100 Bài Học Kinh Thánh
Bởi ALBAN DOUGLAS biên soạn
1. Sự Thực Hữu Của Đức Chúa Trời
2. Thân Vị Của Đức Chúa Trời.
3. Đức Chúa Trời Là Đấng Quân Bình
4. Giáo Lý Ba Ngôi.
5. Các Danh Hiệu, Tình Cha Và Sự Yên Lặng Của Đức Chúa Trời.
6. Sự Kính Sợ Đức Chúa Trời.
7. Các Lời Tiên Tri Và Cuộc Đời Đấng Christ.
8. Sự Giáng Sanh Bởi Nữ Đồng Trinh Của Đấng Christ.
9. Thần Tánh Của Đấng Christ.
10. Mối Liên Hệ Giữa Đức Con Vàø Đức Cha.
11. Nhân Tánh Của Đấng Christ
12. Sự Vô Tội Của Đấng Christ.
13. Bản Tính Của Đấng Christ
14. Những Điều Chúa Jêsus Giảng Dạy
15. Các Mạng Lịnh Của Đấng Christ.
16. Các Phép Lạ Của Chúa Jêsus.
17. Sự Chết Của Chúa Jêsus
18. Sự Phục Sinh Của Chúa Jêsus.
19. Sự Thăng Thiên Của Đấng Christ
20. Công Tác Cầu Thay Của Đấng Christ
21. Sự Tái Lâm Của Đấng Christ
22. Các Kết Quả Của Sự Tái Lâm
23. Thân Vị Của Đức Thánh Linh
24. Thần Tánh Và Các Danh Xưng Của Đức Thánh Linh.
25. Công Tác Của Đức Thánh Linh.
26. Những Tội Lỗi Nghịch Lại Đức Thánh Linh.
27. Đời Sống Đầy Dẫy Đức Thánh Linh
28. Sự Báp-Tem Bằng Đức Thánh Linh
29. Bông Trái Và Các Ân Tứ Của Đức Thánh Linh
30. Các Sự Dạy Dỗ Khác Về Đức Thánh Linh.
31. Sự Linh Cảm Của Kinh Thánh.
32. Kinh Thánh
33. Những Bài Học Khác Về Kinh Thánh
34. Câu Chuyện Sáng Tạo
35. Sự Tiến Hóa
36. Sự Sa Ngã Của Loài Người
37. Tội Lỗi
38. Con Người Là Một Hữu Thể Ba Ngôi
39. Các Thiên Sứ
40. Sa-Tan
41. Ma Quỷ
42. Sự Tấn Công Của Sa Tan Chống Người Tín Đồ Cơ Đốc.
43. Sự Xưng Nghĩa.
44. Sự Tái Sanh
45. Sự Nhận Làm Con
46. Đức Tin
47. Sự Ăn Năn
48. Sự Tha Thứ Tội
49. Điều Gì Xảy Ra Khi Một Người Tin Chúa.
50. Sự Nên Thánh
51. Sự Biết Chắc Được Cứu Rỗi
52. Xưng Nhận Danh Chúa
53. Chinh Phục Linh Hồn
54. Sự Dâng Mình Cho Chúa.
55. Tìm Biết Ý Chúa
56. Sự Cầu Nguyện
57. Giờ Tĩnh Nguyện.
58. Đời Sống Đắc Thắng Của Cơ Đốc Nhân.
59. Sự Phân Rẽ
60. Sự Sa Ngã
61. Sự Thờ Phượng
62. Sự Chịu Khổ Của Cơ Đốc Nhân
63. Lễ Báp Tem
64. Lễ Tiệc Thánh
65. Sự Thông Công Cơ Đốc
66. Hội Thánh
67. Sự Khinh Thường Hội Thánh
68. Kỷ Luật Của Hội Thánh
69. Mục Sư
70. Bổn Phận Của Chấp Sự Và Trưởng Lão Hội Thánh.
71. Vai Trò Của Người Tín Đồ Trong Hội Thánh.
72. Sự Phục Hưng
73. Tình Yêu Thương
74. Sự Ngợi Khen
75. Sự Lạc Hiến
76. Sự Chữa Bệnh Thiên Thượng
77. Ngày Chúa Nhật.
78. Hôn Nhân Cơ Đốc
79. Gia Đình Cơ Đốc.
80. Luật Pháp Và Ân Sũng
81. Sự Sống
82. Sự Chết
83. Sư Sống Lại
84. Tòa Án Đấng Christ.
85. Những Việc Phán Xét.
86. Vinh Quang Tương Lai Và Các Phần Thưởng
87. Thiên Đàng
88. Địa Ngục
89. Những Động Cơ Truyền Giáo
90. Thách Thức Của Sứ Mạng Truyền Giáo
91. Lương Tâm
92. Sự Ly Dị
93. Sự Kiêng Aên
94. Án Tử Hình
95. Thỏa Hiệp
96. Kiêng Khem, Không Phải Chừng Mực
LỜI GIỚI THIỆU:
Để bắt đầu nghiên cứu giáo lý Thánh kinh, chúng ta phải bắt đầu với Đức Chúa Trời.
Chúng ta thường xuyên được các nhà vô thần, các nhà hoài nghi, và những người ưa chất vấn hỏi vặn, thách thức chúng ta chứng minh là có một Dức Chúa Trời. Thật khó cho một người thiên nhiên tin vào một điều gì mà người đó không thấy được, không rờ được hoặc không cảm thấy được(Cô-rinh-tô 2:14). Vấn đề cho Cơ Đốc nhân đã được giải quyết với câu đầu trong Kinh Thánh: “Ban đầu Đức Chúa Trời dựng nên trời và đất” (Sáng 1:1).
Kinh thánh không phải là sách giáo khoa chứng minh sự thực hữu của Đức Chúa Trời. Kinh thánh mở đầu với sự kiện là Đức Chúa Trời thực hữu. Các tác giả khác nhau của Kinh thánh không hề có ý chứng minh cho sự kiện nầy, Kinh thánh nói rõ rằng thật là điên rồ khi chối bỏ sự thực hữu của Đức Chúa Trời. Thi Thiên 14:1 “Kẻ ngu dại nói trong lòng rằng: chẳng có Đức Chúa Trời.” Bất cứ ai có trí thông minh bình thường đều phải thừa nhận các bằng cớ về một Đức Chúa Trời hằng sống.
Bằng cớ lớn nhất không nằm trong Kinh Thánh là sự tương giao hằng ngày của chúng ta với Ngài trong sự cầu nguyện. Tôi biết có một Đức Chúa Trời bởi vì tôi đã nói chuyện với Ngài hôm nay và Ngài đã nghe, đã trả lời cho sự cầu nguyện trong lòng tôi, cho dù đó chỉ là lời thì thầm yên lặng.
I. BẰNG CỚ TỪ THÁNH KINH:
– Thi Thiên 19:1 “Các từng trời rao truyền sự vinh hiển của Đức Chúa Trời, bầu trời giải tỏ công việc tay Ngài làm.” Vẻ đẹp và sự vinh hiển của các từng trời tuyên bố lớn tiếng rằng: Đức Chúa Trời thực hữu.
– Rô-ma 1:20 đi xa hơn và gợi ý rằng sự sáng tạo còn dạy ta về quyền năng đời đời của Đức Chúa Trời, “Bởi những sự trọn lành của Ngài mắt không thấy được, tức là quyền phép đời đời và bổn tánh Ngài, thì từ buổi sáng thế vẫn sờ sờ như mắt xem thấy khi người ta xem xét công việc Ngài cho họ không thể chữa mình được.” Người chấp nhận Thánh Kinh sẽ sẵn sàng thừa nhận sự thực hữu của Đức Chúa Trời.
Chúng ta hãy nghiên cứu một số các lý luận khác có tính chất thuyết phục.
II. BẰNG CỚ TỪ LƯƠNG TÂM:
Con người được sinh ra với một niềm tin phổ quát vào một Đấng tối thượng, không một bộ lạc nào, dân tộc nào thiếu niềm tin nầy. Mọi người đều biết rằng có một Đấng nào đó sáng tạo và điều khiển thế gian.
– Rô-ma 2:15 “Họ tỏ ra rằng việc mà luật pháp dạy đều đã ghi trong lòng họ, chính lương tâm mình đã làm chứng cho luật pháp, còn ý tưởng mình khi thì cáo giác mình, khi thì binh vực mình.” Sự thực hữu của Đức Chúa Trời được viết trong lương tâm con người.
– Công vụ 17:23 “Vì khi ta trải khắp thành các ngươi, xem xét các khí vật các ngươi dùng thờ phượng thì thấy có một bàn thờ chạm chữ rằng: Thờ Chúa không biết. Vậy Đấng các ngươi thờ mà không biết đó là Đấng ta đương rao truyền cho.” Lương tâm đã dạy họ rằng có một Đức Chúa Trời mặc dù họ không biết Ngài cách cá nhân. Một số các nhà vô thần có thể tuyên bố rằng lương tâm của họ không nói cho họ về Đức Chúa Trời, nhưng thật ra người đó đã dập tắt tiếng nói của lương tâm mình bằng sự vô tín rành rành.
Một số người quá đui mù đến nỗi họ có thể khước từ sự hiện hữu của mặt trời trên không trung, nhưng điều đó không thay đổi sự kiện mặt trời thực hữu, mọc và lặn mỗi ngày. Không một người nào quá đui mù bằng một người không chịu thấy. Một người trung thực sẽ tìm thấy một tiếng bên trong nhỏ nhẹ nói rằng: “Đức Chúa Trời thực hữu và Ngài đang sống hôm nay.”
Con người khước từ sự thực hữu của Đức Chúa Trời không phải vì họ không tìm được Ngài, nhưng vì họ sợ đối diện với trách nhiệm, phải tính sổ với Ngài sau khi chết. Sự vô thần là một trong số các phương tiện của ma quỷ ru ngủ con người không chịu tiếp nhận sự cứu rỗi. Nếu không có Đức Chúa Trời thì tôi không chịu trách nhiệm với bất cứ ai, tôi có thể sống và chết như ý tôi muốn. Nhưng trong những giờ phút yên tĩnh, con người trở về với chính mình thì lương tâm họ sẽ thì thầm trong lòng họ “có một Đức Chúa Trời”, và chỉ có những người điên mới khước từ tiếng nói ấy.
Một người nhìn lên trời thấy một chiếc máy bay và không thấy phi công rồi nói rằng: phi cơ ấy tự nhiên bay - thì cũng buồn cười như nhìn lên trời và nói rằng không có Đức Chúa Trời chỉ vì ta không thấy được Ngài. Ít người trong chúng ta đã từng thấy bộ óc con người, nhưng chúng ta tin rằng chúng ta có bộ óc trong đầu, bởi vì đó là hệ thống điều khiển trung tâm của cơ thể chúng ta. Cũng một thể ấy, chúng ta nhìn xem vũ trụ vạn vật, chúng ta tin có Đức Chúa Trời.
III. LÝ LẼ TỪ NGUYÊN NHÂN: (vũ trụ học)
Thế giới đang ở đây, nó phải đến từ một nơi nào đó, có ai đó, hoặc cái gì đó đã tạo thành nó vào một thời điểm nào đó.Đây là một cuốn sách phải có người nào đó viết sách. Không có một nhà máy in nào dù tối tân đến bao nhiêu có thể tự tạo ra một cuốn sách. Một số người xây dựng nhà ở, công ốc… một Đấng nào đó đã tạo dựng nên các cây cối, vạn vật, một ai đó đang vận hành vũ trụ.
Nếu tất cả các bộ phận của cái đồng hồ được đặt vào trong một hộp, và cái hộp đó được lắc nhe nhàng hàng triệu năm đi nữa, thì cái đồng hồ cũng không bao giờ tự động lắp ráp lại và chạy đều để chỉ đúng giờ giấc được.
Vậy câu trả lời duy nhất hợp lý cho vấn đề hiện hữu của vũ trụ là sự hiện hữu của một hữu thể rất thông minh mà ta gọi là Đức Chúa Trời.
IV- LÝ LẼ TỪ KIỂU MẪU: (thuyết mục đích)
Một cái đồng hồ không chỉ hiện hữu, nhưng nó còn có người vẽ kiểu nó được hoạch định cho một mục đích đặc biệt. Một cái đồng không phải vẽ kiểu để cho con muỗi ở, nó được hoạch định bởi một đầu óc sắc bén thông minh nhằm mục đích chỉ đúng thời gian.
Sự nghiên cứu thế giới và các vật lớn cũng như nhỏ, chứng tỏ rằng mỗi loài, mỗi vật đều được hoạch định bởi một đầu óc thông sáng nhằm một mục đích đặc biệt trong cuộc sống. Các màu sắc của con chim và phương tiện tự vệ của các thú vật không phải tự nhiên mà cóĐó là kết quả của một kế hoạch, của một tâm trí cao siêu sáng tạo.
V. LÝ LẼ ĐẠO ĐỨC: (nhân loại học)
Con người có một bản tính thông minh và đạo đức, chứng tỏ rằng Đấng sáng tạo nên con người không thể chỉ là một lực lượng vô tính nhưng là một hữu thể đạo đức sống động thông minh.
– Sáng thế ký 1:26 “Chúng ta hãy làm nên loài người như hình ta, và theo tượng ta.”
– Sáng thế ký 1:27 “Đức Chúa Trời dựng nên loài người theo hình tượng của Đức Chúa Trời”, tức là theo kiểu mẫu của Ngài.
– Thi thiên 94:9 “Đấng đã gắn tai há chẳng nghe sao? Đấng đã nắn con mắt há sẽ chẳng thấy ư?.”
