thông khác nữa vốn có giữa vợ chồng, cha mẹ với con cái, giữa bạn bè với nhau, tại nơi phố chợ, qua các đài truyền hình truyền thanh, v.v.. Cuộc sống đầy dẫy những cuộc giao lưu tiếp xúc.
Các cấp lãnh đạo không thể lãnh đạo có hiệu quả nếu không có những cuộc giao lưu tiếp xúc thuộc mọi cấp bậc. Bạn không thể cô lập chính mình đối với những người mà bạn lãnh đạo.
Cá Nhân Và Số Đông
Cấp lãnh đạo thường gặp phải vấn đề làm thế nào để tiếp xúc giữa tập thể và cá nhân. Hoặc là người lãnh đạo tiếp xúc với một tập thể, hoặc là tập thể ấy cố tìm cách tiếp xúc với người lãnh đạo. Tập thể có thể là một tiểu ban gồm ba người, hoặc cũng có thể là một đám đông nhiều ngàn người. Muốn tiếp xúc với một tập thể, có hai vấn đề căn bản. Một là dùng uy quyền cá nhân đối với tập thể, và hai là sử dụng quyền uy của tập thể đối với cá nhân. Đây là một vấn đề cực kỳ quan trọng trong phần lớn các tổ chức (kể cả các Hội thánh).
Bí quyết: Sự quân bình.
Nếu cá nhân quỵ lụy tập thể (dù đó là tiểu ban, ban trị sự hay toàn thể tổ chức) các vấn đề về giao tiếp truyền thông sẽ gia tăng, cũng như các khó khăn khi muốn linh động uyển chuyển, thay đổi, bổ sung ý kiến v.v.. Nhiều Hội thánh tại Hoa-kỳ đang gặp rắc rối vì vấn đề này. Thay
Tập thể không thể lãnh đạo tốt ; cá nhân mới có người
lãnh đạo giỏi ! Nếu các bạn muốn người nào lãnh đạo ,
hãy giao quyền lãnh đạo cho người ấy . Đừng luôn luôn
nhắc nhở người ấy phải lãnh đạo như thế nào !
vì giao quyền lãnh đạo cho vị mục sư, quyền ấy lại thường ở trong tay một ban trị sự hay một uỷ ban. Lối tổ chức cá biệt này thường cản trở sự tăng trưởng. Một tập thể không thể đưa ra các quyết định nhanh chóng khi có cần, và việc truyền đạt phải trải qua nhiều đợt sàng lọc giữa các quan điểm và ý kiến khác nhau.
Hội thánh chúng ta thường bị chi phối bởi các quan niệm về một ban trị sự gồm nhiều người đại diện cho nhiều chức vụ khác nhau của Hội thánh. Với quan niệm này thì việc truyền thông quả là chậm chạp và tẻ nhạt. Ta phải mất rất nhiều thì giờ để thực hiện công việc. Thẩm quyền được chuyển từ người này sang người khác, nên khi cần thiết thì chẳng ai có quyền quyết định cả.
Sau khi những người đó đã bỏ nhiều thì giờ ra để nghiên cứu Kinh điển rồi, thì họ thay đổi cơ cấu tổ chức, và giao quyền lãnh đạo cho một vài cấp lãnh đạo hoặc vài vị trưởng lão nào đó, chứ không phải là cho một bộ phận đông người hơn là ban trị sự. Chẳng bao lâu, việc phát triển xảy ra theo cách mà người ta chưa hề thấy trước đó.
Tuy nhiên, giao quyền lãnh đạo cho một người duy nhất cũng có thể rất nguy hiểm. Nếu người có trách nhiệm quyết định mà “xấu nết” thì cả tổ chức phải gánh hậu quả. ChCn 29:2 chép: “Khi người công bình thêm nhiều lên thì thiên hạ vui mừng, nhưng khi kẻ ác cai trị, dân sự lại rên siết”. Hơn nữa, nếu vị lãnh tụ ấy không chịu cầu hỏi sự khôn ngoan của những người khác, dù là trong tiểu ban hay ban trị sự, thì tổ chức ấy sẽ không thể thành công. 15:22 nhắc nhở chúng ta: “Nhờ có nhiều mưu sĩ, mưu định bèn được thành”.
Mặt khác, nhiều tổ chức dùng danh nghĩa của Hội thánh vốn được những cá nhân sáng lập, và các vị này sau đó lại bổ nhiệm một ban giám đốc, có trách nhiệm khai trình với họ. Việc làm này tự nó vốn không phải là xấu, nhưng lại trở thành rắc rối khi ban giám đốc trở thành công cụ chủ yếu đưa ra quyết định để thực hiện các mục tiêu của tổ chức.
Tập thể không thể lãnh đạo tốt; cá nhân mới có người lãnh đạo giỏi! Nếu các bạn muốn người nào lãnh đạo, hãy giao quyền lãnh đạo cho người ấy. Đừng luôn luôn nhắc nhở người ấy phải lãnh đạo như thế nào! Nếu các bạn không tin rằng người ấy có đầy đủ phẩm cách để hoàn thành công tác, hãy cách chức người ấy để trao cho một người có thể hoàn thành công tác.
Chữ chìa khoá trong mối liên hệ cá nhân với một tập thể là sự quân bình. Cá nhân phải thừa nhận tầm quan trọng của tập thể về các phương diện ý kiến, gợi ý và góp ý. Tuy quyết định là của một cá nhân đưa ra, phải thừa nhận rằng ý kiến của tập thể đứng đàng sau nó vốn cũng có tầm quan trọng và trọng lượng của nó. Vai trò của tập thể phải là ủng hộ.
Tập thể phải thừa nhận vai trò của cá nhân với cương vị lãnh tụ. Người ấy phải được quyền tự do lãnh đạo. Nếu lãnh tụ được tập thể hay tổ chức bầu chọn cũng là một việc làm khôn ngoan. Như thế, vị lãnh tụ ấy sẽ cảm thấy mình có trách nhiệm và phải khai trình mọi sự với tập thể hoặc tổ chức ấy. Vai trò chủ yếu của tập thể là lợi dụng các công tác phục vụ của người lãnh đạo ấy và hậu thuẫn cho người ấy trong mọi quyết định, mục đích và mục tiêu mà người ấy đang thực hiện.
Thẩm quyền của lãnh tụ.
Nhiều năm trước đây, tôi từng thất vọng vì là lãnh tụ mà lại chẳng có quyền hành động. Tôi cộng tác với một tổ chức đã thuê tôi, nhưng lại chỉ giao cho tôi vai trò thực thi các quyết định của họ mà thôi. Tôi cảm thấy mình bị sa bẫy và rất chán nản. Lúc ấy, tôi đã biết rằng hệ thống của họ sai lầm tại điểm ấy. Sự tăng trưởng và phát triển của tổ chức ấy gặp nhiều trở ngại. Ban Giám đốc đã không trực diện với các vấn đề hằng ngày, mà cũng chẳng thấu hiểu những điều cần thiết.
Làm Thế Nào Để Tiếp Xúc Và Cảm Thông
Với Một Tập Thể.
Sau khi trực diện với nỗi thất vọng làm lãnh tụ mà không được tự do lãnh đạo, tôi nhận định có một số nguyên tắc ảnh hưởng đến việc tiếp xúc giữa cá nhân với tập thể.
. Xác định tầm quan trọng của từng cá nhân trong tập thể ấy trong mối liên hệ với điều mà bạn muốn truyền đạt.
. Đừng tỏ thái độ trịch thượng đối với tập thể (trong cách bạn nói, chỗ bạn ngồi, cách ăn mặc của bạn và cách bạn chào họ). Là một thành viên trong ban quản trị một hệ thống phát triển giáo dục, tôi nhận thấy vị chủ tịch hội đồng quản trị thường tự điều chỉnh cách ăn mặc của mình cho giống với các thành viên khác. Ông thường bắt đầu mặc com-lê và thắt cà vạt. Nếu các thành viên khác trong ban quản trị đi làm mà không có áo ngoài, ông cởi áo ngoài của mình ra. Nếu họ mặc áo sơ mi thể thao, ông cởi luôn áo ngoài và cả cà vạt. Ông vốn là một lãnh tụ khôn ngoan. Ông muốn tự hòa mình vào trong tập thể mà ông phải luôn tiếp xúc.
. Duy trì sự tiếp xúc bằng mắt với từng thành viên của tập thể nếu có thể được. Nếu bạn không làm như thế, họ sẽ ngạc nhiên tự hỏi tại sao!
. Học tập sử dụng các đại từ theo số nhiều , “chúng tôi” và “của chúng tôi”, thay vì các đại từ số ít, “tôi”, “của tôi”. Có một vị lãnh đạo từng khiến cho tôi và các thành viên khác trong ban quản trị nơi chúng tôi làm việc phát cáu vì ông ta cứ luôn luôn nói về chính mình. Theo điều ông ta nghĩ, thì chúng tôi hoàn toàn không cần thiết. Rút cục, ông đã phải gặp vấn đề về “Cái Tôi”!
. Đặt câu hỏi với các thành viên khác trong nhóm , chứng tỏ bạn cần sự giúp đỡ và hậu thuẫn của họ. Cách bạn nêu câu hỏi cũng rất quan trọng. Thay vì nói: “Chắc anh đồng ý với những gì tôi vừa nói chứ? Có phải như thế không?” hãy thử câu này: “Anh X này, anh nghĩ thế nào về việc ấy?” Hoặc “Theo ý bạn, thì đây có phải là cách giải quyết khôn ngoan không?” Hay “Theo ý bạn, thì ta có cách nào hay hơn để làm việc ấy không?”.
. Cho các thành viên trong nhóm được tự do phát biểu các sáng kiến và ý kiến khác ta . Bạn không thể thật sự làm việc này nếu bạn trách cứ họ về những gì họ phát biểu, hay nếu vị trí của họ trong tổ chức hoặc mối liên hệ giữa bạn với họ ở cương vị lãnh đạo có nguy cơ bị đe doạ. Có thể nào những người khác bất đồng ý kiến với bạn, nhưng vẫn còn là bạn thân của bạn hay không?
. Tập nhận lỗi của mình trước tập thể và thật lòng xin lỗi khi công việc gặp trở ngại, hay không tiến hành đúng theo điều bạn mong đợi. Có một trong những việc khó khăn nhất mà tôi tự bắt buộc mình phải làm ở cương vị lãnh đạo là nhận mình có lỗi (nhất là khi đó là một lỗi nặng!)
Tôi thường nghĩ rằng thừa nhận mình thất bại là một dấu hiệu của sự yếu kém. Sự việc có thể là như thế, nếu bạn cứ luôn luôn thất bại! Nhưng nhận lỗi giữa lúc mình thành công là bí quyết của người lãnh đạo giỏi. Hãy tập tỏ ra cởi mở và thành thật trước mặt người khác. Họ sẽ yêu mến bạn vì việc ấy (hoặc ít ra cũng ngạc nhiên để hoàn toàn nhất trí với bạn)
. Đừng bao giờ đổ lỗi cho tập thể vì tổ chức gặp thất bại . Hãy nhận phần lỗi về mình (dù sao thì bạn cũng là người lãnh đạo - suy cho cùng thì đó quả thật là lỗi của bạn). Có lần một vị mục sư nọ bảo với tôi rằng vấn đề đích thực trong Hội thánh của ông là các chấp sự của ông. Họ là lý do khiến cho Hội thánh của ông không tăng trưởng. Bao lâu vị ấy còn bảo thủ quan điểm ấy, Hội thánh của ông ta sẽ cứ trì trệ, cứng đọng.
Vấn đề nằm ngay trong trái tim của vị mục sư ấy. Thay vì chấp nhận sự quy trách nhiệm cho sự thất bại của Hội Thánh trong lãnh vực tăng trưởng về mình, ông đã phạm vào “lỗi sơ xuất của Freud” là đỗ lỗi cho người khác (một dấu hiệu chắc chắn cho thấy bạn đang có mặc cảm phạm lỗi về một điều gì đó).
. Trong những nhóm nhỏ , nên gọi mọi người bằng tên tộc của họ trừ phi họ là những người cao tuổi hơn bạn nhiều hay có chức vị cao hơn. Trong các tập thể đông người, cần tế nhị, thận trọng, nhất là khi bạn chưa biết rõ lắm về người kia. Trong giao tiếp không gọi đúng tên người đối diện là điều đặc biệt đáng trách và tai hại.
Ngày nọ, tôi thủ vai cố vấn cho một người bạn lâu năm và rất tin tưởng tôi. Giữa một câu nói hết sức quan trọng, tôi lại gọi ông ta bằng tên của một người khác. Tôi không thể tin được là mình đã làm như thế! Quả thật là tôi chưa bao giờ cảm thấy bối rối như lúc đó! Chính lúc ấy, ông ta cảm thấy là tôi đã chẳng quan tâm gì tới ông ta với tư cách một con người. Mọi người chúng ta đều thích nghe một ai đó gọi tên mình.
. Nên bắt đầu và kết thúc bằng lời cầu nguyện . Phải luôn luôn chứng tỏ mình tin cậy và lệ thuộc liên tục vào Thượng Đế. Một tập thể sẽ đáp lại với một cá nhân thuận lợi hơn nếu cá nhân ấy bắt đầu cuộc đối thoại bằng lời cầu nguyện. Trong lời cầu nguyện mở đầu, nên cầu xin Chúa ban cho mình sự khôn ngoan và hướng dẫn mình. Trong lời cầu nguyện kết thúc, dâng lên lời cảm tạ và ca tụng Chúa, bất chấp kết quả có như thế nào.
Nghệ Thuật Đối Đầu
Một trong nhiều hình thức khó trong giao tiếp, là khi cả một tập thể phải đối đầu với một cá nhân. Điều này thỉnh thoảng vẫn xảy ra trong sinh hoạt của một Hội thánh, khi có những cá nhân phải đối đầu với hai hoặc ba người, một tiểu ban, hay với ban trị sự (xem Mat Mt 8:15-17), hoặc khi có những vấn đề về tổ chức. Sau đây là vài gợi ý hữu ích để giải quyết vấn đề này.
. Trong khi sắp xếp chỗ ngồi , đừng cô lập người ấy đối với toàn nhóm . Tôi chẳng bao giờ cảm thấy thích thú khi bị đặt ngồi một mình ở một đầu bàn, trong khi nhiều người khác ngồi ở đầu bàn phía bên kia. Nhiều khi người ta lạm dụng cách sắp xếp chỗ ngồi để xác lập uy quyền. Điều này thật ra là không cần thiết. Nó gợi ý về một thứ uy quyền bấp bênh, không có gì bảo đảm cả.
. Nếu có thể được , từng thành viên một trong nhóm nên lợi dụng thì giờ để chào hỏi người kia . Việc làm này sẽ tức khắc tạo ra bầu không khí ấm cúng. Người kia sẽ tán thưởng mối quan tâm của từng thành viên một trong nhóm, khi mỗi người đều đích thân chào hỏi mình.
. Đừng lạm dụng uy quyền của tập thể để áp đảo cá nhân . Thật rất khó truyền thông cách hiệu quả nếu cá nhân tin rằng bạn đang cố gắng áp đảo anh ta bằng sự quan trọng và uy quyền của tập thể. Tôi đã từng trải về vấn đề này một lần khi phải ra trước ban trị sự của một tổ chức truyền giáo. Họ liên tục dùng uy quyền tạo áp lực trên tôi, khiến tôi phân vân tự hỏi chẳng hay quan điểm của mình có được họ lắng nghe hay không. Tôi cảm thấy bị đẩy vào thế phòng ngự và gặp rất nhiều khó khăn để có thể tạo được sự thông cảm.
Tôi nhận thức được rằng chính thái độ của tôi đã tạo thành vấn đề, nhưng cũng nhờ kinh nghiệm đó mà học hỏi được để bây giờ sẽ cố gắng áp dụng nó cho chức vụ của mình. Một tập thể chẳng bao giờ nên tìm cách lạm dụng uy quyền để áp đảo hay tạo áp lực trên một cá nhân.
. Xác lập tầm quan trọng của cá nhân . Tập thể phải làm những gì mình có thể làm được để chứng tỏ mình muốn lắng nghe quan điểm của cá nhân. Họ phải chân thành. Tập thể phải sẵn sàng tỏ thái độ tôn trọng, muốn lắng nghe quan điểm của cá nhân.
Phải thận trọng trong vấn đề biểu lộ một tinh thần chê bai chỉ trích các sáng kiến, các quyết định hay ý kiến của một cá nhân trước khi lắng nghe lập trường của người ấy. Dường như tất cả mọi vấn đề đều có đến ba mặt: quan điểm của riêng bạn, quan điểm của người kia, và sự thật đích thực. Một tinh thần chê bai chỉ trích có thể cắt đứt mọi truyền thông.
. Tìm cách giúp đỡ người kia bằng lời nói của bạn . Cần chuẩn bị tinh thần cho việc này ngay trước khi cuộc bàn cãi bắt đầu. Hãy tự đặt cho mình câu hỏi này: “Tôi có thể nói gì để thật sự giúp ích và xây dựng được cho người ấy?”
. Phải sẵn sàng ủng hộ các ý kiến của người kia , cả khi các ý kiến ấy không khớp đúng với những gì bạn nghĩ, trừ khi những gì được nói ra có một điểm nào đó sai lầm về phương diện đạo đức. Một câu nói nhẹ nhàng như: “Tôi đã không nghĩ ra điều ấy” có thể thật sự khích lệ người kia. Hoặc bạn có thể nói đại khái: “Tôi thật muốn nghe lập trường của bạn trong vấn đế này”. Tất cả mọi người đều thích nghe câu: “Đó quả là một ý kiến hay!” Có thể bạn không nhất trí với ý kiến ấy, nhưng ít ra bạn cũng thừa nhận giá trị của nó.
. Đừng tìm cách truyền đạt một ý kiến cho một cá nhân bằng cách nói với một người khác trong nhóm ; Phải luôn luôn nhìn thẳng vào mắt và nói trực tiếp với người ấy.
. Tìm cách khích lệ cá nhân ấy bằng cách tự đặt mình vào địa vị đơn độc mà người ấy đang cảm thấy . Điều khá thường xảy ra, là tập thể không chịu tán thành lập trường của cá nhân đang trực diện với cả tập thể.
. Bắt đầu và kết thúc bằng lời cầu nguyện
Soát Xét Thật Đầy Đủ
Một trong nhiều vấn đề căn bản trong việc truyền thông là thông tin không thoả đáng. Mọi người đều cần nhận được những gì được truyền đạt, nhưng thường thường thì có một điểm nào đó bị thiếu đi. Hãy tự vấn: “Điều mà tôi truyền đạt đó, có nói rõ phải làm gì, làm như thế nào, và khi nào thì phải làm việc ấy, hay không?” Phải ngắn gọn nhưng đầy đủ: Phải nói thật vắn tắt mà chính xác, nhưng phải chắc chắn là bạn đã nói thật đầy đủ rồi.
Thật là khó mong đợi những gì mà bạn không xem xét kỹ. Trong giao tiếp, việc làm khôn ngoan là nên rà soát lại việc giao tiếp của bạn. Tuy nhiên, phải làm việc ấy thật khéo léo. Đừng để cho người khác nghĩ rằng bạn không tin cậy họ!
Một trong những phương pháp quan trọng nhất để giao tiếp với tất cả mọi người, là nói “xin cám ơn”. Một lời tỏ ý tán thưởng, sẽ giúp ích cho bạn rất nhiều trong lần giao tiếp sau. Bạn phải đích thân nói riêng với người kia, chứ không phải là nói trước mặt nhiều người khác. Bạn cần cho họ biết rằng không phải bạn tỏ bày sự cảm kích chỉ vì muốn cho những người khác nghĩ tốt về bạn. Một thư “cám ơn” ngắn của bạn có thể đi rất xa để tiến đến chỗ xây dựng sự giao tiếp có hiệu quả.
BẢNG KIỂM ĐIỂM CỦA NGƯỜI LÃNH ĐẠO
1. Bạn có tiếp xúc hằng ngày với Chúa bằng sự cầu nguyện không?
2. Có bao nhiêu cấp bậc giao tiếp trong chức vụ của mình, mà bạn đang cần thực hiện?
3. Bạn có tỏ ra cởi mở với mọi người không? Họ có thể bất đồng ý kiến với bạn mà mối liên hệ giữa họ với bạn chẳng bị ảnh hưởng gì cả, không?
4. Bạn có tán thưởng các quan điểm của người khác không? Bạn làm thế nào để chứng tỏ thái độ đó?
5. Bạn có nhìn thẳng vào mắt người ta và nói trực tiếp với họ không?
6. Bạn có xin lỗi trước mặt nhiều người khác không?
7. Bạn có trút hết những thất bại lên tổ chức của mình không?
8. Bạn có cởi mở với các ý kiến mới không? Bạn có thể thay đổi quan điểm của mình không?
9. Bạn có nói “xin cám ơn” người khác không?
ĐIỀU GÌ KHIẾN CHO NGƯỜI TA CHỊU LẮNG NGHE?
Một sáng Chúa nhật nọ, một người đến với tôi sau bài giảng trước hiện diện của nhiều người khác nữa và bắt đầu chỉ ra điều sai lầm trong bài giảng của tôi. Ông ta không giới thiệu mình và tôi cũng chưa hề thấy ông ta trước đó bao giờ. Ông ta chen vào trong lúc tôi đang trò chuyện với một người khác. Ông ta nói khá to tiếng. Ông ta tỏ ra tức tối và chẳng khoan dung đới với các cảm nghĩ của người khác. Ông ta cứ phê phán mà chẳng chịu lắng nghe các sự kiện. Ông ta hiểu lầm những gì tôi nói (hay chính tôi đã hiểu sai những gì mình đã nói). Ông ta nói sai cả văn phạm. Lúc ấy đã đến giờ ăn trưa, tôi thì đã đói bụng, còn gia đình tôi đang chờ tôi ngoài xe hơi. Thiết tưởng chẳng cần phải nói, chúng tôi đã có vấn đề trong việc truyền thông.
Bất chấp bạn có nói gì hay nói lớn tiếng đến đâu, có một số người chẳng bao giờ chịu nghe. Truyền thông không chỉ có một chiều. Một người nói, nhưng người kia phải nghe. Lắng nghe là một nghệ thuật đã bị nhiều người đánh mất. Phần đông người ta chỉ chờ cho người kia ngưng nói để họ có thể nói. Lắm khi chịu nghe chẳng có gì khác hơn là kiên trì chịu đựng! Cho nên chẳng có chi lạ khi có rất ít truyền thông.
Có lần nọ tôi ngồi trên bục giảng cùng với một nhóm người khả kính để nghe một nhà hùng biện thao thao bất tuyệt suốt hai tiếng đồng hồ cho một lượng cử tọa trên hai ngàn người. Sau đó, một người bạn của tôi nhận xét rằng có thể đặt tên cho diễn giả ấy là “chim tắm”, bởi vì ông ta quá nông cạn! Ông ta chẳng nói gì cả, nhưng ông ta nói thật hay! Rõ ràng là mọi người đều chán nản và tức bực. Dường như ông ta rất say mê giọng nói với số từ vựng của mình. Tôi nghĩ “quả là một thảm kịch!”
Tại Sao Người Ta Không Chịu Nghe
Những điều thường gây trở ngại cho việc truyền thông là gì? Tại sao nhiều lúc người ta không chịu nghe? Vấn đề là gì đây?
Bạn nói quá nhiều.
Đây là một vấn đề khá phổ biến. Chúng ta đều đã gặp những người dường như tin rằng hễ họ nói nhiều thì thiên hạ sẽ hiểu được điều họ muốn nói. Nhưng trong sách Truyền đạo, Sa-lô-môn nói: “Ngươi khá ít lời” (TrGv 5:2), “Nhiều lời thì sanh ra sự ngu dại” (5:3) và “Đâu có...nhiều lời quá, đó cũng có sự hư không nhiều” (5:7).