Đức Chúa Trời đã ban cho con người lỗ tai con mắt, sự hiểu biết, trí thông minh và sức mạnh của ý chí vì đây là những khả năng mà Ngài vốn có. Lương tâm dạy cho con người điều phải và điều trái, tốt và xấu; bởi vì Đấng sáng tạo là một hữu thể đạo đức, thánh thiện, yêu sự công bình và ghét sự gian ác.
VI- LÝ LẼ TỪ SỰ SỐNG:
Sự sống đến từ sự sống và sự sống nguyên thủy phải đến từ một hữu thể có sự sống vĩnh cửu, tứ là sự sống vốn hiện hữu trước khi sự sống thuộc thể được sáng tạo. Người ta có thể tìm thấy sự sống ấy ở đâu? Chỉ có thể tìm thấy sự sống ấy nơi Đức Chúa Trời là Đấng sở hữu sự sống vĩnh cửu. Thi thiên 36:9 “Vì nguồn sự sống ở nơi Chúa.”
Cây táo nhận sự sống từ cây táo mẹ của nó, con chiên nhận sự sống từ con chiên mẹ. Nhưng chúng lấy sự sống ấy từ đâu? Chúng ta phải trở về sự sáng tạo ban đầu. Chúa Jêsus phán trong Giăng 11:25 “Ta là sự sống lại và sự sống”, Giăng 14 :16 “Ta là….sự sống” và trong Giăng 10:28 “Ta ban cho chúng sự sống đời đời.”
Mọi sự sống đều phát xuất từ Đức Chúa Trời. Lý thuyết về sự sống được phát xuất cách tự nhiên đã được chứng minh là sai và hoàn toàn không được giới khoa học có thẩm quyền chấp nhận.
Sự sống phải có một sự khởi đầu. Câu trà lời hợp lý duy nhất là sự khởi đầu đó đến từ Đức Chúa Trời.
VII- LÝ LẼ TỪ SỰ TƯƠNG HỢP: (Congruity)
Lý thuyết vô thần không giải quyết được vấn đề, nhưng chỉ gia tăng những sự mâu thuẫn không giải thích được. Việc chấp nhận sự thực hữu của Đức Chúa Trời, Đấng sáng tạo thế gian giống như chiếc chìa khóa nhiệm mầu thích hợp với tất cả các sự kiện của Thánh linh, của sự khải thị, sự tri thức và khoa học. Giáo lý không thể bác bỏ được nầy đã được vô số người bền bỉ vâng giữ và tìm được nguồn an ủi sâu xa trong cuộc sống của mình.
KẾT LUẬN:
Người thừa nhận chủ nghĩa vô thần chỉ gia thêm mối hoài nghi vô tín, dẫn đến sự tối tăm tuyệt vọng mà thôi. Chấp nhận Sáng thế ký 1:1 “Ban đầu Đức Chúa Trời dựng nên trời đất” dẫn người tìm chân lý đến sự khải thị đầy đủ hơn về chính mình Đức Chúa Trời.
Hê-bơ-rơ 11:6 “Kẻ đến gần Đức Chúa Trời phải tin rằng có Đức Chúa Trời và Ngài là Đấng hay thưởng cho kẻ tìm kiếm Ngài.”
Chúng ta hãy đến với Đức Chúa Trời như người con với đức tin đơn sơ, tin cậy Ngài hoàn toàn căn cứ trên lời hằng sống của Ngài.
Câu hòi:
1. Đức Chúa Trời có viết Kinh thánh như là sách giáo khoa chứng tỏ sự thực hữu của Ngài không? Hãy giải thích.
2. Người vô thần trước mắt Đức Chúa Trời là gì?
3. Đưa ra hai câu Kinh thánh chứng tỏ sự thực hữu của Đức Chúa Trời.
4. Tại sao Công vụ 17:23 dân thành A-thên đã xây một bàn thờ cho thần không biết?
5. Mục đích chính của người vô thần khi họ khước từ sự thực hữu của Đức Chúa Trời là gì?
6. Lý lẽ từ nguyên nhân để chứng minh sự thực hữu của Đức Chúa Trời là gì?
7. Lý lẽ từ kế hoạch (kiểu mẫu) chứng minh sự thực hữu của Đức Chúa Trời là gì?
8. Làm thế nào để chúng ta biết rằng Đức Chúa Trời không phải là một lực lượng vô tình?
9. Lý lẽ từ sự sống chứng minh sự thực hữu của Đức Chúa Trời là gì?
10. Điều kiện tuyên quyết cho đức tin nơi Đức Chúa Trời là gì?
LỜI GIỚI THIỆU:
Sự nghiên cứu về Đức Chúa Trời đã từng là tham vọng của các triết gia trải qua bao nhiêu đời nay. Một số người ngồi lại rồi cố gắng về lãnh vực của một Hữu thể vĩnh cửu. Nhưng sự hiểu biết thực sự về Đức Chúa Trời duy chỉ tìm được nơi Kinh thánh mà thôi.
– Giăng 1:18 “Chẳng hề có ai thấy Đức Chúa Trời chỉ Con Một trong lòng Cha, là Đấng đã giãi bày Cha cho chúng ta biết.”
– I Giăng 4:12 “Chưa hề có ai thấy Đức Chúa Trời.”
– Xuất 33 :20 (Đức Chúa Trời phán với Môi-se): “và Ngài phán: ngươi không thể thấy mặt Ta, vì không có người nào thấy Ta mà được sống.”
– Xuất 33:23 “Ta sẽ rút tay Ta lại và ngươi sẽ thấy phía sau Ta nhưng chẳng mặt Ta được.”
Môi-se đã nói chuyện với Đức Chúa Trời và thấy phía sau của Ngài nhưng không thể thấy mặt Ngài. Chúa Jêsus là Con của Đức Chúa Trời từ thiên đàng đến để giãi bày Đức Chúa Trời cho chúng ta. Chúa Jêsus nói với Phi-líp trong Giăng 14:7-11 rằng Chúa Jêsus là sự khải thị của Đức Chúa Trời. Triết gia ngoại đạo nói rằng: “Hỡi con người hãy tự biết mình”, nhưng Chúa Jêsus phán: “Hỡi con người hãy học biết về Cha.” Giăng 17:3 dạy chúng ta rằng nhận biết Đức Chúa Trời và Đấng Christ là con Ngài thì có sự sống đời đời. “Vả, sự sống đời đời tức là nhìn biết Cha là Đức Chúa Trời có một và thật cùng Jêsus Christ là Đấng Cha đã sai xuống.”
I- THÂN VỊ CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI:
Thân vị một người được mô tả gồm các đặc điểm như khả năng hiểu biết, cảm giác và ý chí. Một pho tượng không có thân vị hay vị cách vì nó không biết, không cảm giác cũng không có khả năng đáp ứng.
Đức Chúa Trời của chúng ta là một Hữu thể sống động và có các đặc tính nhất định. Đức Chúa Trời là Đấng sống, Ngài không phải là một ảnh hưởng hay một lực lượng hoặc một sức mạnh vô hình như điện lực.
– Giê-rê-mi 10:10 “Nhưng Chúa là Đức Chúa Trời thật, Ngài là Đức Chúa Trời hằng sống.”
– Công vụ 14:15 “… bỏ sự hư không quay về Đức Chúa Trời hằng sống.”
– I Tê-sa-lô-ni-ca 1:19 “bỏ hình tượng đặng thờ Đức Chúa Trời hằng sống và chân thực.”
– II Sử ký 16:19 “Vì con mắt của Đức Giê-hô-va soi xét thế gian, đặng giúp sức cho kẻ nào có lòng trọn thành đối với Ngài.” Con mắt soi xét khắp thế gian ở đây chứng tỏ Đức Chúa Trời có sự sống và nhân cách mà các hình tượng và thần linh khác không thể có được.
– Thi thiên 94:11 “Chúa biết các ý tưởng của loài người.” Điều nầy chứng tỏ Đức Chúa Trời có hiểu biết.
II. BẢN TÍNH ĐỨC CHÚA TRỜI :
Đức Chúa Trời là Đấng thần linh, Linh thì không có thịt, xương và máu huyết.
– Lu-ca 24:39 “Hãy xem tay chân Ta, thật chính Ta; hãy rờ Ta và thấy Ta, vì thần thì không có thịt và xương mà Ta thì có.”
– Giăng 4:24 “Đức Chúa Trời là thần nên ai thờ lạy Ngài phải lấy tâm thần và lẽ thật mà thờ lạy.”
– I Ti-mô-thê 1:17 “… về nơi vua muôn đời, không hề hư nát, không thấy được, tức là Đức Chúa Trời có một mà thôi.”
– I Ti-mô-thê 6 :16 nói về Đức Chúa Trời “một mình Ngài có sự không hề chết, ở nơi sáng láng không thể đến gần được, chẳng người nào từng thấy Ngài và cũng không thấy được, danh vọng, quyền năng thuộc về Ngài đời đời Amen.”
III. SỰ HIỆP MỘT CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI:
Đức Chúa Trời chúng ta là Đức Chúa Trời duy nhất ngược lại với các thần linh số nhiều của người ngoại đạo.
– Phục truyền 6:4 “Hỡi người Y-sơ-ra-ên hãy nghe, Đức Chúa Trời chúng ta là Đức Chúa Trời có một.”
– Ê-sai 44:6 “Đức Giê-hô-va là vua và Đấng cứu chuộc của Y-sơ-ra-ên, là Đức Giê-hô-va vạn quân phán như vầy: Ta là đầu tiên và cuối cùng, ngoài ta không có Đức Chúa Trời nào khác.”
– Ê-sai 45:21 “… ngoài ta chẳng có Đức Chúa Trời nào khác,chẳng có Đức Chúa Trời nào khác là công bình và là cứu Chúa ngoài Ta.”
IV- CÁC THUỘC TÍNH TỰ NHIÊN CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI:
Một thuộc tính là một phẩm giá, có tính chất đặc biệt thuộc riêng về một vật gì đó. Chúng ta biết rằng đã là Đức Chúa Trời Ngài phải có một số phẩm chất căn bản nào đó.
Các thuộc tính của Đức Chúa Trời là :
1- Ngài là Đấng vĩnh cửu: (Tự hữu, hằng hữu) Là một Đức Chúa Trời chân thật Ngài phải là Đấng không có khởi đầu và không kết thúc.
Các hình tượng thì không có thuộc tính nầy vì chúng được một người nào đó tạo nên, vì thế chúng có khởi đầu.
– Thi thiên 90 :2 “Trước khi núi non chưa sinh ra, đất và thế gian chưa dựng nên, từ trước vô cùng cho đến đời đời Chúa là Đức Chúa Trời .”
– I Ti-mô-thê 1:17 “Vua muôn đời” bất tử.
– Thi thiên 102 :24,27; Ê-sai 57:15; Sáng 1:1 “Ban đầu có Đức Chúa Trời…” chứng tỏ Đức Chúa Trời hằng hữu.
2- Ngài là Đấng không hề thay đổi:
– I Sa-mu-ên 15:29 “Đấng phù hộ Y-sơ-ra-ên chẳng có nói dối và không ăn năn vì Đấng ấy chẳng phải loài người mà ăn năn.”
– Ma-la-chi 3:6 “Và Ta là Đức Giê-hô-va, Ta không hề thay đổi.”
– Gia-cơ 1:17 “Mọi ân điển tốt lành cùng sự ban cho trọn vẹn đều đến từ nơi cao và bởi Cha sáng láng mà xuống, trong Ngài chẳng có một sự thay đổi, cũng không có bóng của sự biến cải nào.”
3- Ngài là Đấng toàn năng : không toàn năng Ngài không phải là Đức Chúa Trời.
– Sáng thế ký 1:1 “Ban đầu Đức Chúa Trời dựng nên trời đất.” Đây là quyền năng sáng tạo.
– Sáng thế ký 1:3 “Đức Chúa Trời phán: phải có sự sáng, thì có sự sáng.” Đây là quyền năng lời Chúa. Loài người làm nên mọi vật từ vật chất sẵn có, còn Đức Chúa Trời dựng nên muôn vật từ vật chưa có và mọi vật Ngài dựng nên đều tốt lành. (Sáng thế ký 1:4) Thật tốt lành.
– Gióp 42:2 “Tôi biết rằng Chúa có thể làm được mọi sự .”
– Thi thiên 33:9 “Ngài phán thì việc liền có, biểu thì vật bèn đứng vững bền.”
– Giê-rê-mi 32:27 “Nầy Ta là Đức Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của mọi xác thịt, có sự gì khó quá cho Ta chăng?” Chắc chắn là không, vì Ngài có thể làm mọi sự, mọi việc.
4- Ngài có mặt khắp nơi và mọi lúc:
– I Các vua 8:27.
– Thi thiên 139:7-9.
– Giê-rê-mi 23:23.
– Ê-phê-sô 1:23.
5- Ngài biết mọi sự: Không việc gì giấu được Chúa.
– I Sử ký 28:9.
– II Các vua 16:9.
– Thi thiên 94:11.
– Đa-ni-ên 2:20.
– Ê-sai 40:28.
V-CÁC ĐỨC TÍNH CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI :
1. Đức Chúa Trời là thánh: Xuất 15:11, I Sa-mu-ên 2:2; Ê-sai 6:3; I Phi 1:16.
2. Đức Chúa Trời công bình: Thi thiên 116:5; E-xơ-ra 9:15; Thi thiên 145:17; Giê-rê-mi 12:1.
3. Đức Chúa Trời thương xót: Thi 103:8; Phục 4:31;Thi 86:15; Rom 9:18.