Nếu có người nói quá nhiều, thì có hai vấn để phải đối phó. Một là vấn đề ghi nhớ, người nghe bạn rất dễ quên một số điều bạn nói vì có quá nhiều điều phải nhớ! Hai là người ta rất dễ chán nản với một lượng từ quá lớn nên tinh thần ngủ gục! (Một số người còn thật sự ngủ gục nữa kia!).
Nhiều người sở dĩ không chịu hài lòng với việc chỉ chia sẻ những điểm quan trọng, bởi vì họ thật lòng tin rằng chính các “chi tiết” mới khiến thiên hạ thích thú. Nên nhớ, bạn có thể tưởng rằng tất cả các chi tiết đều lý thú, nhưng điều đó không có nghĩa rằng sự thật quả đúng như thế, hay sự việc quả đúng như thế đối với người mà bạn đang tiếp xúc với. Phải học tập nói vắn tắt, ngắn gọn và đúng vào vấn đề. Phải cố gắng nêu rõ điều bạn muốn nói ngay trong câu đầu tiên của bạn (việc này có thể giúp bạn tiết kiệm được rất nhiều thì giờ, và cứu bạn thoát khỏi nhiều chuyện rắc rối!).
Bạn chưa nói đủ.
Tất cả chúng ta đều có kinh nghiệm là nhận được một loại thông báo nào đó từ một người không nêu ra đầy đủ các sự kiện, hay nêu rõ đủ các chỉ dẫn để chúng ta có thể thực hiện điều mà người ấy nhắn bảo chúng ta. Gặp trường hợp như thế thì thật đáng chán. Nhiều khi bạn chẳng màng tự trách mình nữa, vì không hiểu hoặc không đọc được những gì viết qua các dòng chữ.
Nếu bạn là một người quan tâm đến những gì mình muốn truyền đạt, bạn phải đặt câu hỏi với những người mà mình đang trò chuyện với, để biết chắc là họ đã nhận được đầy đủ thông tin hay chưa, hầu có thể thực hiện điều mà bạn nhắn nhủ họ làm.
Ngôn ngữ của bạn quá hùng biện.
Chúng ta không chống lại người nói hay, hay dùng đúng chữ trong một câu nào đó. Tuy nhiên ai cũng biết rằng người cố ý dùng tài hùng biện hay lối nói kiểu cách để gây ấn tượng trên người khác, thật ra đang đặt thêm một chướng ngại cho việc truyền thông.
Cố Tiến sĩ Bob Jones, có một câu phát biểu đã trở thành kinh điển về vấn đề này: “Bạn nên nói ‘Tôi có thấy...’ hơn là nói ‘Tôi đã thấy...’, nếu bạn thật sự có thấy việc gì đó, hơn là nói ‘Tôi đã thấy...’ khi bạn đã chẳng thấy gì cả” (“It is better to say ‘I seen it’ than ‘I saw it’ if you really saw something, than to say ‘I saw it’ when you didn’t see it at all!”)
Người lãnh đạo cần xây dựng bài giảng của mình theo trình độ hiểu biết của người nghe. Chẳng những người ấy phải lưu ý đến trình độ học vấn của nhóm thính giả, mà còn phải chú ý đến bối cảnh văn hóa của họ nữa.
Khi chúng ta cố ý trổ tài hùng biện, thiên hạ sẽ bắt đầu tin rằng chúng ta kiêu ngạo và chú ý dùng từ vựng để lòe họ, hơn là thật lòng muốn tiếp xúc với họ.
Bạn có những nhận xét làm hại cho người khác.
Một người có thể lợi dụng uy quyền, kiến thức hay ý kiến của mình để chê bai, bài xích một điều gì đó nhắm gây ấn tượng trên một người khác, nhất là nếu đem điều đó ra để đối chiếu với quan điểm của một người khác. Chúng ta thường dùng nhiều “nhãn hiệu” để thực hiện việc
Thiên hạ dùng đủ thứ mánh khoé để giảm bớt hiệu quả của một lời nói hay việc làm của một người nào đó . Đây là một lối lý luận của kẻ kiêu ngạo và dại dột .
này. Ta có thể nói một người nào đó là “bảo thủ” với hi vọng cắt đứt mọi hậu thuẫn của người khác dành cho người ấy. Ta có thể nói một vấn đề nào đó bị quá nhiều người “phản đối” để tránh đề cập. Ta có thể công kích quan điểm của một ai đó bằng cách nói rằng: “Ối chào, các ông trông mong gì nơi một con người như thế!” Ta thường thắc mắc đặt vấn đề về động cơ thúc đẩy người ấy trước mặt nhiều người khác để làm suy giảm tầm quan trọng của những gì người ấy đã nói. Câu nói có thể là như thế này: “Tôi biết ông ấy nói gì, nhưng nếu các ông biết thật ra tại sao ông ta lại nói như thế, các ông mới biết tại sao nói như thế là sai”.
Thiên hạ dùng đủ thứ mánh khoé để giảm bớt hiệu quả của một lời nói hay việc làm của một người nào đó. Đây là một lối lý luận của kẻ kiêu ngạo và dại dột, vì kẻ làm như thế tưởng rằng mình sẽ được người khác coi trọng hơn nếu mình “hạ bệ” người khác. Eph Ep 4:29 chép “Chớ có một lời dữ nào ra từ miệng anh em; nhưng khi đáng nói hãy nói một vài lời lành giúp ơn cho và có ích lợi cho kẻ nghe đến”. Mong ước của chúng ta phải là gây dựng người khác, chứ không phải là báng bổ, hạ bệ họ.
Bạn hay phóng đại.
Thiên hạ hay phóng đại vì nhiều lý do khác nhau. Có khi chúng ta làm như thế để người khác coi trọng mình hơn điều thật sự mình vốn có. Lần khác, chúng ta làm như thế chỉ để thiên hạ chịu nghe ta và tưởng rằng điều ta đang nói là quan trọng. Lắm lúc chúng ta phóng đại để che giấu một điều gì đó sai trái hay lầm lỗi trong đời sống chúng ta. Rất ít người chịu thừa nhận rằng những sự phóng đại như thế thật ra thường chẳng gì khác hơn là nói dối, hay ít ra cũng là việc cố gắng lừa dối thiên hạ bằng cách bóp méo các sự kiện. Hãy thử lưu ý đến một số phương cách chúng ta dùng thực hiện điều này và nhìn nhận rằng tất cả chúng đều là các chướng ngại cho việc truyền thông của chúng ta.
1. Chúng ta làm cho những việc nhỏ xem ra có vẻ to lớn . Có người gọi trường hợp này là “việc bé xé ra to”. Các mối liên hệ giữa nhiều thành viên trong hội thánh thường bị thương tổn chính là vì vấn đề truyền thông này.
Giả sử có một đứa con ở tuổi thiếu niên của bạn, một đêm nọ không thể về nhà vì ô-tô bị trục trặc tại một thị trấn hay thành phố khác. Chẳng mấy chốc, tin đồn loan ra rằng đứa con thiếu niên của bạn không về nhà vì một hành vi vô đạo đức, khiến thanh danh nó bị tiêu tan vì sự phóng đại cẩu thả về điều đã thật sự xảy ra.
Mọi người chúng ta chắc đều được nghe nhiều thí dụ về những câu chuyện như thế và thấy rõ chúng đã bị thổi phồng lên như thế nào bởi những kẻ thích kể chúng lại cho nhiều người khác. Loại ngồi lê đôi mách không chịu cẩn thận tìm hiểu các sự kiện này vốn nguy hiểm và tai hại. Tình yêu thương chẳng vui về các thảm họa hay vấn đề xảy ra cho người khác, cũng chẳng tìm cách phô bày chúng ra trước mặt người khác. Hơn nữa, khi bạn phạm vào lỗi “chuyện bé xé ra to” bạn bị mất tin cậy đối với mọi người, và việc giao tiếp của bạn sẽ bị ảnh hưởng nặng nề.
2. Chúng ta quá tổng quát hoá vấn đề . Đây là một vấn đề thông thường giữa con người trong lãnh vực giao tiếp, và chúng ta phải nhận ra tính chất nghiêm trọng của nó như thế nào. Quá tổng quát hoá là những câu nói về vật hay người thường có từ “tất cả” hay “hết thảy” trong đó. Thí dụ ta nói: “Tất cả mọi người đều biết điều đó về ông ta...” trong khi “tất cả” chúng ta đều biết đó không phải là sự thật. (Hãy nghĩ xem tôi đã cố dùng từ “tất cả” đó để thuyết phục bạn như thế nào?).
Một thí dụ khác: “Tất cả mọi người đều làm như thế”. Nhiều thanh niên đang bị ảnh hưởng của loại lý luận như thế. Sự thật là tất cả mọi người không có làm như thế. Cách dùng từ “tất cả mọi người” này là một sự phóng đại được thiên hạ dùng để khiến những người khác đồng ý với họ về những gì họ đang nói.
Một thí dụ khác nữa: “Bữa nay, mọi việc đều hư hỏng cả”. Có lẽ một phần lớn các sự việc đều gặp trục trặc theo cách nhìn của bạn, nhưng nhiều người khác có thể không nhận thấy như thế. Chúng ta thường cố buộc người khác chấp nhận quan điểm của mình bằng cách quá tổng quát hoá như thế. Cuối cùng, nó sẽ quay lại làm hại chúng ta khi thiên hạ biết tự mình suy nghĩ lấy, sẽ bắt đầu thắc mắc đặt vấn đề với tính cách đáng tin cậy của chúng ta là những người tiếp xúc để truyền thông tin tức cho họ.
3. Chúng ta đưa ra những câu phát biểu về nhân-quả vô căn cứ . Chúng ta luôn luôn dùng những câu phát biểu như thế (ở đây chính tôi lại quá đáng rồi!), hoặc ít nhất dường như chúng ta rất thường dùng những câu như thế. “Chủ thuyết của Calvin dẫn tới chính thống thuyết chết cứng” hay “Thuyết của Arminius mở đường cho tự do chủ nghĩa”. Cả hai câu phát biểu này đều không đúng về phương diện nhân-quả, tuy cả hai đều có thể đúng trong một số trường hợp.
Hoặc chúng ta nói: “Có khói thì có lửa”, câu nói ngắn ngủi này thường được dùng để chứng minh một điểm liên hệ đến hành động của một người. Nếu người ấy có làm một việc gì đó, tức khắc ta hình dung ra là người ấy sắp làm một việc khác nữa. Đây là một lối lý luận nguy hiểm và tạo ra mối liên hệ xấu về mặt giao lưu tiếp xúc.
“Tất cả những người theo phong trào ân tứ (charismatics) đều là những người đa cảm, dễ xúc động”. Ý muốn nói ở đây là nếu bạn theo phong trào ân tứ (về phương diện thần học) thì bạn sẽ trở thành người đa cảm hơn là nếu bạn không theo phong trào ấy. Tuy nhiên, có rất nhiều người chẳng hề theo phong trào ân tứ nhưng vốn là những con người rất dễ xúc động, còn có nhiều người thuộc phong trào ấy, nhưng dường như lại còn vô cảm, thông thái và tri thức hơn trong các nét đặc trưng về nhân cách của họ. Một lần nữa, việc phóng đại thuyết nhân-quả đã bị nhiều người lạm dụng để chứng minh một điểm mà cá nhân họ tin, nhưng không thể được các sự kiện xác lập.
4. Chúng ta chỉ suy nghĩ theo dạng hoặc thế này - hay thế kia . Với những người sử dụng loại lý luận này, thì mọi sự dường như chỉ có thể là đen hoặc trắng mà thôi. Một sự việc chỉ có thể là đúng hoặc sai. Một người sẽ chỉ có thể hoặc là bạn hoặc là kẻ thù của ta. Vấn đề rắc rối là cuộc đời lại không quá đơn giản như thế. Có những “khu vực màu xám” và những vùng “tranh tối tranh sáng”, ở đó, ta không thể chỉ rút ra những kết luận cứng nhắc và vội vàng như thế.