4. Đức Chúa Trời thương yêu: I Giăng 4:8-16;Giăng 3:16; I Giăng 3:16; Giăng 6:27.
5. Đức Chúa Trời thành tín: I Cô-rinh-tô 1:9; II Tim 2:13; Phục 7:9; Phục 32:4.
Ngoài ra Đức Chúa Trời cũng là Đấng :
– Vinh hiển: Xuất 15:11; Thi 145:5.
– Nhẫn nại: Dân số 14:18; Mi-chê 7:18.
– Thông cảm: I Vua 8:23.
– Không thể dò nổi: Gióp 11:7; Thi 145:3.
– Tốt lành: Thi 23:8; Thi 119:68.
– Không biến đổi: Thi 102:26-27; Gia-cơ 1:17.
– Chân thật: Giê-rê-mi 10:10.
– Không thể hư hỏng: Rom 1:23.
– Đám lửa tiêu diệt: Hê-bơ-rơ 12:29.
– Ân phúc (nhân từ): X uất 34:6; Thi 116 :5.
– Ghen tương: Giô-suê 24:19; Na-hum 1:2.
– Vĩ đại : II Sử ký 2:5; Thi 86:10.
– Không thấy được: Gióp 23:8; I Tim 1:17.
– Công chính : Thi 25:8; Thi 92:15.
– Sự sáng: Ê-sai 60:19; I Giăng 1:5.
– Trọn lành: Ma-thi-ơ 5:48.
– Bất tử: I Ti-mô-thê 1:17; 6:16.
– Không ai giống như Ngài: Xuất 9:14;Phục 33:26.
KẾT LUẬN:
Chúng ta hãy yêu mến Ngài.
Chúng ta hãy thờ phượng Ngài.
Chúng ta hãy phục sự Ngài.
Chúng ta hãy vâng lời Ngài.
Chúng ta hãy kính sợ Ngài.
Câu hỏi:
11. Tin tức đáng tin về Đức Chúa Trời lấy ở đâu?
12. Khi nói Đức Chúa Trời có thân vị hay vị cách là có ý gì?
13. Bản tính của Đức Chúa là gì?
14. Đức Chúa Trời là đơn vị độc nhứt hay số nhiều, đưa ra một câu Kinh Thánh?
15. Chữ “thuộc tính” có nghĩa gì?
16. Liệt kê 5 thuộc tính tự nhiên của Đức Chúa Trời.
17. Đưa ra một câu Kinh Thánh chứng tỏ Đức Chúa Trời vĩnh cửu.
18. Tại sao chúng ta tin Đức Chúa Trời toàn năng?
19. Làm thế nào Đức Chúa Trời có mặt mọi nơi trong cùng một lúc?
20. Chứng minh Đức Chúa Trời biết mọi sự.
LỜI GIỚI THIỆU:
Đức Chúa Trời là Đấng Thánh khiết, yêu thương, thành tín, nhưng là Đấng công chính, ngay thẳng. Ngay nay nhiều người có một quan điểm phiến diện về Đức Chúa Trời, một số quá nhấn mạnh đến tình yêu thương của Ngài và quên rằng Ngài đồng thời cũng là Đấng công bình, thánh khiết. Tình yêu của Đức Chúa Trời khiến Ngài tha thứ tội lỗi và tỏ sự thương xót đối với một tội nhân biết ăn năn.
Sự thánh khiết và công chính của Đức Chúa Trời đòi hỏi tội lỗi phải bị hình phạt theo đúng tiêu chuẩn của luật pháp. Rô-ma 6:23 “Vì tiền công của tội lỗi là sự chết.” Xuất 18:20. Nếu Đức Chúa Trời là một người thường thì Ngài sẽ hoàn toàn bối rối với những cảm xúc xung khắc nhau vẫn thường xuyên tranh chấp giữa hai phía. Tuy nhiên Đức Chúa Trời không phải là người thường nên hai cảm xúc đối nghịch nhau nầy đã hòa nhịp cách trọn vẹn vì tính nầy quân bình cho tính kia.
Lý luận cho rằng không thể có địa ngục được vì một Đức Chúa Trời yêu thương không thể bỏ con người vô vọng vào cõi đời đời, là một quan điểm thiếu quân bình về Đức Chúa Trời. Để hiểu rõ sự khủng khiếp của địa ngục và sự thống khổ ở thập tự giá, ta cần suy nghĩ nhiều đến sự thánh khiết và đức uy nghiêm của cơn thạnh nộ Đức Chúa Trời chống lại tội lỗi (II Cô-rinh-tô 5:11).Sự thánh khiết của Đức Chúa Trời đòi hỏi chúng ta phải nên thánh. Luật pháp của Đức Chúa Trời tuyên bố sự hình phạt đời đời cho tội nhân, phù hợp với sự công bình của Đức Chúa Trời. Một trong những sự kỳ diệu nhất ở thời đại chúng ta là Đức Chúa Trời đã tìm thấy một con đường cứu rỗi, có thể làm thỏa mãn đức thánh khiết và đức yêu thương của Đức Chúa Trời.
Giải pháp nầy cũng thỏa mãn luật pháp nữa.Tuy nhiên, giải pháp này để cho con người là loài thọ tạo có ý chí tự do, có quyền lựa chọn, giữa sự cứu rỗi và sự đoán phạt, giữa thiên đường và địa ngục.
I. ĐỨC CHÚA TRỜI LÀ ĐẤNG THÁNH KHIẾT :
Chúng ta khó có thể hình dung ra một Đức Chúa Trời thánh khiết hoàn toàn. Thánh có nghĩa là tự do khỏi mọi sự ô uế, nghĩa là trong sạch trọn vẹn. Đức Chúa Trời là Đấng thánh khiết tuyệt đối.
– Ha-ba-cúc 1:3.
– Xuất 15:11.
– 1 Sa-mu-ên 2:2.
– Ê-sai 6:3.
– Phi 1:15, 16.
Sự thánh khiết của Đức Chúa Trời phân cách Ngài khỏi loài người sa ngã. Ê-phê-sô 2:13. “Nhưng nay trong Christ Jêsus anh em là kẻ xa cách đã được lại gần nhờ huyết của Chúa Jêsus.”
Con đường duy nhất mà con người có thể đến gần Đức Chúa Trời thánh khiết là thông qua huyết báu Đấng Christ. Đức Chúa Trời là thánh, Ngài ghét tội lỗi, sự thạnh nộ của Ngài đòi hỏi tội lỗi phải bị hình phạt. Đây là sự giải thích. Ê-sai 53:16. Khi Đức Cha từ bỏ và hình phạt con Ngài trên cây thập tự, khi con Ngài gánh thay tội lỗi cả nhân loại.
Tình yêu thương của Đức Chúa Trời đối với tội nhân sẽ không bao giời được đánh giá cho đúng, cho đến khi thấy được trong ánh sáng của cơn thạnh nộ Ngài chống lại tội lỗi. Sự thánh khiết của Đức Chúa Trời đòi tội lỗi phải bị hình phạt, sự đòi hỏi này đã được Chúa cứu thế tình nguyện gánh chịu trên thập tự giá, đã hoàn toàn thỏa mãn Đức Chúa Trời.
II. ĐỨC CHÚA TRỜI LÀ ĐẤNG YÊU THƯƠNG:
– I Giăng 4:8 “Ai chẳng yêu thì không biết Đức Chúa Trời, vì Đức Chúa Trời là sự yêu thương”.
Đây không chỉ là một động từ mô tả hành động Chúa yêu thương nhưng là một danh từ chỉ về Đức Chúa Trời là sự yêu thương. Nếu Đức Chúa Trời sống trong lòng tôi thì tôi phải yêu thương vì chính tình yêu thương đang ngự trong lòng tôi.
– 1 Giăng 4:7 “Hỡi kẻ rất yêu dấu, chúng ta hãy yêu mến lẫn nhau vì sự yêu thương đến từ Đức Chúa Trời, kẻ nào yêu thì sanh từ Đức Chúa Trời và nhìn biết Đức Chúa Trời.
Tình yêu là gì? Tình yêu là một ước vọng ban cho, và là sự thích thú trong một đối tượng mà tình yêu đó dành cho. Tình yêu thật yêu cả tội nhân và kẻ thù. (Ma-thi-ơ 5:44;45).
Tình yêu của Đức Chúa Trời được thể hiện và bày tỏ ra trong Chúa Con và các tín đồ cách đặc biệt. Giăng 16:27 “Cha yêu thương các con, vì các con yêu Ta và tin rằng Ta ra từ Cha.”
Giăng 3:16 “Đức Chúa Trời yêu thương thế gian.” Khiến cho Ngài phải nghĩ ra một kế hoạch cứu rỗi để ban cho con người một cơ hội thoát khỏi án phạt và thạnh nộ. Đức Chúa Trời là Cha thương yêu cũng thể hiện tình yêu của Ngài dành cho tín đồ, là con cái của Ngài bằng sự sửa phạt. (Hê-bơ-rơ 12:16).
III. ĐỨC CHÚA TRỜI LÀ ĐẤNG THÀNH TÍN:
– 1 Cô-rinh-tô 1:9.
– Phục truyền 7:9.
Chữ thành tín có nghĩa gì? Nó có nghĩa là một người nào đó có thể tin cậy được cách hoàn toàn, là người đáng tin, đáng nhờ cậy. Đức Chúa Trời là thành tín vì Ngài thành thật và không hề thay đổi. “Sự thành tín Chúa to lớn dường bao? Nó thấu đến tận các bầu trời” (Thi thiên 36:5).
Tất cả các việc của Đức Chúa Trời được thực hiện trong sự thành tín. Thi 33:4. Sự thành tín của Đức Chúa Trời được thể hiện trong sự Ngài giữ mọi lời hứa và làm ứng nghiệm mọi lời Ngài phán. Đức Chúa Trời không thể thay đổi vì Ngài không thể nói dối cũng không ăn năn. Đức Chúa Trời sẽ giữ mọi lời hứa để bảo vệ, phù hộ và hướng dẫn các con cái Ngài khi có cần.
– 2 Ti-mô-thê 2:13.
– I Cô-rinh-tô 10:13.
IV. ĐỨC CHÚA TRỜI LÀ ĐẤNG THƯƠNG XÓT:
– Thi 103:8.
– Phục truyền 4:31.
Thay vì giáng sự đau khổ và sự chết vì tội lỗi, Đức Chúa Trời đầy lòng thương xót và ban cho chúng ta nhiều ơn phước, sức khỏe, sự an ủi, và các sự vui vẻ trần gian cho người được cứu lẩn người hư mất ( Ma-thi-ơ 5:45).
Đức Chúa Trời là Đấng quan phòng tể trị, Ngài có thể lựa chọn người mà muốn thương xót (Rom 9:15, 18). Sự thương xót của Đức Chúa Trời có thể tỏ ra cho đám đông. Xuất 20:6 “Và làm ơn đến ngàn đời cho kẻ nào yêu mến Ta và giữ các điều răn Ta.”
Sự thương xót của Chúa lớn lao dường nào? – Thi 103:11,17.
Đức Chúa Trời thương xót đói với người tin cậy nơi Ngài. Thi 32:10.
Khi tội nhân ăn năn đến với Chúa Jêsus để được tha thứ, người đó không nên cậy công đức mà chỉ ngã mình vào sự thương xót của Chúa. – Thi 51:1.
V. ĐỨC CHÚA TRỜI LÀ ĐẤNG CÔNG CHÍNH:
– Phục truyền 32:4.
– Thi 19:9.
Đức Chúa Trời là Đấng ngay thẳng và công bình, Ngài sẽ phán xét từng cá nhân cách công bình.
– Ê-sai 45:21.
Đức Chúa Trời là Đấng công bình thánh khiết phải hành động theo phương thức công chính, đúng đắn và ngay thẳng.
– I Sam 2:3.
Bản tính của Đức Chúa Trời khiến Ngài luôn luôn làm việc công chính, ngay thẳng.
Đức Chúa Trời là Đấng công chính sẽ là quan án sau cùng để phán xét mọi sự mọi người.
– I Các vua 8:38.
KẾT LUẬN
Làm thế nào Đức Chúa Trời vừa yêu thương vừa thánh khiết cùng lúc? Làm thế nào Ngài vừa thương xót vừa đồng thời đối xử công bình với tội nhân? Câu trả lời duy nhất chỉ có thể tìm thấy được nơi thập tự giá. Thập tự giá là sự mô tả cả cơn thạnh nộ Đức Chúa Trời chống lại tội lỗi và sự thương xót của Đức Chúa Trời đối với tội nhân.
Đức Chúa Trời là tình yêu thương nhưng không phải là thứ tình cảm bỏ qua tội lỗi. Tình yêu của Đức Chúa Trời là tình yêu thánh khiết, công chính. Để tìm hiểu được Đức Chúa Trời và bản tính của Ngài, ta hãy nghiên cứu về thập tự giá, từ đó ta sẽ hiểu được làm thế nào mà Đức Chúa Trời có thể ghét tội lỗi và lại yêu mến tội nhân.
Thập giá thỏa mãn sự thánh khiết và sự công chính của Đức Chúa Trời bằng cách làm phu phỉ, thỏa mãn mọi đòi hỏi của luật pháp và cho phép tội nhân bước vào thiên đàng cách hợp pháp.
Chúng ta hãy cúi đầu cúi đầu trước Đức Chúa Trời cao cả và tôn thờ Ngài là Đấng toàn vẹn tuyệt đối.