Ta có thể nói: “Bạn chỉ có thể là một người hoặc theo truyền thống Calvin hoặc truyền thống Arminius thôi - thế bạn thuộc nhóm nào?”. Nếu người kia trả lời: “Vâng, tôi nghĩ mình là một người đứng đâu đó giữa hai truyền thống ấy - như một người Calminian chẳng hạn”, thì chúng ta là những người chỉ thích có trắng hoặc đen mà thôi sẽ chỉ trích và lên án câu trả lời này, và có thể còn tố cáo người kia là “kẻ thỏa hiệp” nữa.
Những ai muốn trở thành người lãnh đạo phải hết sức thận trọng đối với loại thái độ giao tiếp này. Bạn sẽ thuyết phục mọi người quanh mình rằng hoặc là họ phải ủng hộ bạn 100% hoặc là họ phải chống lại bạn 100%. Nhưng sự thật có thể là họ chỉ ủng hộ bạn đến 90% mà thôi, còn trong 10% còn lại, họ không đồng ý với bạn. Một lãnh tụ khôn ngoan phải uyển chuyển với vấn đề hơn là sử dụng những câu nói phóng đại mang tính chất hoặc thế này hay thế kia.
5. Chúng ta sử dụng sai các thống kê . Chắc bạn từng nghe câu nói: “Các biểu đồ không nói dối, nhưng có nhiều kẻ nói dối lợi dụng các biểu đồ”. Nhiều người chúng ta trong khu vực lãnh đạo thuộc linh vốn ý thức quá rõ vấn đề này. Các thống kê thường được người ta dùng để chứng minh cho việc các nỗ lực của họ có được Thượng Đế đại dụng hay không. Tuy nhiên, người ta có thể dễ dàng bóp méo các sự kiện một ít mà khỏi phải nói dối.
Một thí dụ đơn giản là việc sử dụng các đồ thị - nó thực hiện theo lối thẳng đứng hay theo chiều ngang?. Bạn dùng những con số nào trong đồ thị để đối chiếu với các bảng thống kê của mình? Thí dụ: Một đồ thị với sự phân chia thập phân (như 10,20,30,...) có thể cho thấy một sự tăng trưởng lớn hơn là sự phân chia bách phân (như 100,200,300,...).
Rồi khi chúng ta dùng các bảng thống kê, chúng ta cũng thường nói về “con số trung bình”. Nhưng “con số trung bình” là gì? Nó có ý nghĩa gì? Vấn đề thường phải đương đầu đó là những gì không rõ ràng trong các thống kê. Điều quan trọng không phải là những gì chúng ta muốn trình bày mà là những gì chúng ta muốn che đi.
Một Hội thánh có thể lý luận rằng 50% của một lớp học Trường Chúa Nhật nào đó đã tham gia công tác truyền giảng. Như thế thì quá tốt và gây được ấn tượng. Nhưng giả sử lớp học đã được chọn đó lại là lớp có sỉ số học viên nhỏ nhất, và còn có 20 lớp khác có số học viên đông hơn. Và giả sử khi Hội thánh đánh giá chung tất cả các lớp thì sẽ có chưa tới 5% tham gia công tác truyền giảng!
Vấn đề ẩn đằng sau cách dùng các bảng thống kê là lý do tại sao các thông tin ấy lại được phố biến. Nó nhằm mục đích tạo ấn tượng hay cung cấp thông tin? Đó là để tự hào về những gì chúng ta đã thực hiện được hay nhằm sử dụng làm động cơ thúc đẩy để chúng ta hoạt động tốt hơn? Một Hội thánh có thể khẳng định rằng đã có 100 người quyết định ăn năn qui đạo trong năm vừa qua, nhưng lại quên không nhắc đến việc chỉ còn hai trong số đó hiện là thành viên của Hội thánh và đang tăng trưởng trong đức tin mà thôi.
Thật là dễ phóng đại một tình hình bằng cách lợi dụng các bảng thống kê, và các cấp lãnh đạo phải thận trọng trong vấn đề này về những gì có liên quan tới cách truyền thông của họ với mọi ngườiï. Nếu các sự kiện đã bị bóp méo, hay hình ảnh đưa ra không phải là một hình ảnh đầy đủ trọn vẹn, thì tín đồ sẽ bắt đầu thắc mắc đặt vấn đề về các động cơ thúc đẩy của bạn.
Bạn lạm dụng các thẩm quyền.
Một rào cản rất phổ biến đối với việc giao tiếp là cậy vào một thẩm quyền nào đó (chứ không phải là Thượng Đế và Kinh điển) để hậu thuẫn cho những gì chúng ta nói hay quyền ăn nói của chúng ta. Khi chúng ta nghiên cứu các lý do tại sao thiên hạ lại tin một điều gì, chúng ta thường phát giác ra ba nguồn gốc có can dự vào đó: Kinh nghiệm trực tiếp, suy luận căn cứ vào một số sự kiện hay chấp nhận thẩm quyền.
Tuy nhiên, khi một thẩm quyền nào đó được dựa vào để chứng minh một vấn đề hay để tăng thêm cơ may cho điều chúng ta nói đó là đáng tin, chúng ta cần đặt ra một số câu hỏi căn bản như: “Thẩm quyền ấy có uy tín trong vấn đề đó hay không?” Hoặc “Thẩm quyền ấy có đáng tin cậy không?” Chúng ta cũng phải hỏi: “Thẩm quyền ấy có được những nguồn gốc đáng tin cậy khác hậu thuẫn hay không?” Chúng ta phải xác định thẩm quyền đã được viện ra đó hậu thuẫn cho vấn đề của mình như thế nào. Ta phải hỏi: “Bối cảnh của nhận xét đó là gì?” và “Thẩm quyền này có bị thành kiến trong lãnh vực ấy không?”
Thật là dễ dựa vào một thẩm quyền nào đó, nhất là khi thẩm quyền ấy đã chết rồi! Chẳng ai muốn đặt vấn đề tin cậy một người nào đó từng sống và đã chết trong một thời đại nào đó trước đây, mà tên tuổi có thể tiêu biểu cho quyền lãnh đạo vững chắc hay sự tận hiến trong quá khứ. Nhưng phải nhớ rằng thiên hạ vốn chỉ là những con người! Chắc chắn rằng các lãnh tụ, các thẩm quyền trong quá khứ cũng từng gặp nhiều vấn đề và thất bại. Chúng ta phải có phán đoán sáng suốt trong việc sử dụng các thẩm quyền.
Một số người trong chúng ta thường lạm dụng việc nêu tên các nhân vật quan trọng. Chúng ta tưởng rằng khi làm như thế thì giá trị của các nhận xét của chúng ta đã được hậu thuẫn. Sự thật có thể là chúng ta khiến thiên hạ ngạc nhiên tự hỏi tại sao chúng ta lại làm như thế. Việc lạm dụng thẩm quyền quá đáng thường trở thành một rào cản nghiêm trọng cho việc giao tiếp.
Bạn tự quyết vấn đề.
Nói đơn giản, điều này có nghĩa là chúng ta khẳng định đúng, sai mà không đưa ra chứng cứ. Các cấp lãnh đạo (nhiều khi vì địa vị của họ) rất thường làm việc này vì họ vốn có quyền.
Có khi chúng ta tự quyết các vấn đề bằng cách lý luận vòng quanh. Một thí dụ cho lối lý luận này là lý luận bênh vực thuyết tiến hóa. Một người có thể hỏi: “Làm thế nào chúng ta biết được các hóa thạch trong một địa tầng cá biệt nào đó được bao nhiêu tuổi?” Câu trả lời có thể là: “Căn cứ vào địa tầng mà chúng nằm trong đó”. Tiếp đó người ấy có thể hỏi bạn: “Nhưng làm thế nào để biết tuổi của địa tầng ấy?” Trả lời: “Căn cứ vào các hóa thạch xuất hiện trong đó”. Rõ ràng đây là một cách “lý luận vòng quanh”.
Vấn đề thường gặp là chúng ta cho rằng chân lý của một lời công bố là đúng vì dường như “mọi người” đều biết, hay ít ra cũng đều chấp nhận (vì một lý do này hoặc lý do khác). Đôi khi chúng ta sử dụng các từ ngữ có tính cách tình cảm trong các câu nói của mình để nhấn mạnh luận điểm của mình, tuy chúng ta chẳng có chứng cứ nào cả về những gì mình nói - những câu như: “Tôi thật hết lòng tin điều này”. Bạn tin điều gì đó cách mạnh mẽ như vậy là việc đáng khen, nhưng bạn vẫn có thể bị sai lầm!. Phải chắc chắn là các sự kiện đều rõ ràng.
Tất cả các trở ngại cho việc truyền thông này là từng trải của những người đã cùng làm việc với nhau ngày này sang ngày khác. Nó sẽ giúp ích cho các mối liên hệ của bạn với tha nhân khi bạn nhận ra được chúng là gì, và học tập để tránh né chúng.
Tại Sao Người Ta Nghe Bạn
Bàn thảo về các vấn đề là một việc, còn giải pháp cho chúng lại là một việc khác hẳn! Có loại đức tính nào khiến tha nhân chịu lắng nghe điều bạn truyền đạt cho họ? Theo kinh nghiệm bản thân, có ít nhất năm đức tính chủ yếu cần thiết cho việc giao tiếp có hiệu quả.
Bạn luôn luôn chân thành.
Bạn phải thành thật và phải luôn luôn nói thật. Nhiều khi nói hết ra tất cả những gì ta biết là không thích hợp và không cần thiết, nhưng chúng ta chẳng bao giờ được nói dối. Có khi ta phải nói: “Tôi xin lỗi, nhưng bây giờ thì tôi chưa có thể tiết lộ với các bạn thông tin này”. Khi có người thiếu thành thật thì sự tương thông tương giao bị cắt đứt.
ChCn 14:25 chép: “Kẻ làm chứng chân thật giải cứu linh hồn người ta; song kẻ nói lời dối gây sự hình phạt”. Câu 5 cùng chương sách ấy nêu rõ: “Người chứng trung thành không hề nói dối, còn kẻ làm chứng gian buông lời dối trá”. 12:19 thêm: “Môi chân thật được bền đỗ đời đời; song lưỡi dối trá chỉ còn một lúc mà thôi”.
Một bà nọ tiết lộ với tôi những khó khăn mà bà và chồng bà đang gặp trong việc giao tiếp với nhau. Mọi sự đã bắt đầu khi bà biết rằng ông ta đã nói dối bà về một việc gì đó. Bà ta không còn tin chồng mình nữa. Lời thú nhận của ông ta với bà là không đầy đủ, cho nên, một lần nữa, bà ta không chịu tin chồng mình. Bà ta không còn muốn nghe ông. Dù trong trường hợp nào đi nữa bà vẫn thấy thật khó nói chuyện với ông. Việc ông ta thiếu thành thật đã đưa ông ta tới chỗ không còn khả năng giao tiếp có hiệu quả.
Sự giao tiếp để tạo cảm thông đặt cơ sở trên khả năng biết lắng nghe . Nếu thiên hạ không tin là bạn chịu lắng nghe họ , thì dưới mắt họ quyền lãnh đạo của bạn đã bị suy giảm .
Bạn tôn trọng những lời tâm sự thầm kín.
Các thông tin được chia sẻ do lòng tin cậy cần phải được giữ kín. Quyền lãnh đạo của bạn sẽ bị suy giảm dưới mắt tha nhân khi bạn phạm lỗi ngồi lê đôi mách. ChCn 11:13 chép: “Kẻ đi thèo lẻo tỏ ra điều kín đáo, còn ai có lòng trung tín giữ kín công việc”. 17:9 thêm: “Kẻ nào lấp giấu tội lỗi tìm cầu điều tình ái, còn ai nhắc lập lại điều gì chia rẽ bậu bạn thiết cốt”.
Nhưng bạn xử sự thế nào trong trường hợp có người xin bạn giữ kín tuyệt đối một điều và không tiết lộ cho bất kỳ một ai khác? Trước hết, đừng hứa hẹn như thế, trừ khi bạn có ý định giữ kín điều đó. Trong một số trường hợp khác, tốt hơn bạn nên nói: “Tôi sẽ cố gắng hết sức để giữ kín việc đó, nhưng tôi phải được nghe trước đã, rồi mới có thể quyết định xem có ai khác cần phải biết việc ấy hay không. Tôi hứa thông báo cho ông biết nếu có một ai đó cần phải biết điều này”. Điều này rất quan trọng trong công tác tư vấn. Điều được tiết lộ cần phải được nói cho phía bên kia biết nếu nó có liên hệ với phía bên đó, và điều cần thiết là phải có việc hòa giải.