Câu hỏi :
21. Hãy kể tên 5 thuộc tánh đạo đức của Đức Chúa Trời.
22. Tại sao Đức Chúa Trời không bối rối bởi các thuộc tánh đạo đức dường như tương phản nầy?
23. Sự kiện Đức Chúa Trời là Tình yêu có loại bỏ giáo lý địa ngục hay không?
24: Chữ “Thánh” có nghĩa gì?
25. Theo I Phi-e-rơ 1:15, 16 sự áp dụng thực tế cho giáo lý này là gì?
26. Hãy kể tên 3 người khác nhau mà Đức Chúa Trời bày tỏ tình yêu của Ngài?
27. Sử thành tín của Chúa to lớn dường nào?
28. Tại sao sự thương xót của Đức Chúa Trời cuối cùng không đưa hết mọi người lên thiên đàng?
29. Khi nói Đức Chúa Trời công chính ngụ ý gì?
30. Ở đâu ta thấy sự quân bình giữa sự thương xót và sự công chính của Đức Chúa Trời? Hãy giải thích.
LỜI GIỚI THIỆU:
Cho đến nay chúng ta đã học biết chỉ có một Đức Chúa Trời Đấng tạo hóa thế gian.
– Phục 6:4 “Hãy nghe, hỡi Y-sơ-ra-ên, Đức Chúa Trời chúng ta là Đức Chúa Trời có một” chỉ có một Đức Chúa Trời.
Nhưng nghiên cứu kỹ Thánh kinh ta sẽ thấy Kinh thánh cho biết Đức Chúa Trời hiện hữu trong ba thân vị hay gọi là Ba ngôi.
– Cô-lô-se 2:9 ‘Vì sự đầy dẫy của bổn tánh Đức Chúa Trời thấy đều ở trong Đấng ấy như có hình ‘. Có người chống đối : Làm thế nào mà đồng một lúc có một Đức Chúa Trời mà lại có ba ngôi? chẳng lẽ đó lại ba Đức Chúa Trời tương tự như triết lý ngoại giáo và tương phản với Phục 6:4.Hay là giáo lý Ba ngôi không tài nào hiểu được và nghịch lại với lý trí con người? Ê-sai 55:8, 9 dạy rằng lý trí của con người không thể học biết được hết về Đức Chúa Trời. ‘ Ý tưởng Ta chẳng phải ý tưởng các ngươi, đường lối Ta chẳng phải đường lối các ngươi… phương đông… ‘. Các chữ Ba ngôi hay Đức Chúa Trời Ba ngôi không thấy trong Kinh thánh.
I. NỀN TẢNG CỦA GIÁO LÝ BA NGÔI :
1. Lễ Báp têm của Chúa Jêsus trong Ma-thi-ơ 3:13,17 chúng ta thấy Ba ngôi hành động : Đức Chúa Trời là Cha phán từ trời : “Nầy là con yêu dấu của Ta, đẹp lòng Ta mọi đường”. Đức Chúa Trời là Con : Chúa Jêsus chịu phép Báp têm, Đức Chúa Trời là Thánh linh : ngự xuống như chim bồ câu đậu trên Chúa Jêsus.
2. Công thức Báp têm ở Ma-thi-ơ 28:19 “Nhân Danh Đức Cha, Đức Cha, Đức Con và Đức Thánh Linh làm phép Báp têm cho họ.”
3. Lời chúc phước trong II Cô-rinh-tô 13:14 “Nguyền xin ân điển của Chúa Jêsus Christ, tình yêu thương của Đức Chúa Trời và sự thông công của Thánh Linh ở cùng anh em tất cả. Amen.”
4. Trong sự sáng tạo loài người Kinh thánh dùng số nhiều. Sáng 1:26 “Chúng ta hãy làm nên loài người như hình chúng ta và theo tượng chúng ta….”
Trong các bài học tiếp chúng ta sẽ chứng tỏ Chúa Jêsus là Đức Chúa Trời thật và Đức Thánh Linh cũng là Đức Chúa Trối thật.
II. NHỮNG THÍ DỤ MÔ TẢ GIÁO LÝ BA NGÔI :
1. Lá chia ba: Thánh Patrick đã dùng hình ảnh một chiếc lá có ba phiến lá chỉ ra ba hướng.
2. Nước: có ba dạng lỏng, rắn, hơi nhưng chỉ cùng một công thức H2O.
3. Ánh sáng:
– Tia nóng đỏ không thấy được là hình ảnh Đức Cha.
– Tia sáng vàng thấy được là hình ảnh Đức Con.
– Tia hóa học xanh lơ thấy được bởi hiệu quả của nó là hình ảnh Đức Thánh Linh.
4. Công ty thương mại : (Smith Co. ba anh em John, Henry, Peter ). Đây là một công ty có một tên duy nhất nhưng mỗi mỗi anh em là giám đốc một ngành thương mại của công ty. Ba ngành cùng hoạt động với nhau không hề đối lập quyền lợi, nhưng nhằm một lợi ích chung như là chỉ có một đơn vị.
5. Một người tên Douglas: tôi là một người nhưng tôi có thể được tỏ ra trong ba nhân vị : mẹ tôi nhìn tôi như người con, mẹ tôi thấy tôi khác hơn bất cứ ai,và tôi đáp ứng tình yêu của mẹ tôi khác hơn bất cứ ai khác. Con tôi thấy tôi như người Cha và học trò của tôi lại thấy tôi như người thầy giáo với một mối liên hệ khác. Tôi vẫn là một, nhưng đồng thời tôi được bày tỏ ra như cha, con và thầy giáo cùng một lúc. Đức Chúa Trời là một thân vị nhưng được bày tỏ ra trong ba ngôi riêng. Tuy nhiên ta cần nhấn mạnh rằng giáo lý Ba ngôi vẫn là một sự mầu nhiệm mà không có một thí dụ nào có thể mô tả đầy đủ và thích đáng được. Dầu vậy, tôi tin rằng với những thí dụ trên có thể đưa ra vài ánh sáng trên vấn đề khó khăn phức tạp nầy. Bởi vì Đức Chúa Trời là Thần Linh còn chúng ta là xác thịt thật khó cho chúng ta hiểu được Ngài. Đức Chúa Trời là vô hạn trong khi chúng ta là hữu hạn. Cố gắng giải thích cách triết lý về Đức Chúa Trời Ba ngôi là cố gắng đặt các dữ kiện vô hạn vào những từ ngữ hữu hạn.
Chúng ta tin tưởng chắc chắn rằng chỉ có một Đức Chúa Trời tự hữu hằng hữu và Ngài bày tỏ chính mình Ngài cho chúng ta trong Ba ngôi: Cha Con và Thánh Linh.
III. BA NGÔI HÀNH ĐỘNG HỢP NHẤT:
1. Trong sự sáng tạo: Đức Chúa Trời là Cha phán Sáng 1:3 “phải có sự sáng….”. Đức Con là lời phán Giăng 1:1 “Ban đầu có lời…” Đức Thánh Linh trên mặt nước. Sáng 1:2; Gióp 26:12, 13.
2. Trong sự nhập thể: Đức Cha ban Con một Ngài, Giăng 3:16. Đức Con được sanh ra trong thế gian Lu-ca 2:1. Đức Thánh Linh khiến Ma-ri mang thai Lu-ca 1:35.
3. Trong sự cứu chuộc: Đức Cha chấp nhận tự hy sinh trên thập tự giá Hê-bơ-rơ 9:14, Đức Con dâng mình làm của lễ đền tội Hê-bơ-rơ 9:14. Đức Thánh Linh – Chúa Jêsus dâng mình qua Linh đời đời Hê-bơ-rơ 9:14.
4. Trong sự cứu rỗi: Đức Cha tiếp nhận đứa con hoang trở về Lu-ca 15:22, Đức Cha hoan nghinh tội nhân, tha tội, cung ứng áo vòng và mở tiệc. Đức Con là người chăn đi tìm chiên lạc Lu-ca 15:14, Đức Thánh Linh đống ấn những tấm lòng tín hữu ăn năn. Ê-phê-sô 1:15.
5. Trong sự thông công: Đức Cha mời gọi chúng ta đến thông công với Ngài Ê-phê-sô 2:18. Đức Con là Đấng giải hòa II Cô-rinh-tô 5:19.Đức Thánh Linh là hiệu lực cho sự tương giao hiệp nhất này. Ê-phê-sô 2:18.
6. Trong sự cầu nguyện: Đức Cha là Đấng tiếp nhận lời cầu xin. Giăng 16:23. Đức Thánh Linh hướng dẫn chúng ta cầu xin. Rôm 8:26.
7. Trong sự vinh hiển: Đức Cha cuối cùng sẽ tiếp nhận nước ngàn năm, I Cô-rinh-tô 15:24.Đức Con sẽ khiến thân thể hèn mạt chúng ta nên giống như Ngài Phi-líp 3:21. Đức Thánh Linh đưa ra lời mời gọi Khải 22:17.
8. Trong sự tái sanh: Đức Chúa Trời ghi Danh mới trong vinh hiển. Lu-ca 10:20. Đức Con tẩy sạch tội lỗi bằng huyết báu Ngài. Ê-phê-sô 1:7. Đức Thánh Linh thực hiện phép tái tạo tội nhân trong sự tái sinh Giăng 3:3-6.
IV. BA NGÔI VÀ CÁC THUỘC TÍNH CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI:
Thuộc tánh : Cha : Con : Đức Thánh Linh
1. Đời đời : Thi 90:2 : Khải 1:8,17 : Hê-bơ-rơ 9:14
2. Toàn năng : I Phi-e-rơ 1:5 : II Cô-rinh-tô 12:9 : Rom 15:19
3. Toàn tri : Giê-rê-mi 17:10 : Khải 2:23 : I Cô-rinh-tô 2:11
4. Toàn tại : Giê-rê-mi 23:24 : Ma-thi-ơ 18:20 : Thi 119:7
5. Thánh khiết : Khải 15:4 : Công 3:14 : Lu-ca 1:15
6. Chân thật : Giăng 7:28 : Khải 4:7 : I Giăng 5:6
7. Nhân từ,từ thiện : Rô-ma 2:4 : Ê-phê-sô 5:25 : Nê-hê-mi 9:20
8. Giao thông : I Giăng 1:3 : I Giăng 1:3 : II Cô-rinh-tô 13:14
KẾT LUẬN:
Các bạn không nên bối rối khi không thể hiểu giáo lý khó hiểu này. ‘ Người cố gắng hiểu trọn vẹn giáo lý Ba ngôi sẽ mất trí, nhưng người chối bỏ giáo lý Ba ngôi sẽ mất linh hồn ‘ [Lindsell và Woodbright]. Đây là sự mầu nhiệm và sẽ vẫn là mầu nhiệm cho đến khi chúng ta gặp Chúa trong sự vinh hiển. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là chúng ta không thể tin được, chúng ta phải tin. Đức Chúa Trời vô cùng khác với chúng ta, Ngài là thần linh, chúng ta là người xác thịt. Tôi tin rằng Đức Chúa Trời được vinh hiển và vui lòng khi chúng ta tin giáo lý này. Con người cũng là một hữu thể ba ngôi : xác, hồn, linh,vì chúng ta được dựng nên theo hình ảnh Đức Chúa Trời. Chúng ta hãy thờ phượng Đức Chúa Trời vĩ đại nầy – Đây là Đấng vô cùng cao cả hơn chúng ta.
Chúng ta hãy tin từng ngôi trong Ba ngôi Đức Chúa Trời là: Cha, Con và Đức Thánh Linh là Đấng đã thực hiện sự cứu rỗi quí giá cho chúng ta.
Câu hỏi:
1. Ma-thi-ơ 3:13,17 chứng minh lẽ đạo Ba ngôi thế nào?
2. Đưa ra các câu kinh thánh chứng minh giáo lý Ba ngôi.
3. Lời ám chỉ đầu tiên về giáo lý Ba ngôi trong Kinh Thánh ở đâu?
4. Đưa ra ba thí dụ chỉ về sự Ba ngôi.
5. Trong sự sáng tạo Ba ngôi hành động ra sao?
6. Trong sự chuộc tội Ba ngôi hành động ra sao?
7. Trong sự cứu rỗi Ba ngôi hành động ra sao?
8. Trong sự cầu nguyện Ba ngôi hành động ra sao?
9. Trong sự tái sanh Ba ngôi hành động ra sao?
10. Tại sao ta không thể hiểu hết giáo lý Ba ngôi?
LỜI GIỚI THIỆU :
Chúng ta đã học về sự thực hữu của Đức Chúa Trời, về bản tánh và về sự hiệp nhất của Ngài. Ờ xứ Thánh các Danh hiệu khác với chúng ta ở Tây phương và ở Việt Nam.
Trong khi nghiên cứu về các Danh hiệu của Chúa chúng ta học được nhiều điều về Đức Chúa Trời.