Thứ hai, bạn phải quyết định xem điều mà một người sắp tiết lộ với bạn đó có phải là một chuyện ngồi lê đôi mách hay không. Chẳng những bản thân chúng ta không nên ngồi lê đôi mách, mà chúng ta còn không nên tập thói quen nghe một người hay ngồi lê đôi mách nữa. Phải cẩn thận trong những gì bạn chia sẻ với người khác.
Bạn là người cởi mở.
Nếu thiên hạ chịu đáp lại với chúng ta trong việc giao tiếp cá nhân, họ phải thấy chúng ta có thái độ cởi mở, cho phép họ chia sẻ với chúng ta mà khỏi sợ điều chúng ta có thể suy nghĩ, nói hay làm. Nhiều thuộc cấp sẽ không chia sẻ với những người có quyền trên họ, vì tin rằng trong quá trình đó, họ sẽ phải chịu thiệt thòi.
Có một người trong ban nhân viên của chúng tôi tham gia một việc mà đúng ra ông ta phải báo cho tôi biết. Ông ta giữ kín không cho tôi hay một thời gian, cho đến khi có một người khác nói cho tôi biết. Khi tôi hỏi ông ta về việc ấy, ông ta bảo rằng sở dĩ ông ta không muốn nói cho tôi biết vì nghĩ rằng việc ấy sẽ ảnh hưởng đến việc làm của ông ta. Bây giờ thì việc đó có thể trở thành vấn đề của ông ta cũng như là của chính tôi. Nó nhắc nhở tôi về tầm quan trọng của thái độ cởi mở. Tôi phải có thái độ cởi mở đủ với các thành viên trong ban nhân viên, sao cho họ có thể cảm thấy mình được tự do thảo luận các vấn đềà với tôi mà khỏi phải e sợ gì cả.
Sự giao tiếp có hiệu quả được đặt cơ sở trên khả năng chịu lắng nghe. Nếu thiên hạ không tin là bạn chịu nghe họ, quyền lãnh đạo của bạn sẽ bị giảm sút dưới mắt họ. Một phần trên con đường theo đó người ta sẽ thẩm định việc đó, là có bao nhiêu ý kiến và gợi ý của họ cuối cùng sẽ được bạn sử dụng. Khi một cấp lãnh đạo chẳng bao giờ sử dụng bất kỳ một sáng kiến hay gợi ý nào của một ai khác đưa ra, hay nếu ông ta chê trách một người khác, thì mọi người sẽ xem cấp lãnh đạo ấy là khép kín, quá tự tin, và tệ hại nhất là tự-cho-mình-là-trung-tâm-vũ-trụ.
Bạn chấp nhận người khác.
Thiên hạ phải biết là bạn vui vẻ chấp nhận họ trọn vẹn và vô điều kiện. Thái độ thiếu chấp nhận của bạn là hiển nhiên khi bạn có lời tỏ ra xem nhẹ người khác, và khi bạn chê bai điều một ai đó đã nói hoặc làm, nhất là khi bạn chẳng có can dự gì vào tình hình ấy. Chúng ta thường chỉ đưa ý kiến khi chẳng ai cần đến nó, hoặc đó là một điều không cần thiết - một cách làm chẳng khôn ngoan chút nào.
Khi bạn tỏ ra thiên vị, thiên hạ sẽ nhận thấy là bạn không chịu tiếp nhận họ. Thượng Đế vẫn xem mọi người chúng ta như nhau, cho nên chúng ta cũng phải xem người khác giống y như thế.
Nhân một lần làm công tác tư vấn, tôi nhận thấy một người hết sức phân vân không chịu thảo luận các vấn đề của anh ta, tuy đó là mục đích nguyên thủy của anh ta khi đến gặp tôi. Anh ta được trưởng dưỡng trong một gia đình mà cha mẹ anh ta chỉ đánh giá anh ta căn cứ vào những gì anh ta đã làm được. Anh ta trở thành kẻ miễn cưỡng, chỉ bất đắc dĩ mới chịu chia sẻ các vấn đề của mình, vì sợ e mọi người không chịu chấp nhận anh ta khi không làm được những gì họ trông mong nơi anh ta. Thật là một niềm vui lớn khi được nói chuyện với anh ta về tình yêu thương vô điều kiện và sự chấp nhận hoàn toàn của Thượng Đế.
Bạn tỏ tình yêu thương.
Tôi sẽ nói nhiều hơn về vấn đề này trong một chương sau. Xin chỉ nói một điều ở điểm này thôi về tình yêu thương và việc giao tiếp: nếu người khác không tin rằng bạn thật lòng yêu thương hay quan tâm đến họ như con người thì sự giao tiếp thật sẽ chẳng có bao nhiêu. Có thể sẽ nói nhiều, nhưng truyền đạt thì rất ít.
Thánh Phao-lô viết: “Dù tôi nói được các ngôn ngữ của loài người và thiên sứ, nhưng không có tình yêu thì tôi cũng chỉ khua chiêng, gióng trống ồn ào” (ICo1Cr 13:1). Tình yêu thương sẽ làm sâu thêm mức độ cảm thông. Tình yêu thương phong phú hóa cách đáp ứng của người nghe. Tình yêu thương khiến những gì họ nói trở thành dịu dàng, ngọt ngào. Chúng ta phải có tình yêu thương trên hết mọi sự.
Sự lãnh đạo phần lớn không phải là tài năng bạn có với tư cách một cá nhân để tự mình làm được nhiều việc lớn, cũng như không phải là khả năng của bạn thúc đẩy những người khác giúp bạn hoàn tất công việc. Nó được đặt trên cơ sở là sự giao tiếp tốt để tạo được cảm thông giữa cá nhân này với cá nhân khác. Bàn bạc với nhiều cá nhân trước khi đưa ra các quyết định quan trọng chẳng những là điều được khuyên phải làm, mà còn là việc cần thiết để có thể lãnh đạo giỏi. Đừng đẩy việc cho người khác mà trước đó không gặp riêng họ để hỏi ý kiến. Xin bạn đừng ngạc nhiên! Chúng ta đã thấy ChCn 15:22 chép rằng: “Đâu không có nghị luận, đó mưu định phải phế; nhưng nhờ có nhiều mưu sĩ, mưu định bèn được thành”. A-men! Xin chúng ta hãy bước vào sự giao tiếp.
BẢNG KIỂM ĐIỂM CỦA CẤP LÃNH ĐẠO
(Có một cách cho điểm các câu hỏi này là từ 1-10. Bạn hãy tự chấm điểm lấy, rồi yêu cầu một người bạn hay bạn đồng nghiệp thân tín chấm điểm cho bạn).
1. Bạn có nói quá nhiều, chọc tức thiên hạ không?
2. Bạn có nói vừa đủ để bảo cho người ta biết phải làm gì, làm như thế nào và khi nào thì phải làm việc ấy, hay không?
3. Bạn có cố ý trổ tài hùng biện (ăn nói văn hoa) vì tưởng rằng làm như thế sẽ gây được ấn tượng trên người khác, hay không?
4. Bạn có đưa ra những nhận định nhằm đánh giá thấp để “hạ bệ” một ai đó, hầu làm gia tăng tầm quan trọng của chính bạn, không?
5. Bạn có vướng vào một vấn đề phóng đại nào, cố gắng tô hồng đánh bóng sự việc để thiên hạ sẽ đáp ứng khá hơn, không?
6. Bạn có quan trọng hóa những chuyện nhỏ nhặt không?
7. Bạn có viện đến thẩm quyền của người khác để khiến người ta tin điều bạn đang nói không ?
8. Bạn có khăng khăng cho rằng những gì mình nói là đúng, mà không cần phải chứng minh, không?
9. Bạn có được mọi người biết là bạn luôn luôn nói thật không?
10. Bạn có gặp rắc rối gì với chuyện ngồi lê đôi mách, hay bạn vẫn được mọi người tin cậy vì biết giữ kín những gì thiên hạ tâm sự với mình?
11. Mọi người có cảm thấy thoải mái bàn bạc với bạn mà không sợ bạn sẽ có thể nghĩ gì, nói gì hay làm gì hay không?
12. Thiên hạ có tin rằng bạn sẵn sàng chấp nhận và yêu thương họ vô điều kiện, và họ chẳng phải làm gì cả để đổi lấy việc ấy, không?
HÀNH ĐỘNG NÓI LỚN HƠN NGÔN TỪ!
Nói thì dễ...còn làm thì lại là chuyện khác! Tuy nhiều nhà lãnh đạo không hiểu sự kiện này, cách nói một điều gì đó có khi cũng quan trọng tương đương với điều được nói ra. Cách sống của một người hổ trợ cho những gì người ấy nói như thế nào là một dấu chỉ rõ ràng cho thấy khả năng đích thực của người ấy trong việc lãnh đạo người khác. Thiên hạ vốn chẳng quá dễ dàng để cho ta lừa phỉnh như ta tưởng. Không phải chỉ vì một người có chức có quyền và được gọi là lãnh đạo, thì điều đó có nghĩa là thiên hạ đều sẽ theo ông ta.
Học Tập Lắng Nghe - Con Đường Gian Nan
Tâm tỏ ra rất tự tin trong cách lãnh đạo của mình. Tổ chức Cơ-đốc giáo của ông ta đã tăng trưởng từ chỗ chỉ có hai cộng tác viên, đến nay đã hơn 20 người. Chúa đã ban phước cho tổ chức ấy là điều hiển nhiên, số tiền lạc quyên được cứ tăng và công tác họ làm vẫn tăng trưởng cả về ảnh hưởng lẫn kết quả. Tuy nhiên, gần đây Tâm nhận thấy có sự không hài lòng ngày càng tăng giữa các nhân viên trong văn phòng của ông. Ông vốn không luôn luôn tỏ ra quan tâm nhiều đối với các nhân viên văn phòng, nhưng luôn cống hiến cho họ khải tượng và thách thức họ.
Rắc rối bắt đầu khi thói quen bất cần chú ý đến các cảm nghĩ của người khác ngày càng được chú ý nhiều hơn, vì bây giờ càng có nhiều Khi thiên hạ tin rằng bạn không toại nguyện hay hài lòng với chức vụ của mình nếu không có các kết quả tức thời , thì quyền lãnh đạo của bạn sẽ suy yếu .
người hơn cùng tham gia công tác chung với nhau. Các cộng tác viên rất khó giải thích điều này cho Tâm, vì ông vừa là sáng lập viên vừa là người lãnh đạo. Ông đòi hỏi rất nhiều ở những người cùng làm việc với mình, nhưng ít khi tỏ ra là mình tán thưởng họ. Ồ, ông rất rộng rãi vào ngày kỷ niệm hằng năm của ban giám đốc nhân lễ Giáng sinh, khi đó có rất nhiều người được nhận phần thưởng. Nhưng công việc văn phòng cứ lập đi lập lại gây nhàm chán, các nhân viên rất ít được chú ý, tán thưởng hay bảo cho biết là họ đang làm việc rất tốt.
Cuối cùng, người thư ký riêng của Tâm quyết định đối chất với ông. Việc này không phải là dễ dàng vì Tâm vốn hay “hù dọa” những người làm việc cho ông và dưới quyền ông. Cô ta bắt đầu bằng câu nói sau đây: “Tôi có làm việc gì cho ông, khiến ông có thể cám ơn vì có một thư ký như tôi không?” Câu hỏi này khiến Tâm vô cùng kinh ngạc, ông hỏi: “Tại sao cô lại nói như thế?”
Cô thư ký bèn nói với Tâm rằng suốt ba năm cô ta làm việc cho ông, ông đã chẳng hề đích thân tỏ ra tán thưởng những gì cô đã làm cho ông. Cô ta nói rõ rằng mình đang làm việc cho Chúa, và cô sẽ tiếp tục bất chấp riêng phần ông có gì thay đổi, nhưng cô ta cảm thấy là ông cần phải biết chẳng những là cô nghĩ gì, mà là toàn thể các nhân viên khác trong văn phòng đã cảm nghĩ thế nào nữa.