I. CÁC DANH HIỆU CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI:
Các tên của Đức Chúa Trời được tìm thấy trong ba hình thức:
1. Tên độc nhất.
2. Tên hợp với chữ EL.
3. Tên hợp với chữ Giê-hô-va.
1. Tên độc nhất: gồm chỉ một chữ: El; Elah; Elohim; Giê-hô-va; Adon; Adon; Adonai; Đức Chúa Trời; Chúa.
2. Tên hợp với El: Đức Chúa Trời toàn năng; Đức Chúa Trời chí cao; Đức Chúa Trời đời đời.
3. Tên hợp với Giê-hô-va: Chúa là Đức Chúa Trời; Giê-hô-va; Chúa đời đời.
Ý nghĩa của các danh hiệu:
1. Elohim: Sáng thế 2:4: Đấng toàn năng: Chúa sáng tạo
2. El Elion: Sáng 14: 22: Đấng tối cao: Chúa sở hữu
3. Adonai: Sáng 15:2: Đấng tể trị: Chúa là thầy chúng ta
4. El Olam: Sáng 21:23: Đấng mầu nhiệm: Chúa khải thị
5. Jireh: sáng 22:14: Đấng cứu chuộc: Chúa sắm sẵn
6. Rophi: Xuất 15:26: Đấng chữa bịnh: Chúa chữa lành
7. Nissi: Xuất 17: 15: Đấng chiến đấu cho chúng ta: Chúa cờ xí tôi
8. Yekaddia: Xuất 31:13: Đấng là sự nên Thánh: Chúa thánh hóa
9. Shalom: Quan xét 6:24: Đấng ban bình an: Chúa hòa bình
10. Sabaoth: 1 Sa-mu-ên 1:3: Đấng sở hữu: Chúa cả đạo quân
11. Sidkeru: Ê-xê-chi-ên: Đấng là công chính: Chúa sự công bình
12. Shammah: Ê-xê-chi-ên 45;35: Đấng hiện diện: Chúa bên cạnh
13. Elion: Thi 7:17: Đấng ban phước: Chúa ban phước
14. Roi: Thi 23:1: đấng chăm sóc: Chúa chăn giữ ta
II. TÌNH CHA CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI :
“Lạy Cha chúng con ở trên trời” (Ma-thi-ơ 6:9). Đây là quan niệm vui mừng nhất của chúng ta về Đức Chúa Trời. Các ngoại giáo không hề biết về Đức Chúa Trời là Cha yêu thương ở trên trời. Các tôn giáo ngoại bang trình bày về Đức Chúa Trời như là một Đấng khủng khiếp tàn bạo và đáng sợ hãi. Kinh thánh trình bày Đức Chúa Trời là Đấng yêu thương, thân thuộc đầy lòng thương xót, để đến gần và để nhờ vả. Chính Chúa Cứu thế đã dạy chúng ta cầu nguyện “Lạy Cha.” Đây là một sự khải thị mới về Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời được khải thị như Cha trong 2 hình thức:
1. Cha của Chúa Jêsus: Giăng 5:17; Giăng 1:14.
2. Cha của kẻ tin Chúa Jêsus: Giăng 1:12.
Người Do thái nghĩ về Đức Chúa Trời như Cha họ theo ý nghĩa thơ ca và dân tộc.
1. Thơ ca: Thi 68:5. Cha của người mồ côi.
2. Dân tộc: Xuất 4:22″ Y-sơ-ra-ên là con Ta, con đầu lòng Ta.”
Dân Y-sơ-ra-ên không có sự ý thức cá nhân về sự làm con Chúa như: “Đức Chúa Trời là Cha của tôi” các nhà Tân phái lý luận “Đức Chúa Trời là Cha tôi,và cha tôi sẽ không làm hại tôi nên tôi cứ chơi bời, ăn uống say sưa và vui vẻ vì Ngài sẽ yêu thương tôi cho đến cùng.”
Giăng 8:44 Chúa Jêsus phán với người Do thái, “Các ngươi bởi Cha mình là ma quỷ mà sanh ra, và các ngươi muốn làm nên sự ưa muốn của Cha mình.” Đức Chúa Trời là Đấng tạo hóa của muôn loài vạn vật, nhưng Ngài chỉ là Cha cho những người ở trong gia đình của Ngài. 2 Cô-rinh-tô 6:17;18.” Ta sẽ làm Cha các ngươi… con trai,con gái của Ta.”Là Cha, Đức Chúa Trời ban sự sống cho con cái Ngài, muốn là con Chúa phải được sanh lại. Là cha Đức Chúa Trời ban tỏ tình yêu cho con cái Ngài, tức là cho những người ở trong gia đình của Đức Chúa Trời. Mối liên hệ nầy là tình phụ tử, chứ không phải là mối liên hệ chủ tớ.
Chúa là Cha, Ngài nghe và trả lời sự cầu nguyện của ta, Ngài cũng sửa dạy và đối xử với chúng ta như người cha thật đối với con.
III. SỰ YÊN LẶNG CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI:
Trong những giờ phút khó khăn, con người hay lý luận “Nếu có một Đức Chúa Trời là Cha yêu thương, tại sao Ngài nín lặng? Tại sao ngài cho phép việc nầy xảy ra? Tại sao Ngài không ngăn cản được?”
Tại sao Ngài không ngăn ngừa những vụ nổ thảm khốc, những tai nạn thiên tai, chiến tranh?. Người không tin sự thực hữu của Chúa hay lý luận về sự yên lặng của Đức Chúa Trời, đó là vấn đề lớn nhất của thời đại chúng ta. Gióp 23:3;4 “Ôi! chớ chi tôi biết nơi nào tìm được Chúa,hầu cho đi đến trước tòa của Ngài, tôi hẳn sẽ giãi bày duyên cớ tôi trước mặt Ngài và làm đầy miệng tôi những lý luận.” Thi 28:1 “Hỡi Đức Giê-hô-va, tôi kêu cầu Ngài, hỡi Hòn đá tôi, chớ bịt tai cùng tôi, kẻo nếu Ngài làm thinh với tôi, tôi phải giống như kẻ xuống huyệt chăng.”
Con người đã sáng chế ra một số câu trả lời cho vấn đề xưa cũ nầy bằng các chữ nghĩa.
1. Thần luận: Đức Chúa Trời là Đấng tốt lành, nhưng Ngài không có thì giờ chăm sóc từng chi tiết của đời sống. Đức Chúa Trời chỉ là quan sát viên của sinh hoạt đời sống nầy mà thôi.
2. Vô thần: sự yên lặng chứng tỏ Đức Chúa Trời chỉ là một huyền thoại, một Đức Chúa Trời hằng sống phải lên tiếng chứ.
3. Duy vật; Thế giới được tể trị bởi các quy luật, không có Đức Chúa Trời nào cả. Thuyết nầy dạy rằng chúng ta được thương xót nhờ sự tình cờ, mù quáng. Khước từ Đức Chúa Trời và Kinh thánh chỉ đưa con người đến sự tối tăm càng ngày càng hơn.
Vậy tại sao Đức Chúa Trời im lặng? Một số câu trả lời phù định được đưa ra.
1. Tại Chúa vô tình: Đấng Christ trên thập tự giá kêu “Đức Chúa Trời tôi ôi: Đức Chúa Trời tôi ôi: sao Ngài lìa bỏ tôi “Thật ra, Đức Chúa Trời quan tâm đến linh hồn nhân loại chúng ta đến nỗi Ngài tiếp tục để cơn thạnh nộ trên Con Ngài.
2. Chúa không quan sát tới: Điều nầy đi ngược lại với sự toàn tri của Đức Chúa Trời.
3. Chúa không yêu thương: Cha mẹ thực sự yêu con sẽ sửa phạt con. (Hê-bơ-rơ 12:7;8)
4. Chúa không muốn: Ngài thấy sự cuối cùng từ lúc đầu tiên, và hoạch định cả cuộc đời chúng ta.
Nếu các câu trả lời phủ định nầy là sai, thì câu trả lời đúng ở đây là gì?
1. Quan điểm chung: Một số lớn các khó khăn xảy ra là kết quả tất nhiên hoàn toàn do con người bất cẩn, điên rồ, từ khước luật tự nhiên, chẳng hạn như các tai nạn. Ga-la-ti 6:7 “Ai gieo giống chi lại gặt giống ấy.”
2. 2. Quan điểm kỉnh kiền: Trí óc hạn hẹp của tôi lại chất vấn công việc của Đức Chúa Trời toàn năng liệu có được không? Ê-sai 55:8 không nghi ngờ gì nữa về kế hoạch của Đức Chúa Trời, cho dầu đời sống của tôi bao gồm cả sự đau khổ buồn bã.
3. Quan điểm triết lý: Ý chí tự do của con người liên hệ đến các hậu quả của hành động mình. Sự tự do của con người có nghĩa là con người có trách nhiệm đạo đức, ví dụ tà dâm đưa đến bệnh giang mai.
4. Quan điểm người yêu: Đức Chúa Trời là người yêu hay ghen. Xuất 20:5 Ngài muốn chúng ta li dị với tất cả mọi sự và khiến chúng ta gắn bó với Ngài.
5. Quan điểm về mạng Trời: Đây là thời đại của con người,thời đại của tội lỗi, thời đại của ân điển, khi Đức Chúa Trời vẫy tay mời gọi “Hãy ăn năn về nhà”,nhưng một ngày phán xét sẽ đến và khi sự yên lặng của Đức Chúa Trời sẽ chấm dứt với sự định tội công khai, Đức Chúa Trời sẽ tính sổ với con người và mối liên hệ của họ với Đức Chúa Trời cùng với xã hội.
6. Quan điểm đức tin: Giăng 13:7″ Việc Ta làm bây giờ con chưa biết nhưng về sau con sẽ biết.” Chúa dạy tôi phải kiên nhẫn chờ đợi.
7. Thử thách đức tin tôi: 1 Phi-e-rơ 1:7 Sự thử thách đức tin sanh ra.
8. Công việc mầu nhiệm của Đức Chúa Trời: Giăng 9:3 “Chúa phán không phải tội lỗi của cha, hay của ai nhưng để việc Đức Chúa Trời được tỏ ra.”Đây là câu chuyện của người bị mù từ thuở sanh ra. Tôi có thể chịu khổ không phải vì tội tôi, nhưng để làm một ơn phước cho người khác. Chỉ những người đã từng trải sự đau khổ mới an ủi người khác được.
Kết luận:
Chúng ta hãy sống trong ý thức về sự hiện diện của Đức Chúa Trời dần Ngài dường như yên lặng. Hãy học cách suy nghĩ một cách xác định. Tôi biết Đức Chúa Trời, tôi nói chuyện với Ngài hôm nay, Ngài đã phán với tôi qua lời hằng sống của Ngài, Ngài phán qua sự trả lời cầu nguyện tôi. Chúng ta hãy sống theo hiểu biết mà chúng ta có về Chúa. Cẩn thận để ý Rô-ma 1:21 “Họ dầu biết Đức Chúa Trời mà không làm sáng Danh Ngài.”rồi hãy đọc tiếp Rô-ma 1:24 -32. Ma-thi-ơ 11:27 dạy rằng công việc Chúa Con là giãi bày Cha cho chúng ta biết.
Giờ tĩnh nguyện là cơ hội của chúng ta làm sâu sắc thêm sự quen biết của chúng ta với Chúa.Thi 46:10 “Hãy yên lặng và biết rằng Ta là Đức Chúa Trời.”
Câu hỏi:
1. Đưa ra 3 tên Đức Chúa Trời và ý nghĩa tên đó.
2. Quan niệm vui sướng nhất của chúng ta về Đức Chúa Trời.
3. Giá trả cho mối liên hệ vui tươi với Đức Chúa Cha là gì?
4. Có phải sự yên lặng của Chúa chứng tỏ Chúa vô tình hoặc Ngài không có thật? tại sao.
5. Lý thuyết của Thần luận là gì?
6. Liệt kê 3 câu trả lời sai của con người giải thích về sự yên lặng của Đức Chúa Trời.
7. Thuyết duy vật giải thích thế nào về sự yên lặng của Đức Chúa Trời.
8. Đưa ra 5 lý do khả dĩ hiểu được về sự yên lặng của Đức Chúa Trời?
9. Làm thế nào để tôi ý thức về Đức Chúa Trời càng hơn?
10. Giờ tốt nhất để đào sâu mối quen biết với Đức Chúa Trời là khi nào?
LỜI GIỚI THIỆU:
Đây từng là đề tài hấp dẫn tôi trong suốt 10 năm qua, nhưng tôi chưa hề hoàn tất được một bài học đầy đủ về đề tài sống động nầy. Dường như có một loại kính sợ đúng và một loại kính sợ sai.
Một trong những sứ điệp quí báu của Kinh thánh là “Đừng sợ”. Được dùng khoảng 50 lần. Sáng 26:24; Xuất 14:13; Ê-sai 43:1; Lu-ca 2:10; Lu-ca 12:32; Công vụ 27:24; Khải 1:17. Ngoài ra cũng có các lời khác, giống như lời Chúa Jêsus phán “Ấy là Ta đây, đừng sợ” (Giăng 6:20). Nhưng bài học nầy nói về sự sợ khác – Sự kính sợ Chúa mà chúng ta phải có (Gióp 28:28) “Sự kính sợ Chúa ấy là khôn ngoan” (Gióp 28:28) . “Kính sợ Đức Giê-hô-va là trong sạch, hằng còn đến đời đời” (Thi 19:9), Người cai trị phải công bình, cai trị trong sự kính sợ Chúa (II Sa 23:3).
Thiếu sót sự kính sợ nầy dẫn đến tội lỗi, bối rối và cuối cùng là thảm họa.
Sáng 20:11. Ápraham phạm tội vì nghĩ rằng trong xứ nầy không có ai kính sợ Chúa.
Rôma 3:18 ” Trước mặt họ không có sự kính sợ Chúa đó là bức tranh hư hoại của loài người.
I. Ý NGHĨA SỰ KÍNH SỢ CHÚA: (Châm 14:26-27)
Có phải là sự run rẫy thể xác khi bạn đứng trước sự hiện hữu của Đấng toàn năng không? Tấn sĩ C.I.Scofield định nghĩa như sau: “Sự kính sợ Chúa là Tin cậy kỉnh kiền với sự oán ghét điều ác”.
Sự kính sợ Chúa có nghĩa là kỉnh kiền, nó được dùng để diễn tả bổn phận tín ngưỡng của chúng ta với Đức Chúa Trời.
Phục 4:10 “… hầu cho tập kính sợ Ta đương lúc họ còn sống nơi thế thượng…”. Điều nầy không phải là cái gì ta tự nhiên thừa kế, ta phải dạy dỗ cho con cái và dân chúng qua mỗi thế hệ biết kính sợ Chúa. Sự kính sợ là điều Đức Chúa Trời đòi hỏi mỗi cá nhân chúng ta. Đó là mục đích của sự sáng tạo.
– Phục truyền 6:13 ” Ngươi phải kính sợ Đức Chúa Trời ngươi và hầu việc Ngài “.
– Truyền đạo 1213 ” Khá kính sợ Đức Chúa Trời và giữ các điều răn Ngài, ấy là trọn phận sự ngươi “.
II. NHỮNG ĐIỀU CHÚNG TA KHÔNG NÊN SỢ:
– Chúng ta không nên sợ các hình tượng và các thần khác. (IIVua 17:38).
– Chúng ta không nên sợ người, ISam 15:24, Châm 29:25, chúng ta chỉ kính sợ Đức Chúa Trời thôi.
– Chúng ta không sợ các thiên tai địa họa vì đó là dấu chỉ ngày Chúa sắp trở lại. Luca 21;25-28.
– Tín đồ thật không sợ các hình phạt tương lai. Hêb 10:27.
– Chúng ta không nên sợ những sự lo âu buồn bã như người đời sợ. Gióp 15;24, nhưng là tín hữu ta phải giao những lo âu mình cho Chúa IPhi 5:7.
– Chỉ có sự kính sợ Thánh là sự kính sợ Chúa mà thôi.
III. KÍNH SỢ CHÚA LÀ MẠNG LỆNH:
– Phục 13:14.
– IPhi 2:17.
– Thi 22:23.
– Công 9:31.
– Công 10:2.
– IICôr 7:1.
IV.MÔ TẢ SỰ KÍNH SỢ CHÚA:
1. Ghét điều ác. Châm 8:3.
2. Đó là sự khôn ngoan. Thi 111:10.
3. Đó là kho báu. Châm 15:16, Êsai 33;6.
4. Đó là nguồn sống. Châm 14:27.
5. Đó là sự tinh sạch. Thi 19:9(nên thánh).
6. Còn lại đời đời. Thi 19:9.
7. Đó là sự kỉnh kiền. Hêb 12;21.
V. CÁC ĐỘNG CƠ KHIẾN CHÚNG TA KÍNH SỢ CHÚA:
1. Sự thánh khiết của Đức Chúa Trời khiến ta kính sợ Ngài. Khải 15:4.
2. Sự vĩ đại của Đức Chúa Trời khiến ta kính sợ Ngài. Phục 10:12-17.
3. Sự nhân lành của Đức Chúa Trời khiến ta kính sợ Ngài. ISam 12:24.
4. Sự tha thứ của Đức Chúa Trời khiến ta kính sợ Ngài. Thi 130:4.
5. Các công việc lạ lùng của Đức Chúa Trời khiến ta kính sợ Ngài. Giô suê 4:23,24.
6. Sự phán xét sắp đến khiến ta kính sợ Chúa. Khải 14:7.
VI.SỰ KÍNH SỢ ĐỨC CHÚA TRỜI LÀ CẦN THIẾT:
1. Cần thiết trong sự thờ phượng. Thi 5:7.
2. Cần thiết trong sự phục vụ. Thi 2:11.
3. Cần thiết để giữ mình khỏi tội. Xuất 20:20.
4. Cần thiết để cai trị tốt. IISam 23:3.
5. Cần thiết để xét xử công bình.IISử 19:6-9.
6. Cần thiết cho sự nên thánh trọn vẹn trong đời sống CĐN. IICôr 7:11.
VII. NHỮNG KẾT QUẢ CỦA SỰ KÍNH SỢ CHÚA:
1. Đem lại sự hài lòng cho Đức Chúa Trời. Thi 147:11.
2. Khiến Chúa thương xót thêm con cái Ngài. Thi 103:13.
3. Đem lại sự chấp nhận của Đức Chúa Trời. Công 10:35.
4. Đem lại sự thương xót của Đức Chúa Trời. Thi 103:17, Luca 1:50.
5. Đem lại phước hạnh Thi 112:1.
6. Đem lại tin cậy Thi 14:26.
7. Đem lại sự tránh xa tội lỗi. Châm 16:6.
8. Đem lại sự thông công Cơ đốc. Math 3:16.
9. Thắng được sự sợ loài người. Êsai 8:12,13.
10. Đem lại sự nhậm lời cầu nguyện. Thi 145:19.
11. Đem lại sự sống lâu. Châm 10:27.
KẾT LUẬN:
Chúng ta hãy cầu nguyện xin Đức Chúa Trời dạy chúng ta kính sợ Ngài. Thi 86:11; Châm 15:16; 19:23.
Câu hỏi ôn:
1. Định nghĩa sự kính sợ Chúa.
2. Chúng ta học gì về kính sợ Chúa trong Phục 4:10?
3. Hai mục đích của con người theo Tuyền đạo 12:13 là gì?
4. Ghi 4 điều ta không nên sợ.
5. Ghi ra 2 câu kinh thánh chứng tỏ chúng ta phải kính sợ Chúa. (1 trong cựu ước, 1 trong tân ước ).
6. Ghi 7 lời mô tả về sự kính sợ Chúa.
7. Đưa ra 5 động cơ khiến ta kính sợ Chúa.
8. Tại sao kính sợ Chúa là cần?
9. Đưa ra 10 kết quả của sự kính sợ Chúa.
10. Chúng ta học được gì trong Thi 86:11?
Từ lâu lắm trước khi Chúa Jêsus ra đời đã có các lời tiên tri nói Ngài sẽ đến. (Sáng 3:15). Chúa Jêsus đến trần gian không phải là không có báo trước, Ngài đã đến khi “kỳ hạn đã được trọn ” (Ga-la-ti 4:4). Sự nghiên cứu lời tiên tri ứng nghiệm khích lệ đức tin chúng ta nơi Đức Chúa Trời.Ngài không chỉ là Đấng hoạch chương trình mà còn là Đấng hoàn tất mọi chương trình. Ngoài ra, nhìn thấy các lời tiên tri được ứng nghiệm từng chi tiết tăng cường đức tin chúng ta nơi Kinh thánh là Lời được Linh cảm, và chứng tỏ rằng Kinh thánh chỉ có một tác giả duy nhất là Đức Chúa Trời. Cho rằng tất cả những điều này chỉ là một sự xảy ra tình cờ thì thật là một biến cố quá lớn lao vượt quá trí tưởng tượng của một nhà tiến hóa. Con cái Đức Chúa Trời được Thánh Linh cảm động vui vẻ chấp nhận lời chứng của Kinh thánh với tiếng kêu thần phục như Thô-ma “Lạy Chúa tôi và Đức Chúa Trời tôi.”
Đức tin chúng ta được thắt lưng bằng các chứng cớ của lời tiên tri được ứng nghiệm, sẽ đứng vững không hề lay đổ.
I. CÁC LỜI TIÊN TRI LIÊN HỆ ĐẾN NGUỒN GỐC CỦA CHÚA JÊSUS CHRIST.
1. Đấng Christ xuất thân từ nước Do Thái. (Dân số 24:17-29; Ma-thi-ơ 1:1-17).
2. Đấng Christ sanh ra trong nhà Đa-vít thuộc chi phái Giu-đa. (Sáng 49:10; Ê-sai 11:1; Lu-ca 1:31-33).
3. Đấng Christ sanh ra tại Bết-lê-hem. (Mi-chê 5:2; Lu-ca 2:4-7).
4. Đấng Christ sanh ra do nữ đồng trinh. (Ê-sai 7:14; Ma-thi-ơ 1:18. 22. 23).
5. Thời gian Đấng Christ giáng sinh đã báo trước. (Đa-ni-ên 9:24 -26). Đấng Christ bị đóng đinh 490 năm sau khi tái thiết đền thờ Giê-ru-sa-lem. Đấng Christ bị đóng đinh đúng thời hạn, không ai đến trước hoặc đến sau Ngài có thể gọi là Đấng cứu thế.
6. Sự xuất hiện của Ngài Được một người dọn đường loan báo. (Ê-sai 40:3 ứng nghiệm nơi Giăng Báp-tít Ma-thi-ơ 3:3).
7. Đấng Mê-si phải là Đức Chúa Trời - Ê-sai 9:6 -Chúa Jêsus là Đức Chúa Trời Giăng 1:14.
II. NHỮNG LỜI TIÊN TRI LIÊN HỆ ĐẾN CUỘC ĐỜI CỦA CHÚA JÊSUS CHRIST:
1. Ngài sẽ ở một thời gian tại Ai-cập. Ô-sê 11:1 ứng nghiệm Ma-thi-ơ 2:13-15.
2. Ngài chịu khổ và đền tội. Ê-sai 53:4-6 ứng nghiệm II Cô-rinh-tô 5:21.
3. Ngài sẽ vào thành Giê-ru-sa-lem bằng con lừa. Xa-cha-ri 9:9 ứng nghiệm Ma-thi-ơ 21:2-5.
4. Ngài nếm giấm trên thập giá. Thi 69:21; Ma-thi-ơ 27:34.
5. Không bị gãy xương nào, ngược với phong tục của người La-Mã đánh gãy xương chân người bị đóng đinh. Thi 34:20. Không một chiên con lễ vượt qua nào bị gãy xương Xuất 12:46, ứng nghiệm Giăng 19:33-36.
6. Người ta bắt thăm áo dài Chúa Thi 22:18; Ma-thi-ơ 27:35.
7. Chúa kêu mấy tiếng trên thập giá. Thi 22:1; Mác 15:34.
8. Ngài sống lại từ kẻ chết. Thi 16:10; Công vụ 2:3.
III. ĐỜI SỐNG ĐẤNG CHRIST:
1. Chúa Jêsus vốn là Đức Chúa Trời hằng hữu từ trước vô cùng.
2. Sự sanh ra của Chúa Jêsus bởi trinh nữ Ma-ri được chép bởi cả Ma-thi-ơ và Lu-ca.
3. Chúa Jêsus được cắt bì ngày thứ 8 Lu-ca 2:21.
4. Chúa Jêsus được đưa lên đền thờ tại Giê-ru-sa-lem khi Ngài lên 12 tuổi (Lu-ca 2:41-48).
5. Chúa Jêsus là nghề thợ mộc ở Na-xa-rét. (Mác 6:3).
6. Chúa Jêsus bắt đầu chức vụ ở Giu-đê, Sa-ma-ri và Ga-li-lê. Thời gian này kéo dài 6 tháng.
7. Phép lạ thứ I của Chúa Jêsus thực hiện tại Ca-na xứ Ga-li-lê Giăng 2:1), và phép lạ thứ 2 chữa lành con ông quan ở Ca-bê-na-um. (Giăng 4:46-54).
8. Giai đoạn thứ nhì trong chức vụ của Chúa Jêsus kéo dài từ 6 đến 8 tháng tại Ca-bê-na-um và Ga-li-lê, Ngài thi hành phép lạ, chữa bệnh và giảng tin lành.
9. Giai đoạn thứ 3 ở xứ Ga-li-lê kéo dài một năm, ở trong và ngoài xứ Ga-li-lê đám đông theo Ngài, Ngài giảng trên núi. (Ma-thi-ơ 5:6,7).
10. Trong Giai đoạn kế tiếp người Pha-ri-si tìm bắt hại Ngài. Chúa Jêsus trải qua Ca-bê-na-um, Phê-ni-xi, Bết-sai-đa, Sê-sa-rê Phi-líp và cuối cùng trở lại xứ Ga-li-lê.
11. Sáu tháng cuối cùng Ngài dùng để dạy dỗ, Giảng đạo và lưu hành.
12. Tuần lễ cuối cùng, Chúa nhật lễ lá, lễ tiệc thánh, Ghết-sê-ma-nê, tại cuộc xét xử và sự hy sinh.
13. Ba ngày sau, theo lời tiên tri, Chúa Jêsus đã sống lại từ trong kẻ chết.
14. 40 ngày sau khi sống lại Chúa Jêsus thăng thiên cách thấy được và bằng thân thể phục sinh của ngài (Công 1:10-11).
IV.CÁC PHÉP LẠ CỦA CHÚA JÊSUS:
Một phép lạ là sự thực hiện một việc quyền năng bằng luật siêu nhiên thay vì luật tự nhiên. Luật tự nhiên là luật của quả đất, của thiên nhiên, chỉ có Đức Chúa Trời mới có thể làm những việc lạ lùng trái với luật tự nhiên này.
Nếu Chúa Jêsus thực sự thực hiện các phép lạ thì Ngài phải là một Đức Chúa Trời, vì một người thường không ai làm được thế.Chúa Jêsus làm phép lạ không phải để khoe khoang hay là để giải trí, nhưng để chứng minh thần tánh của Ngài và khiến người ta tin Ngài, tin sứ điệp và tin chính mình Ngài (Giăng 2:11;20:31).Chúa Jêsus đã thực hiện các phép lạ trên thiên nhiên, Ngài khiến biển sóng yên lặng, Ngài có thể đi trên mặt nước (Ma-thi-ơ 8:26,27;14:25). Chúa Jêsus thực hành phép lạ trên ma quỷ (Mác 5:12,13, Ma-thi-ơ 8:28-32).Chúa Jêsus thi hành phép lạ trên bịnh tật: làm sạch phung, khiến người què đi được, người mù thấy được, người điếc được nghe, người sốt rét dứt cơn (Ma-thi-ơ 8:3;12:10-13). Chúa làm phép lạ trên sự chết, Ngài khiến người chết sống lại (Giăng 11:14; Ma-thi-ơ 9:23-25; Lu-ca 7:12-15). Các phép lạ của Chúa Jêsus thật đơn giản và hoàn toàn đáng tin..