May thay cho Tâm, là ông đã chịu lắng nghe, và bầu không khí trong văn phòng tức khắc thay đổi. Hiện nay, ông lập một bảng liệt kê những gì ông tán thưởng và tìm cách khen ngợi từng người một đang có tiếp xúc với ông. Chỉ là một việc đơn giản...nhưng là một cái nhìn xuyên suốt (in-sight) quan trọng.
Người Truyền Đạt Thủ Vai Người Lắng Nghe
Công tác lãnh đạo đòi hỏi khả năng giao tiếp tốt, mà việc giao tiếp tốt tùy thuộc khả năng biết lắng nghe, cũng như biết tán thưởng, như trong trường hợp của Tâm. Hành động lắng nghe người khác là một phần của việc giao tiếp với họ. Rồi đến lượt nó, thái độ sẵn sàng lắng nghe vốn bắt nguồn từ nhiều việc:
1. Thái độ muốn lắng nghe.
2. Nội dung sắp được truyền đạt.
3. Tài năng của người truyền đạt.
4. Các thái độ của người truyền đạt.
5. Sự tôn trọng và tán thưởng của người nghe đối với người truyền đạt.
Khiến người khác chịu lắng nghe tùy thuộc cách cư xử của người truyền đạt nhiều hơn điều mà phần lớn những người truyền đạt chịu thừa nhận. Một đề tài nào đó có thể là rất hấp dẫn và lý thú cho người nghe, nhưng lại được tiếp thu lạnh nhạt là vì các thái độ, cá tính hay cách cư xử trong quá khứ của người truyền đạt.
Các Vấn Đề Của Cơ-Đốc Nhân Đối Với Quyền Lãnh Đạo
Phần lớn các tổ chức Cơ-đốc giáo nhận thức được rằng cách đối xử với các Cơ-đốc nhân khác với sinh hoạt của ngoài đời. Do mối liên hệ của chúng ta với Chúa Cứu Thế Giê-xu, chúng ta đều là anh chị em với nhau trong Chúa, và chúng ta có trách nhiệm nặng nề đối với nhau vì lý do ấy.
Về một số phương diện, các Cơ-đốc nhân phản ứng khác với người không tin Chúa, tuy có một số nguyên tắc căn bản về giao tiếp vẫn ảnh hưởng đến cả hai nhóm người này. Các Cơ-đốc nhân biết rõ những gì Thánh Kinh dạy về thái độ và nếp sống, sẽ có xu hướng đánh giá các vấn đề ấy cao hơn các tài năng và kỹ năng của người truyền đạt. Với các Cơ-đốc nhân, lẽ dĩ nhiên là hành động nói lớn hơn ngôn từ!
Muốn biết các hành động và thái độ của chúng ta ảnh hưởng đến việc giao tiếp của chúng ta với tha nhân như thế nào, điều quan trọng là phải thấy cách các Cơ-đốc nhân phản ứng lại với cách ăn ở cư xử mà họ thấy nơi một nhà lãnh đạo. Về mặt tiêu cực, nó giúp ích để phân tích điều mà các Cơ-đốc nhân không thích trong cách ăn ở cư xử của một nhà lãnh đạo. Một cách ăn ở cư xử như thế có thể gây tai hại nghiêm trọng cho cách mà quyền lãnh đạo của chúng ta được tri nhận và tiếp nhận.
Hi sinh cái trường tồn cho cái cận tiếp
Các tín đồ thường tin rằng người lãnh đạo muốn có được sự thành công ngay tức khắc mà không chịu chờ đợi nó, theo kế hoạch và cách phân định thời gian của Thượng Đế. Có một điều vô cùng tai hại đã len lỏi xâm nhập các Hội thánh và tổ chức Cơ-đốc giáo là tâm lý “làm giàu mau”. Thời gian trung bình của một vị mục sư hành chức trong một chi hội địa phương gợi ý rằng trừ khi có sự thay đổi, tiến triển hay tăng trưởng nhanh chóng xảy ra, bằng không chúng ta sẽ tiếp tục chuyển đến “những đồng cỏ xanh hơn”. Sứ đồ Phao-lô đã viết mấy dòng này cho vị mục sư trẻ tuổi Ti-mô-thê:
“Hãy chăm chỉ đọc sách, khuyên bảo, dạy dỗ, cho đến chừng ta đến. Đừng bỏ quên ơn ban trong lòng con, là ơn bởi lời tiên tri, nhơn hội trưởng lão đặt tay mà đã ban cho con vậy. Hãy săn sóc chuyên lo những việc đó, hầu cho thiên hạ thấy sự tấn tới của con. Hãy giữ chính mình con và sự dạy dỗ của con, phải bền đỗ trong mọi sự đó, vì làm như vậy thì con và kẻ nghe con sẽ được cứu” (ITi1Tm 4:13-16).
Lời khuyên “cứ chuyên tâm thực hành các nguyên tắc ấy” ngụ ý chú trọng các kết quả lâu dài về sau chứ không phải chỉ quan tâm vào những kết quả không lâu bền. Trong bức thư sau đó gởi cho Ti-mô-thê, ông viết:
“Nhưng con, phải có tiết độ trong mọi sự, hãy chịu cực khổ, làm việc của người giảng Tin Lành, mọi phận sự về chức vụ con phải làm cho đầy đủ. Về phần ta, ta đang bị đổ ra làm lễ quán, kỳ qua đời của ta gần rồi. Ta đã đánh trận tốt lành, đã xong sự chạy, đã giữ được đức tin. Hiện nay mão triều thiên của sự công bình đã để dành cho ta; Chúa là quan án công bình, sẽ ban mão ấy cho ta trong ngày đó, không những cho ta mà thôi, nhưng cũng cho mọi kẻ yêu mến sự hiện đến của Ngài” (IITi 2Tm 4:5-8).
Câu “làm tròn nhiệm vụ của đầy tớ Chúa” của Phao-lô đỏi hỏi một mối quan tâm sâu xa đối với các kết quả lâu dài, chứ không phải là những kết quả ngắn hạn. Phao-lô nói: “Ta đã...chạy xong cuộc đua”. Ông đã hoàn tất điều mà Thượng Đế suy nghĩ cho đời sống và chức vụ của ông khi Ngài cứu rỗi ông.
Khi người khác tin rằng bạn không toại nguyện hay hài lòng với chức vụ của mình nếu không có các kết quả tức thời, thì quyền lãnh đạo của bạn sẽ suy yếu. Các cấp lãnh đạo cần có mặt tại chỗ, trung tín hoàn thành các trách nhiệm của mình, cả khi mọi việc chẳng đem lại kết quả gì sau một thời gian được bắt đầu, hoặc theo như cách họ mong là nó sẽ có kết quả.
Người ta không thể đào tạo được các môn đệ tài ba chỉ trong vòng vài tháng...mà cần phải có nhiều năm. Nguyên nhân khiến chúng ta đòi hỏi các kết quả chóng vánh, là các biến chuyển xảy ra nhanh chóng. Chúng ta tỏ ra không vui đối với những chức vụ và phương pháp không có kết quả theo như cách chúng ta tưởng là phải xảy ra.
Vấn đề là gì ? Vấn đề của người lãnh đạo khiến người ấy hi sinh các kết quả trường tồn, dài hạn để đổi lấy các kết quả tức thì là vấn đề thiếu kiên nhẫn. Điều này có thể tự phản ánh trong cách phục vụ tín đồ hay trong cách ta đánh giá các thống kê của chức vụ.
Thánh Gia-cơ giúp chúng ta hiểu rõ sự cần thiết phải biết kiên trì nhẫn nhục của chúng ta:
“Hỡi anh em, hãy coi sự thử thách trăm bề thoạt đến cho anh em như là điều vui mừng trọn vẹn, vì biết rằng sự thử thách đức tin anh em sanh ra sự nhịn nhục. Nhưng sự nhịn nhục phải làm trọn việc nó, hầu cho chính mình anh em cũng trọn lành toàn vẹn, không thiếu thốn chút nào” (Gia Gc 1:2-4)
Một lần nữa, Gia-cơ khuyên dạy chúng ta kiên trì nhẫn nhục:
“Hỡi anh em, vậy hãy nhịn nhục cho tới kỳ Chúa đến. Hãy xem kẻ làm ruộng: họ bền lòng chờ đợi sản vật quí báu dưới đất cho đến chừng nào đã được mưa đầu mùa và cuối mùa. Anh em cũng vậy, hãy nhịn nhục và bền lòng, vì kỳ Chúa đến gần rồi. Hỡi anh em, chớ oán trách nhau, hầu cho khỏi bị xét đoán; kìa, Đấng xét đoán đứng trước cửa. Hỡi anh em, hãy lấy các đấng tiên tri đã nhơn danh Chúa mà nói, làm mẫu mực về sự chịu khổ và nhịn nhục cho mình. Anh em biết rằng những kẻ nhịn nhục chịu khổ thì chúng ta xưng là có phước. Anh em đã nghe nói về sự nhịn nhục của Gióp, và thấy cái kết cuộc mà Chúa ban cho người, vì Chúa đầy lòng thương xót và nhân từ” (5:7-11).
Các cấp lãnh đạo cần kiên trì nhẫn nhục. Chúng ta thường phải kiên trì chịu đựng những trường hợp chịu khổ nhọc mà chẳng thấy kết quả gì, phải chờ đợi các tín đồ biết chiến đấu để cố gắng đem những điều chúng ta truyền dạy họ ra thực hành. Họ không luôn thấy được những gì bạn thấy, không hiểu được như bạn hiểu. Họ sẽ không luôn luôn làm theo những gì bạn muốn họ làm, hay đạt được những kết quả mà bạn tin là họ đã có thể đạt được rồi.
Nếu bạn muốn các tín đồ noi theo sự lãnh đạo của mình, thì xin đừng hi sinh các mục tiêu, các kết quả trường tồn, dài hạn, cho các mục tiêu, các kết quả tức thì.
Thay sự bận rộn bằng sự tăng trưởng thuộc linh.
Sự sinh hoạt và bận rộn suông không thể đem thay thế cho sự tăng trưởng thuộc linh đích thực. Khi người khác tin rằng chúng ta đang chú trọng vào những gì bề ngoài thay vì bề trong, họ sẽ phân vân trong việc đáp ứng sự lãnh đạo của chúng ta.
Các Cơ-đốc nhân vốn biết rằng “con người bề ngoài (vốn) hư nát” nhưng “con người bề trong (thì) cứ ngày càng đổi mới” (IICo 2Cr 4:16). Và trong tiến trình tuyển chọn, dẫn đến việc Thượng Đế chọn chàng thiếu niên chăn chiên Đa-vít làm vua dân Y-sơ-ra-ên, Sa-mu-ên đã được dạy bảo: “Đức Giê-hô-va chẳng xem điều gì loài người xem, loài người xem bề ngoài, nhưng Đức Giê-hô-va nhìn thấy trong lòng” (ISa1Sm 16:7).
Sự bận rộn có thể đưa tới tình trạng khô cằn thuộc linh. Làm quá nhiều việc không nhất thiết dẫn tới sự tăng trưởng thuộc linh quan trọng. Trong LuLc 10:38-42, chúng ta đọc thấy một phần phân tích thật sáng suốt vấn đề này:
“Khi Đức Chúa Jêsus cùng môn đồ đi đường, đến một làng kia, có người đàn bà, tên là Ma-thê, rước Ngài vào nhà mình. Người có một em gái, tên là Ma-ri, ngồi dưới chân Chúa mà nghe lời Ngài. Vả, Ma-thê mảng lo về việc vặt, đến thưa Đức Chúa Jêsus rằng: Lạy Chúa, em tôi để một mình tôi hầu việc, Chúa há không nghĩ đến sao? Xin biểu nó giúp tôi. Chúa đáp rằng: Hỡi Ma-thê, Ma-thê, ngươi chịu khó và bối rối về nhiều việc, nhưng có một việc cần mà thôi. Ma-ri đã lựa phần tốt, là phần không có ai cất lấy được” (10:38-42).
Về sau, trong GiGa 12:2, người ta lại dọn một bữa ăn khác tại Bê-tha-ni, và Ma-thê lại là người phục vụ. Nhưng lần này, đã không có tị nạnh, nên cũng chẳng có lời trách yêu của Chúa. Vấn đề không do việc phục vụ, mà do thái độ của chúng ta đối với hoạt động ấy khi so sánh với sự tăng trưởng thuộc linh thật. Những người đang tăng trưởng trong Chúa không bao giờ thắc mắc như Ma-thê đã thắc mắc.
Phần lớn những gì chúng ta gọi là “công việc Chúa”, “công việc Hội Thánh” nằm trong phạm vi các hoạt động bề ngoài trông có vẻ bận rộn này. Nhiều tín đố có thể “phục vụ” suốt nhiều năm mà không hề dành riêng thì giờ ở riêng với Chúa để học tập dưới chân Ngài. Việc chúng ta phục vụ Chúa sẽ trở thành lý thú và có kết quả hơn khi bản thân chúng ta đang tăng trưởng trong mối liên hệ giữa chúng ta với Chúa Cứu Thế Giê-xu.
Vấn đề là gì ? Vấn để ở đây là chưa trưởng thành, tuy nhiều cấp lãnh đạo cảm thấy khó chấp nhận như thế. Tình trạng chưa trưởng thành liên quan đến cách người lãnh đạo đánh giá điều gì là thật sự quan trọng. Đã đành là mọi việc đều cần phải được hoàn tất, nhưng không phải là bất chấp sự tăng trưởng của một người nào đó trong Chúa.
Một bà nọ vốn rất bận rộn làm nhiều việc cho Hội Thánh và cho số tài sản của Hội thánh, cảm thấy mình rất dễ dàng tìm lời biện minh và bào chữa cho việc mình vắng mặt trong những buổi nhóm lại, viện lẽ mình luôn luôn dành thì giờ làm nhiều việc cần phải làm. Khi được hỏi về sự cần thiết phải có sự tăng trưởng cá nhân trong Chúa và bằng cách học hỏi nghiên cứu Lời Ngài, bà đã tìm cách chống chế và tỏ ra bực bội. Bà chẳng hề tham gia các lớp học Thánh Kinh, các lớp học Trường Chúa Nhật hay các buổi nhóm lại của Hội Thánh và chỉ đơn giản trả lời: “Tôi không có thì giờ cho mọi việc đó”.
Tìm cầu lời ca tụng của người khác hơn là lời khen ngợi của Thượng Đế.
ChCn 27:2 chép: “Hãy để cho kẻ khác khen ngợi con, miệng con chẳng nên làm, để cho một người ngoài tán mỹ con, môi con đừng làm”. Thế giới Cơ-đốc giáo của chúng ta đang đầy dẫy những kẻ tự đề cao. Nhiều sách mỏng, sách dày, tạp chí, ...cao rao các tài năng, đức hạnh và công trình của nhiều nhân vật tôn giáo, tất cả đều nhằm gây ảnh hưởng cho người khác đáp ứng và cộng tác. Thật là một việc làm nguy hiểm! Điều này đặc biệt nghiệm đúng khi ấn bản được in trong những quảng cáo ấy lại do chính những người được đề cao đó thảo hoạch!
Nhiều cấp lãnh đạo tỏ ra quá thận trọng trong những gì họ nói hay làm vì không muốn làm mất lòng những người ủng hộ họ hay số người có thế lực có thể tiếp tay đẩy mạnh công tác hoặc chức vụ của họ. Dường như chúng ta đang bị sự tán thưởng của loài người, chứ không phải là sự tán thưởng của Thượng Đế ám ảnh. Chúng ta đang nỗ lực cao để làm cho thiên hạ mến chuộng mình, bất chấp những gì Chúa Giê-xu từng phán dạy:
“Ví bằng người đời ghét các ngươi, thì hãy biết rằng họ đã ghét ta trước các ngươi. Nếu các ngươi thuộc về thế gian, thì người đời sẽ yêu kẻ thuộc về mình, nhưng vì các ngươi không thuộc về thế gian và ta đã lựa chọn các ngươi giữa thế gian, bởi cớ đó người đời ghét các ngươi. Hãy nhớ lời ta đã nói cùng các ngươi: Đầy tớ chẳng lớn hơn chủ mình. Nếu họ đã bắt bớ ta, ắt cũng bắt bớ các ngươi, bằng họ đã giữ lời ta, ắt cũng giữ lời các ngươi. Nhưng vì danh ta họ sẽ lấy mọi điều đó đãi các ngươi, bởi họ không biết Đấng đã sai ta đến” (GiGa 15:18-21).
Các cấp lãnh đạo tôn giáo đúng là phải chờ đợi sự chỉ trích và đố kỵ của thế gian. Sửa đổi các tín ngưỡng của chúng ta để làm đẹp lòng người đời là cách làm chắc chắn nhất để đánh mất quyền lãnh đạo thuộc linh mà Thượng Đế đang sử dụng và ban quyền năng cho. IITi 2Tm 2:15 chép: “Con hãy cố gắng phục vụ để Thượng Đế hài lòng, như một công nhân gương mẫu ngay thẳng công bố chân lý”.
Chúng ta cần sự tán thưởng của Thượng Đế, chứ không cần sự tán thưởng của loài người. Muốn được Thượng Đế khen ngợi, tán thưởng, chúng ta phải làm việc chăm chỉ, khổ nhọc, truyền giảng Thánh Kinh là Lời Thượng Đế thật chính xác. Thánh Phao-lô cảnh cáo về một thời kỳ hầu đến khi người ta sẽ xem lời khen ngợi tán thưởng của loài người là quan trọng hơn lời khen ngợi tán thưởng của Thượng Đế:
“Ta ở trước mặt Đức Chúa Trời và trước mặt Đức Chúa Jesus Christ là Đấng sẽ đoán xét kẻ sống và kẻ chết, nhơn sự đến của Ngài và nước Ngài mà răn bảo con rằng: hãy giảng đạo, cố khuyên, bất luận gặp thời hay không gặp thời, hãy đem lòng rất nhịn nhục mà bẻ trách, nài khuyên, sửa trị, cứ dạy dỗ chẳng thôi. Vì sẽ có một thời kia, người ta không chịu nghe đạo lành, nhưng vì họ ham nghe những lời êm tai, theo tư dục mà nhóm họp các giáo sư xung quanh mình, bịt tai không nghe lẽ thật, mà xây hướng về chuyện huyễn” (4:1-4)
Phần lớn lời truyền dạy của nền văn hóa này chú trọng vào việc cố gắng làm đẹp lòng người ta, chứ không phải làm đẹp lòng Thượng Đế. Chúng ta tránh né các vấn đề tiêu cực, chỉ nói rất ít về sự ăn năn và các hậu quả. Hội thánh rất ít sửa trị những hành vi tội lỗi mang tánh chất thói quen và lại càng không sẵn sàng đối đầu với kẻ làm sai trái.
Khi vị mục sư của một chi hội thuộc miền Tây Bắc cố thuyết phục các tín đồ của mình tham gia một nỗ lực có phạm vi cả thành phố, lời thông báo của ông chỉ như nước đổ lá khoai. Ông không tài nào hiểu nổi thái độ thờ ơ miễn cưỡng của hội chúng của mình. Dường như vị mục sư đang tìm cách làm rạng danh mình. Ông đã đọc quá nhiều những tin tức cắt ra từ báo chí, và các tín đồ của ông đã quá mệt mỏi về việc ấy rồi . Họ cảm thấy đã bị lợi dụng và lạm dụng, cho nên bây giờ biểu lộ thái độ không tán thành của họ.
Theo như họ nghĩ, thì nỗ lực có phạm vi thành phố này chỉ nhằm một chủ đích - làm thăng tiến thêm công danh của vị mục sư của họ. Ông đã không thành công trong công tác truyền đạt của mình. Cho dù ông cố nói thế nào đi chăng nữa, người khác lại nhìn thấy sự việc khác hẳn. Họ đã quá mệt mỏi với cách ông vẫn thường xuyên tự đề cao và mưu cầu được địa vị cao cũng như được tha nhân khen ngợi ca tụng. Các giải thưởng và thành tích của ông không còn gây được ấn tượng trên những con người mà ông phục vụ hằng tuần.
Chẳng có gì để ngạc nhiên khi được biết chẳng bao lâu sau đó, ông đã phải rời bỏ nhiệm sở ấy. Nếu ông không từ chức, hội chúng chắc cũng yêu cầu ông từ chức vì đó chỉ là một vấn đề thời gian mà thôi.
Vấn đề là gì ? Vấn đề trong đời sống của một nhà lãnh đạo tìm sự tán đồng và ca ngợi của con người thay vì sự chuẩn nhận của Thượng Đế là sự thờ ơ, lãnh đạm - thất bại không nhìn thấy tầm quan trọng của các giá trị và phần thưởng vĩnh cửu thay vì những vinh dự và lời ca ngợi của đời này. IICo 2Cr 4:17-18 chép thật rõ ràng:
“Vì sự hoạn nạn nhẹ và tạm của chúng ta sanh cho chúng ta sự vinh hiển cao trọng đời đời, vô lượng vô biên, bởi chúng ta chẳng chăm sự thấy được, nhưng chăm sự không thấy được; vì những sự thấy được chỉ là tạm thời, mà sự không thấy được là đời đời không cùng vậy”.
Phục vụ vì lợi ích cá nhân.
Quyền lãnh đạo trong sự phục vụ là nhằm mục đích tôn vinh Thượng Đế, chứ không phải vì lợi ích cá nhân. Thánh Phao-lô răn bảo mọi người chúng ta: “Làm mọi việc, anh em phải nhắm mục đích tôn vinh Thượng Đế, dù ăn uống hay bất cứ việc gì khác” (ICo1Cr 10:31), Thi Tv 115:1 chép: “Sự vinh hiển chớ về chúng tôi, chớ về chúng tôi, bèn là đáng về danh Ngài”. Vinh quang của Thượng Đế là động cơ thúc đẩy cao cả nhất trong việc phục vụ của mỗi Cơ-đốc nhân.
Khi các nhà lãnh đạo thuộc linh nài gọi dân Chúa hãy dâng hiến cách rời rộng cho các lãnh vực phục vụ khác nhau và công tác truyền giáo, rồi lại tiêu pha phung phí và được lương cao bổng hậu với nhiều “phụ phí” khổng lồ và lợi ích cá nhân, thì chẳng có gì để lấy làm lạ khi thiên hạ mất lòng tin, giảm trợ cấp hoặc chấm dứt hẳn...mà họ làm như thế là phải lẽ thôi!
Sau một đại hội về truyền thanh tại British Columbia mấy năm trước đây, một doanh nhân ăn mặc đứng đắn đến gần và hỏi tôi: “Trong thời gian ở đây, ông nghỉ tại khách sạn nào?”. Tôi mau mắn trả lời cho ông ta. Rồi ông ta hỏi tôi phải trả bao nhiêu tiền vé máy bay, và có đi hạng nhất không? Tôi nói vì chiều cao của tôi, tôi thích đi hạng nhất; nhưng vì cớ túi tiền, tôi chọn đi xe buýt.
Ông ta rất ngạc nhiên khi biết các chi phí của tôi rất ít, và lấy làm lạ hỏi rằng chẳng hay tôi có nói thật với ông ta hay không. Tôi nhấn mạnh là có, và bảo rằng tôi sẽ rất vui nếu ông ta kiểm chứng lại bất kỳ một điểm nào cũng như mọi thông tin về việc đó. Và ông ta bắt đầu kể lại cho tôi về một công tác phục vụ Chúa khác mà ông ta đã tài trợ cho đến khi ông ta biết được nhiều khoản phung phí trong chức vụ ấy khi tổ chức những buổi họp mặt trong nhiều thành phố khác nhau.
Con người hào hiệp này từng tài trợ nhiều khoản tiền lớn cho các tổ chức phục vụ Cơ-đốc giáo, nhưng đã ngày càng quan tâm nhiều hơn đến cách mà người ta sử dụng tài chánh. Ông ta kể lại với tôi về mức lương của các nhà lãnh đạo chủ chốt của các tổ chức ông ta đang tài trợ và hỏi về mức lương của riêng tôi. Ông ta vô cùng kinh ngạc và được khích lệ.