Phép lạ của Chúa còn thực hiện cách công khai trước sự hiện diện của nhiều nhân chứng và được Kinh thánh ghi chép lại cho ta tin.
KẾT LUẬN :
Đời sống của Chúa Jêsus có thể gồm tóm lại trong câu Kinh thánh Công 10:38 “Ngài đi từ nơi nọ qua chỗ kia làm phước và chữa lành hết thảy những người bị ma quỷ ức hiếp, vì Đức Chúa Trời ở cùng Ngài.”
Chúa Jêsus để lại cho chúng ta một gương hầu cho chúng ta noi theo 1 Phi-e-rơ 2:21, chúng ta phải bước đi như Ngài đã bước đi 1 Giăng 2:6. Chúa Jêsus đã đến để làm theo ý chỉ của Đức Chúa Trời, chúng ta cũng phải làm theo ý Cha. Giăng 8:28; Hê-bơ-rơ 10:7.
Câu hỏi ôn:
1. Tại sao Chúa Jêsus giáng thế không phải là việc đáng ngạc nhiên?
2. Chúa Jêsus đến từ dân tộc nào? chi phái nào?
3. Đấng Mê-si đến khi nào?
4. Có phải tình cờ Chúa nếm giấm trên thập giá?
5. Ý nghĩa câu kinh thánh Giăng 19:34.
6. Lời tiên tri về sự phục sanh của Chúa trong cựu ước là gì?
7. Hai phép lạ đầu tiên của Chúa là gì?
8. Giăng 14,15,16, kể lại thời điểm nào trong cuộc đời Chúa Jêsus?
9. Phép lạ là gì? Tại sao Chúa Jêsus làm phép lạ?
10. Đưa ra 3 câu Kinh thánh mô tả cuộc đời Chúa Jêsus sống trên đất.
LỜI GIỚI THIỆU:
Trong bài học trước chúng ta học biết Chúa Jêsus là thần. Ngài là con Đức Chúa Trời. Trong câu chuyện giáng sinh, chúng ta học biết Đức Chúa Jêsus đã trở thành người- mặc lấy hình thể loài người. (Phi 2:5-8). Chúng ta tin rằng vì cớ tội lỗi của A-đam mọi người sanh ra sau đó đều mang bản tính tội lỗi của tổ tông truyền lại. Vậy làm thế nào mà Chúa Jêsus sinh ra mà không phải mang bản tính tội lỗi.
Thi 51:5 “Kìa tôi sinh ra trong sự gian ác…”
Thi 58:3 “Kẻ ác bị sai lầm từ trong tử cung, chúng nó nói dối lầm lạc từ khi mới lọt lòng mẹ ”
Nếu Đấng Christ thừa hưởng bản tính tội lỗi thì Ngài là tội nhân và chết mất và tội lỗi mình, cho dù Đấng Christ sống một đời vô tội Ngài cũng không thể cứu rỗi được một linh hồn nào. Nếu Đấng Christ được sinh ra mà không mang bản tánh tội lỗi, thì làm thế nào có được như thế?
Đức Chúa Cha đã giải quyết nan đề này bằng việc mà ta gọi là sự Giáng sinh bởi nữ đồng trinh. Sự mầu nhiệm nầy cần được các cơ đốc nhân tin tưởng, tôn kính và tiếp nhận. Câu trả lời hợp lý duy nhất với nan đề này là bản tính tội lỗi được di truyền từ người Cha sang người con chứ không phải từ người mẹ sang người con. Chúa Jêsus không có cha là người vì Đức Thánh Linh chính là Cha Ngài. Bà Ma-ri là mẹ nhưng không truyền bản tính tội lỗi cho Hài nhi Jêsus.
Thật lạ lùng thay Đức Chúa Trời chúng ta là Đấng đã giải quyết nan đề nầy, ngõ hầu chúng ta có được Đấng Cứu thế có khả năng thực sự cứu chuộc chúng ta khỏi tội lỗi qua sự Ngài hy sinh đền tội trên thập tự giá.
I. CỰU ƯỚC DỰ BÁO VỀ SỰ GIÁNG SINH BỞI NỮ ĐỒNG TRINH:
– Sáng 3:15 là lời hứa đầu tiên về Đấng cứu chuộc ban cho loài người sau khi tổ phụ chúng ta sa ngã.
– Sáng 12:1-3 Đức Chúa Trời kêu gọi Áp-ra-ham là cha của tuyển dân Y-sơ-ra-ên.
-Sáng 49:10 Phước hạnh nầy được ban cho qua chi phái Giu-đa.
– 2 Sa-mu-ên 7:8-16 Đấng cứu thế phải sanh ra trong dòng vua Đa-vít, là “con vua Đa-vít ”
– Ê-sai 7:14 “Nầy một nữ đồng trinh sẽ chịu thai và sanh một con trai, và người ta sẽ đặt tên con trai đó là Em-ma-nu-ên “Ma-thi-ơ 1:23.
– Ê-sai 9:6.
II. LỜI TIÊN NẦY ỨNG NGHIỆM TRONG LỊCH SỬ:
Ma-thi-ơ 1:18-25 tường thuật chuyện giáng sinh bời trinh nữ giống như Lu-ca 2:4-7, Ma-ri được hứa gả cho Giô-sép nhưng chưa thành hôn. Đấng Christ được sinh ra bởi một trinh nữ nhưng là một trinh nữ đã hứa gả ngõ hầu nàng có thể được thành hôn sau này để bảo vệ thanh danh của nàng.
Sự thọ thai của Ma-ri là hoàn toàn từ Đức thánh Linh chứ không do Giô-xép hoặc bất cứ ai khác. Đức Chúa Trời bảo đảm điều này để ban cho chúng ta một Đấng cứu thế toàn vẹn. Chúa đã khuyến khích Giô-xép cưới Ma-ri làm vợ để bảo vệ nàng khỏi sự nghiêm khắc của luật pháp (Lê-vi ký 20:10). Ma-thi-ơ 1:25 kể lại cho chúng ta biết rằng dầu Giô-xép và Ma-ri cưới nhau rồi nhưng họ không hề ăn ở với nhau như vợ chồng cho đến khi sinh Chúa Jêsus. Đức Chúa Trời quan tâm đặc biệt đó đưa câu Kinh thánh nầy với đầy chi tiết cần thiết, đẻ tỏ cho chúng ta biết rằng Đấng cứu thế không bị ô nhiễm bởi một người cha là người trần gian.
III. KINH THÁNH DẠY VỀ SỰ GIÁNG SINH BỞI TRINH NỮ:
Một số người cố gắng chủ trương rằng Phao-lô không dạy về việc Đấng Christ giáng sinh bởi trinh nữ. Đúng ra, Phao-lô không dùng lời diễn đạt như từ liệu nầy, nhưng Phao-lô đã biết về Đấng Christ phục sanh trong I Cô-rinh-tô 15:8 và thừa nhận Ngài là Đấng làm ứng nghiệm Ê-sai 7:14. Phao-lô đã viết trong Cô-lô-se 1:15-17 trình bày một bức tranh về sự cao cả của Chúa Jêsus Christ. Tiên tri Ê-sai đã tiên tri về việc Đấng Christ Giáng sinh bởi nữ đồng trinh từ 740 năm,trước khi việc nầy xảy ra. Ma-thi-ơ đã chép rõ ràng rằng Chúa Jêsus được sinh bởi nữ đồng trinh, thọ thai bởi Đức Thánh Linh Ma-thi-ơ 1:18,20,23. Lu-ca một bác sĩ y khoa, rất quan tâm đến hiện tượng nầy, mọi trẻ em đều có cha, ai là cha của hài nhi Jêsus?
Nếu cha của Ngài là người thường thì Ngài mang bản tính tội lỗi và chúng ta vẫn còn mang tội lỗi.
Lu-ca giải thích rất cẩn thận về sự thọ thai phi thường nầy trong Lu-ca 1:27,31,34,35.
Lu-ca 1:34 Ma-ri hỏi thiên sứ câu hỏi đầy tình cảm, làm thế nào tôi có con được khi tôi chưa lấy chồng? Điều nầy là lời tự thú của Ma-ri chưa hề chăn gối và nàng vẫn còn đồng trinh.
Lu-ca 1:35 Thiên sứ cẩn thận giải thích rằng Đức Thánh Linh sẽ là cha của Hài nhi Jêsus.
IV. MỤC ĐÍCH SỰ GIÁNG SINH BỞI TRINH NỮ:
1. Để giãi bày Cha. Giăng 1:18 Chúa Jêsus đến để giãi bày Cha cho chúng ta.
2. Để nối nhịp cầu đứt đoạn giữa Đức Chúa Trời và loài người. 1 Ti-mô-thê 2:5.
3. Để cứu vớt nhân loại Hê-bơ-rơ 2:14,16, đây là mục đích chính đưa Jêsus Giáng thế.
4. Để giải thoát toàn bộ công trình sáng tạo. Rô-ma 8:19-22 V.TẦM QUAN TRỌNG CỦA
V. TÍN LÝ GIÁNG SINH BỞI TRINH NỮ:
Ngày nay, các nhà thần học Tân phái và các nhà vô tín tấn công Giáo lý này, cũng như họ tấn công Giáo lý về sự hư hoại hoàn toàn của nhân loại,về Thần tánh Chúa Jêsus và về sự hà hơi của Thánh Kinh.
Nếu loài người hoàn toàn hư hoại thì họ mới cần một Đấng cứu thế để giải cứu họ. Đấng giải cứu này phải là người Thánh và có khả năng Chúa Jêsus chính là Chúa cứu thế duy nhất của nhân loại. Phương cách duy nhất để Chúa Jêsus trở thành người mà không mang bản tánh tội lỗi, ấy là Ngài phải được sanh ra bởi trinh nữ. Một trinh nữ là một thiếu nữ chưa hề ăn ở với một người đàn ông nào. Ma-ri vẫn là một trinh nữ cho đến sau khi sanh Chúa Jêsus. Sau đó, Ma-ri và Giô-xép đã sống với nhau như chồng và vợ.
Sự cứu rỗi gắn chặt với giáo lý này. Nếu Chúa Jêsus không sanh ra bởi trinh nữ, Ngài vẫn là tội nhân như chúng ta và không thể cứu chúng ta ra khỏi tội, chúng ta vẫn hư mất.
1. Đây là lẽ thật không thể chối bỏ. Đây là điều Kinh thánh dạy cách rõ ràng. Chúng ta tin nhận sự hà hơi của Thánh kinh và chúng ta tin rằng sự dạy dỗ này là tuyệt đối thật.
2. Đây là chân lý không thể thay đổi. Giáo lý này đứng vững với Thánh Kinh và không thay đổi theo thời gian,theo tư tưởng hay theo lý thuyết của loài người (Hê-bơ-rơ 13:8).
3. Đây là một lẽ thật cần kíp. Giáo lý này thiết cho kế hoạch cứu rỗi. Một Cứu Chúa không sinh ra bởi trinh nữ không thể cứu được một linh hồn nào.
4. Đây là một Lẽ thật không thể nhận biết hết được. Đây là một mầu nhiệm kín dấu trong Đức Chúa Trời. Có thể nói sự sống và sự sinh sản cũng là một sự mầu nhiệm. Làm thế nào một cây truyền sự sống vào hạt của nó ngày nay vẫn còn là sự mầu nhiệm đối với chúng ta. I Cô-rinh-tô 4:1 là Cơ đốc nhân chúng ta là những người quản lý “các sự mầu nhiệm của Đức Chúa Trời.”
5. Đây là Lẽ thật vô điều kiện. Tôi tin rằng Lẽ thật phải được mỗi chúng ta thừa nhận vô điều kiện. Rô-ma 10:9, chúng ta phải thừa nhận Jêsus là Chúa, và nếu Ngài không sinh bởi trinh nữ Ngài không thể là Chúa Cứu thế vì Ngài phá bỏ lời tiên tri trong Kinh thánh.
6. Đây là Lẽ thật hữu ích, vì Đức Chúa Trời toàn năng bây giờ đã nhập thể với đủ tư cách một con người, vả lại là người vô tội, không mang bản tính tội lỗi, một người có thể cứu vớt người khác. Em-ma-nu-ên nghĩa là Đức Chúa Trời ở cùng chúng ta. Điều này đã thành hiện thực vì Đức Chúa Trời đã đến sống trên quả đất với chúng ta.
7. Đây là Lẽ thật không thể loại bỏ được, vì hằng năm chúng ta đều nhắc đến qua Lễ Giáng sinh. Chúng ta phải không ngừng dạy dỗ Lẽ thật này cho thế giới ngày nay.
VI. Ý NGHĨA SỰ GIÁNG SINH BỞI TRINH NỮ :
Chúa Jêsus Christ không phải là một con ma, Ngài là người thật bằng xương bằng thịt. Phi 2:7 Ngài trở thành anh cả chúng ta. Chúa Jêsus cũng là Đức Chúa Trời vì Ngài đầu thai bởi Thánh Linh. Jêsus Christ là vô tội vì Ngài sanh bởi trinh nữ không mang bản tính sa ngã hư hoại của con người. Ngài không nhiễm nguyên tội.