Sự việc này đã được lặp đi lặp lại nhiều lần trước hiện diện của tôi trong mấy năm vừa qua. Những người thuộc về Chúa cứ ngày càng quan tâm nhiều hơn đến các lợi ích cá nhân mà nhiều nhà lãnh đạo đang tích lũy trong công tác phục vụ Chúa của họ. Thánh Phao-lô đã viết trong ITi1Tm 6:6-11
“Vả sự tin kính cùng sự thỏa lòng, ấy là một lợi lớn. Vì chúng ta ra đời chẳng hề đem gì theo, chúng ta qua đời cũng chẳng đem gì đi được. Như vậy, miễn là đủ ăn đủ mặc thì phải thỏa lòng, còn như kẻ muốn nên giàu có, ắt sa vào sự cám dỗ, mắc bẫy dò, ngã trong nhiều sự tham muốn vô lý thiệt hại kia, là sự làm đắm người ta vào sự hủy diệt hư mất. Bởi chưng sự tham tiền bạc là cội rễ mọi điều ác, có kẻ vì đeo đuổi nó mà bội đạo, chuốc lấy nhiều điều đau đớn. Nhưng hỡi con, là người của Đức Chúa Trời, hãy tránh những sự đó đi, mà tìm điều công bình, tin kính, đức tin, yêu thương, nhịn nhục, mềm mại”.
Nhiều nhà lãnh đạo đã vì tham tiền mà hủy hoại cả chức vụ lẫn lời làm chứng của họ. Tham vọng muốn trở thành giàu có và nhiều thế lực nhờ giàu có sẽ đưa chúng ta vào nhiều chuyện và lạc xa vai trò lãnh đạo thuộc linh chân chính.
Một nhà lãnh đạo có thể tạo động cơ thúc đẩy để một nhóm Cơ-đốc nhân dâng tiền cho một mục tiêu cần thiết, nhưng nếu nhóm người này nhận thấy vị lãnh đạo ấy sẽ được thu lợi cá nhân rất lớn từ dự án đó, thì lời kêu gọi của ông ta sẽ không kiến hiệu. Hành động nói lớn tiếng hơn ngôn từ. Nếu vị lãnh đạo đó không chịu hi sinh, thì làm thế nào ông ta lại trông mong cho người khác hi sinh?
Vấn đề là gì ? Vấn đề ở đây là thái độ không thành thật - tình trạng thiếu động cơ thúc đẩy thích đáng. Trong thí dụ của Phao-lô ở Phi Pl 4:11-13 cho chúng ta một tấm gương vĩ đại để noi theo:
“Không phải là tôi muốn nói đến sự cần dùng của tôi, vì tôi đã tập hễ gặp cảnh ngộ nào, cũng thỏa lòng ở vậy. Tôi biết chịu nghèo hèn, cũng biết được dư dật. Trong mọi sự và mọi nơi, tôi đã tập cả, dầu no hay đói, dầu dư hay thiếu cũng được. Tôi làm được mọi sự nhờ Đấng ban thêm sức cho tôi”.
Nếu chúng ta muốn trở thành các lãnh tụ thuộc linh như Thượng Đế muốn chúng ta phải trở thành, thì dưới đây là những cái nhìn xuyên suốt thật kỳ diệu, xin tóm tắt ngắn gọn:
1. Nên thoả lòng với những gì mình có hoặc không có.
2. Tin cậy Thượng Đế sẽ cung cấp các nhu cầu của bạn
3. Phải biết ơn những người giúp đỡ mình.
4. Dành mọi vinh quang cho Thượng Đế
Khi một cấp lãnh đạo mưu tìm lợi ích cá nhân thay vì dành vinh quang cho Thượng Đế, người khác sẽ thôi lắng nghe.
Một thái độ thô lỗ và cay đắng.
Ăn nói cộc cằn và cay đắng với người khác thay vì từ tốn và khả ái, có thể phá hại nghiêm trọng công tác lãnh đạo có hiệu quả. Sự kiện hành động nói lớn tiếng hơn lời nói vốn chẳng có ở đâu lại được nghiệm đúng hơn ở đây! Bạn có thể nói đủ thứ điều đúng, điều phải, nhưng nếu thái độ của bạn là sai, thì người khác sẽ khó có thể đáp ứng và thậm chí là không chịu để tai nghe nữa.
Bình rất có lòng với Chúa và công việc Ngài, nhưng gặp phải một vấn đề là thái độ. Anh vốn là con người của đường phố, lớn lên trong một môi trường xấu, rất ít được cha mẹ hoặc gia đình giúp đỡ. Cha mẹ anh đã ly dị nhau hồi anh hãy còn bé, và khi mẹ anh tái giá, anh gặp người cha dượng chẳng tốt đẹp gì. Cha dượng thường đánh đập anh, nên cuối cùng anh đã bỏ nhà đi bụi.
Sau khi anh ăn năn tin theo Chúa Cứu Thế Giê-xu trong năm cuối đại học, Bình cảm thấy mình được kêu gọi vào chức vụ. Bình là người năng nổ, có nhiệt tâm và rất được khen ngợi giữa vòng các giáo sư và sinh viên trong chủng viện anh ta theo học.
Người ta nhanh chóng dành cho Bình một cơ hội rất tốt là giữ chức Mục sư chính của một Hội thánh đang tăng trưởng trong khu vực thành phố lớn, tương tự như khu vực mà anh ta rất từng trải hồi còn nhỏ. Dường như đây là một sự sắp xếp hết sức “ăn khớp”, và những ngày đầu tiên thi hành chức vụ tại chi hội này của Bình rất được phước. Hội thánh tăng trưởng về nhân số và ảnh hưởng, và Bình là một lãnh tụ nói thẳng, nói thật trong cộng đồng của mình vì rất nhiều lý do.
Nhưng các thái độ ứng xử của Bình lại không tốt. Anh thường khăng khăng bênh vực lập trường của mình, anh thường làm mất lòng những người chung quanh, là những người muốn giúp anh thực hiện nhiều việc lớn cho Chúa. Anh ăn nói xẳng xớm, nên mọi người đều e sợ, chẳng bao giờ dám bất đồng ý kiến với anh. Họ biết anh rất có thể cay cú và hay chê bai chỉ trích.
Bình có vẻ là một nhà truyền đạo có tài, nhưng một số cố gắng của anh đã không được vui vẻ tiếp nhận, vì thái độ mà anh phản ảnh. Anh chứng tỏ là có mặc cảm tự tôn và một tinh thần tự phụ, nhất là khi trực diện với những người chưa tin Chúa. Bạn bè là tín hữu cũng nhận thấy như thế nữa. Chức vụ đầy triển vọng của anh bắt đầu bị xấu đi. Anh đổ lỗi cho người khác, nhưng vấn đề là cách anh ăn nói với mọi người.
Thánh Phao-lô đã khuyên người môn đệ trẻ tuổi của ông là Ti-mô-thê như sau:
“Vả, tôi tớ của Chúa không nên ưa sự tranh cạnh; nhưng phải ở tử tế với mọi người, có tài dạy dỗ, nhịn nhục, dùng cách mềm mại mà sửa dạy những kẻ chống trả, mong rằng Đức Chúa Trời ban cho họ sự ăn năn để nhìn biết lẽ thật, và họ tỉnh ngộ mà gỡ mình khỏi lưới ma quỉ, vì đã bị ma quỉ bắt lấy đặng làm theo ý nó” (IITi 2Tm 2:24-26).
Khi có người chống lại bạn thì lẽ tự nhiên là bạn phải trả lời họ, phản bác cả các lý luận của họ nữa. Nhưng thánh Phao-lô khuyên phải từ khước việc cãi vã! Hòa nhã và nhẫn nhục là cần thiết. Một thái độ ôn tồn tử tế không có ý tranh chấp sẽ giúp ích được rất nhiều khi đương đầu với kẻ chống đối.
Trong HeDt 5:1-2 chúng ta đọc thấy về Thầy tế lễ tối cao lý tưởng:
“Phàm thầy tế lễ thượng phẩm, từ trong loài người chọn ra, thì vì loài người lập lên hầu việc Đức Chúa Trời, để dâng lễ vật và hi sinh vì tội lỗi. Người đã bị vây trong sự yếu đuối, nên có thể thương xót những kẻ ngu dốt sai lầm”.
Thượng Đế muốn các nhà lãnh đạo “đối xử cách nhẹ nhàng với những người không hiểu biết và bị hướng dẫn sai lầm” mà không tỏ ra thô bạo và cay cú. Các cấp lãnh đạo được cảnh giác về chính các khuyết nhược điểm của mình. Thánh Phao-lô cũng đưa ra một luận điểm tương tự trong lời chỉ giáo về việc đối xử với một anh em phạm tội: “Thưa anh em thân yêu, nếu có tín hữu nào bị tội lỗi quyến rũ, anh em là người có Thánh Linh hãy lấy tinh thần dịu dàng khiêm tốn dìu dắt người ấy quay lại đường chính đáng. Anh em phải cẩn thận giữ mình để khỏi bị quyến rũ” (GaGl 6:1).
Dịu dàng (nhu mì) là thái độ trái ngược với báo thù. Tinh thần của người tìm cách giúp đỡ một anh em sa ngã là hết sức quan trọng trong diễn tiến phục hồi.
Vấn đề là gì ? Vấn đề là thiếu nhạy cảm đối với các nhu cầu và cảm xúc của người khác. Các nhà lãnh đạo phải chăm sóc những người mà mình có trách nhiệm. Phải thật lòng muốn lãnh đạo và tạo động cơ thúc đẩy họ. Quần chúng sẽ theo các nhà lãnh đạo thuộc linh ý thức được rõ ràng trách nhiệm của mình là phải khai trình trước Thượng Đế về việc mình phải chăm lo săn sóc người khác.
“Hãy vâng lời kẻ dắt dẫn anh em và chịu phục các người ấy - bởi các người ấy tỉnh thức về linh hồn anh em, dường như phải khai trình - hầu cho các người ấy lấy lòng vui mừng mà làm xong chức vụ mình, không phàn nàn chi, vì ấy chẳng phải ích lợi gì cho anh em” (HeDt 13:7).
Nhưng nếu chúng ta không có lời nói hòa nhã tử tế, việc giao tiếp của chúng ta sẽ bị tiếp đón lạnh nhạt. Điều chúng ta nói có thể là phải là đúng, nhưng cách chúng ta nói có thể làm mất lòng thay vì giúp ích.
Bảng Tóm Tắt
Hành Động Nói Lớn Hơn Ngôn Từ
Các vấn đề sau đây ảnh hưởng sâu đậm đến công tác truyền thông của người lãnh đạo thuộc linh.
BẢNG KIỂM ĐIỂM CỦA CẤP LÃNH ĐẠO
1. Đâu là các mục tiêu dài hạn của bạn, và bạn làm thế nào để đạt được chúng?
2. Bạn nêu những tấm gương nào cho người khác về thái độ thiếu kiên trì nhẫn nhục của mình?
3. Bạn mô tả sự tăng trưởng thuộc linh chân chính như thế nào?
4. Bạn có thể loại ra khỏi đời sống mình những hoạt động nào để có thể bước đi thành công hơn với Chúa?
5. Muốn tránh bị chỉ trích, bạn có thể thay đổi gì trong cách tự đề cao hay tự quảng cáo trước mặt tha nhân?
6. Bạn từng giành lấy vinh quang đáng lẽ phải thuộc về Thượng Đế trong chức vụ và cách lãnh đạo của mình như thế nào?
7. Bạn có lợi dụng chức vụ khuyến giục người khác quyên trợ để trục lợi cho cá nhân không? Bạn có đường hướng chỉ đạo nào để giữ mình khỏi các động cơ thúc đẩy sai lầm?
8. Tha nhân có thể mô tả cách bạn nói chuyện với họ như thế nào?
9. Bạn có thể thay đổi những gì để có được thái độ hòa nhã tử tế hơn khi giao tiếp với tha nhân?