VII. NHỮNG SỰ CHỐNG ĐỐI GIÁO LÝ NẦY :
1. Giáo lý này chỉ tìm thấy được trong vài câu Kinh thánh. Thật ra một câu Kinh thánh xác định cũng đủ, nhưng ở đây cả Ê-sai, Ma-thi-ơ và Lu-ca đều xác quyết.
2. Chính Chúa Jêsus không hề tự tuyên bố Ngài sanh ra bởi trinh nữ. Đúng ra, Chúa ngụ ý trong Giăng 6:51 “Ta là bánh từ trời xuống.”
3. Các khoa học gia không chấp nhận việc này vì nó ngược lại với quy luật sinh học. Chúa Jêsus không đến bằng sự thụ thai bình thường mà bằng một phép lạ.
4. Những người khác chống lại giáo lý này vì cho rằng nó mầu nhiệm quá. Thật ra, sự sống là một phép lạ, kỳ diệu mầu nhiệm.
5. Các thần học gia hiện đại không thừa nhận tín lý này. Điều này không làm thay đổi sự thật vì Kinh thánh đã dạy đến bằng lời tiên tri và bằng lịch sử có thật.
KẾT LUẬN:
Chúng ta tạ ơn Đức Chúa Trời ví Ngài đã tìm cách đưa Đấng Cứu thế vào thế gian mà không nhiễm nguyên tội tổ tông. Hãy dạy giáo lý mãi mỗi lần đến lễ Giáng sinh.
Câu hỏi ôn:
1. Tại sao Chúa Jêsus không nhiễm bản tính tội lỗi? (Thi 51:5).
2. Lời hứa đầu tiên về Chúa Cứu thế trong Kinh thánh được chép ở đâu?
3. Lời tiên tri Cựu ước về sự sanh bởi trinh nữ ở đâu?
4. Lời tiên tri này ứng nghiệm ra sao?
5. Bốn mục đích sự sanh bởi trinh nữ là gì?
6. Hậu quả việc từ khước thần tánh Đấng Christ và sự giáng sinh bởi trinh nữ của Ngài?
7. Tại sao mầu nhiệm này không thể hiểu cách trọn vẹn?
8. Sợi dây nối liền sự sống động giữa thần tánh Đấng Christ và sự ra đời bời trinh nữ của Ngài là gì?
9. Khía cạnh thực tế của giáo lý này đối với chúng ta ngày nay ra sao?
10. Tại sao các nhà tân phái cố chối bỏ giáo lý này?
LỜI GIỚI THIỆU:
Giáo lý căn bản này thường xuyên bị tấn công bởi nhóm Manalistas Russellites….Niềm tin nơi Thần tánh Đấng Christ là niềm tin chính vào sự cứu rỗi. Rô-ma 10:9 “Nếu miệng ngươi xưng Đức Chúa Jêsus ra và lòng ngươi tin rằng….”
Nghiên cứu Kinh thánh ta thấy một số người quy đạo đều phải thừa nhận Jêsus là Chúa như Phao-lô trong Công 9:5; người đàn ông mù trong Giăng 9:38. Khước từ Thần tánh của Chúa sẽ kết án chúng ta đời đời.
Trong bài học này chúng ta có 15 bằng chứng về Thần tánh Đấng Christ.
I. JÊSUS CHRIST được nhắc đến như là CHÚA trong Thi 110:1:
Thi 110:1: Chúa, Đức Cha nói cùng Chúa, cứu Chúa tôi. Chúa Jêsus đã trích dẫn câu nầy trong Ma-thi-ơ 22:41.46; Mác 12:35-36; Lu-ca 20:39-44. Phi-e-rơ trích dẫn câu nầy trong bài giảng lễ ngũ tuần, Công vụ 2:34. Điều nầy rất quan trọng.
II. ĐỨC CHÚA TRỜI ĐẾN SỐNG VỚI LOÀI NGƯỜI:
Ê-sai 7:14… tên Ngài là Em-ma-nu-ên, ứng nghiệm Ma-thi-ơ 1:23: tại Bết-lê-hem, Đức Chúa Trời trong Thân vị Jêsus Christ đã đến ở giữa loài người.
III. ĐẤNG CỨU THẾ JÊSUS CHRIST ĐƯỢC BAN CHO DANH HIỆU THIÊNG LIÊNG TRONG LỜI TIÊN TRI:
Ê-sai 9:6,7 Đấng lạ lùng, Đấng mưu luận, Đức Chúa Trời quyền năng Cha đời đời,, Chúa bình an. Chỉ có Chúa Jêsus mới làm ứng nghiệm các Danh hiệu nầy. Lu-ca 18:19; Thi 16:7; Giăng 10:30.
IV. ĐẤNG CỨU THẾ ĐƯỢC TIÊN TRI PHẢI ĐẾN LÀ TỪ TRƯỚC VÔ CÙNG.
Mi-chê 2:5 gốc tích Ngài có từ xưa, từ trước vô cùng; Chúa Jêsus có phán: trước khi có Áp-ra-ham đã có Ta Giăng 8:58.
V. CẢ ĐỨC CHÚA TRỜI VÀ ĐẤNG CHRIST ĐỀU XƯNG TÊN “TA LÀ “
Xuất 3:14 “Ta là Đấng Tự Hữu Hằng Hữu.”
Giăng 8:58 Trước khi có Áp-ra-ham, Ta hằng hữu.
Người Do thái hiểu ngay và cho rằng Chúa Jêsus phạm thượng tôn mình bằng Đức Chúa Trời, nên họ vội đi ném đá Chúa Jêsus - Luật Do thái tội phạm thượng như thế đáng bị ném đá (Lê-vi 24:12-16). Nhưng Chúa Jêsus là Chúa thật nên Ngài không phạm tội nầy.
VI. CHÚA JÊSUS THA TỘI.
Mác 2:5,7 chỉ có Đức Chúa Trời mới có quyền tha tội.
Người Do thái quan niệm chỉ có Đức Chúa Trời mới có quyền tha tội vì tội là vi phạm luật pháp, và chỉ có Đấng vô tội mới tha tội được mà thôi. Trong việc tha tội, hoặc Chúa Jêsus phạm tội phạm thượng hoặc Ngài là chính Đức Chúa Trời, có quyền tha tội.
VII. CHÚA JÊSUS TỰ XƯNG NGANG HÀNG VỚI ĐỨC CHA VÀ ĐỨC THÁNH LINH.
Điều nầy có bằng cớ trong công thức lễ Báp-têm Ma-thi-ơ 28:19, trong lời chúc phước ở II Cô-rinh-tô 13:14 gắn liền 3 tên Cha, Con, Linh với nhau.
VIII. CHÚA JÊSUS TỰ XƯNG LÀ TOÀN TRI.
Toàn tri là biết hết mọi sự, đây là thuộc tánh của Đức Chúa Trời Mác 11:2-6; Ma-thi-ơ 12:40 và Ma-thi-ơ 24:3-51.
IX. CHÚA JÊSUS TỰ XƯNG LÀ TOÀN TẠI.
Toàn tại là thuộc tánh của Đức Chúa Trời, không phải của thiên sứ và loài người. Ma-thi-ơ 18:20 “Nơi nào có đôi ba người nhơn Danh Ta nhóm nhau lại thì Ta ở giữa họ.”
X. CHÚA JÊSUS TỰ XƯNG LÀ TOÀN NĂNG.
Ma-thi-ơ 28:18 “Hết thảy quyền phép trên trời dưới đất đã giao cho Ta.”
XI. JÊSUS CHRIST CÓ QUYỀN NĂNG SÁNG TẠO.
Giăng 1:1-3; Hê-bơ-rơ 1:3 Chúa Jêsus sáng tạo và bảo tồn thế giới Ngài dùng quyền làm phép lạ - biến nước thành rượu, hóa bánh nuôi 5000 người.
XII. CHÚA JÊSUS CÓ QUYỀN TRÊN THIÊN NHIÊN.
Lu-ca 8:24 Chúa quở gió.
Mác 4:34 Chúa khiến biển yên lặng.
Ma-thi-ơ 14:25,26 Chúa bước trên biển.
XIII. JÊSUS CHRIST NHẬN SỰ THỜ PHƯỢNG DÀNH CHO ĐỨC CHÚA TRỜI.
Giăng 8:38 người mù lạy Chúa.
Lu-ca 4:8 Chỉ thờ phượng một mình Đức Chúa Trời thôi.
XIV. CHÚA JÊSUS CHẤP NHẬN LỜI CHỨNG CỦA SỨ ĐỒ THÔ-MA.
Giăng 20:28 “Lạy Chúa tôi và là Đức Chúa Trời tôi ”
Nếu Thô-ma sai lầm, nói lộn, nói quá thì Chúa Jêsus phải sửa sai.
XV. SỰ KIỆN PHỤC SANH CỦA CHÚA JÊSUS.
Đây là lý lẽ mạnh mẽ nhất chứng tỏ Jêsus là Đức Chúa Trời.
Rô-ma 1:4 Câu này đặc biệt nhấn mạnh rằng sự phục sanh tuyên bố Jêsus là con Đức Chúa Trời. Nếu Jêsus là người dối trá, hoặc chỉ là một người thường thì Đức Chúa Trời sẽ để Ngài cứ chết trong mộ cho đến ngày phán xét. Rô-ma 6:4 cho biết chính Đức Chúa Trời khiến Jêsus sống lại. Chính Đức Chúa Trời xác định thần tánh của Chúa Jêsus.
KẾT LUẬN:
Chúng ta dám kết luận Jêsus là Đức Chúa Trời vì chính Ngài đã sở hữu đến 10 thuộc tánh mà Đức Chúa Trời đã có, và thuộc tánh này chỉ có Đức Chúa Trời có mà thôi.
1. Đời đời. Mi-chê 5:2; Giăng 8:58; Cô-lô-se 1:17;Khải 1:8.
2. Không thay đổi. Hê-bơ-rơ 13:8
3. Toàn năng. Lu-ca 8:24; Ma-thi-ơ 28:18.
4. Toàn tại. Ma-thi-ơ 18:20; Giăng 1:48; Giăng 3:13; Ma-thi-ơ 28:20.
5. Toàn tri. Mác 11:26;Giăng 2:24-25; Lu-ca 5:22; Ma-thi-ơ 24.
6. Thánh. Mác 1:24, vô tội 2 Phi-e-rơ 2:22; Giăng 19:4.
7. Công chính. Giăng 2:14-17; Công 17:31.
8. Yêu thương. Giăng 15:13; Giăng 11:36.
9. Thương xót. Tít 3:5.
10. Thành tín. II Ti-mô-thê 2:13.
Có 5 công tác của Đức Chúa Trời được mô tả cho Chúa Jêsus: Sáng tạo, tha tội, bảo tồn, kêu kẻ chết sống lại và phán xét. Giăng 1:3; Hê-bơ-rơ 1:3; Lu-ca 7:48; Giăng 6:39; Giăng 5:22.
Câu hỏi:
1. Tại sao giáo lý thần tánh Đấng Christ là quan trọng?
2. Bạn giải thích Thi 110:1 như thế nào?
3. Đức Chúa Trời ở với loài người như thế nào theo Ê-sai 7:14; Ma-thi-ơ 1:23.
4. Liệt kê năm Danh dành cho Chúa Cứu thế trong Ê-sai 9:6-7.
5. Đưa ra một lời tiên tri tỏ ra Jêsus là Đấng vĩnh cửu.
6. Ý nghĩa Giăng 8:58,59 là gì?
7. Mác 2:5 chứng minh Jêsus là Đức Chúa Trời như thế nào?
8. Chứng minh rằng Chúa Jêsus mang 5 thuộc tánh Đức Chúa Trời.
9. Làm thế nào Lu-ca 8:24 chứng tỏ Jêsus là Đức Chúa Trời?
10. Lý lẽ chính yếu nhất chỉ về thần tánh Chúa Jêsus là gì?
THẦN TÁNH CHÚA JÊSUS
(Những lý lẽ chống lại)
LỜI GIỚI THIỆU:
Giáo lý này bị tấn công không thương xót vì cớ sự vô tín của loài người, nên chúng ta cần biết các lý lẽ và các cơ sở Thánh Kinh mà phe chống đối viện dẫn.
Tài liệu trong bài học này được dùng từ cuốn sách nhỏ “Thần tánh Đấng Christ” của Alvier ở Manila do nhà xuất bản Rangel and Sons ấn hành. Chúng tôi chỉ liệt kê 21 lý lẽ và câu trả lời ngắn gọn.
1. Đấng Christ không phải là Đức Chúa Trời bởi vì Ngài có thịt và xương còn Thần thì không có thịt và xương. Giăng 4:24.
Lý lẽ nầy dấy lên vì vấn đề một Ngôi 2 bản tánh của Chúa Cứu thế. Mà thật ra Đấng vô hình đã trở thành hữu thì đương nhiên phải mang thân xác con người.
– 1 Ti-mô-thê 2:5 Chúa Jêsus có 2 bản tánh.
– 1 Ti-mô-thê 3:16 “Đức Chúa Trời tỏ bày trong xác thịt” trong con người Chúa Jêsus.
2. Đấng Christ không phải là Đức Chúa Trời vì Ngài có khởi đầu còn Đức Chúa Trời thì vô thỉ vô chung.
Vì là Chúa Jêsus có ngày sinh khi Ngài đầu thai bởi Thánh Linh còn Ngài là Đức Chúa Trời nên Ngài cũng vô thỉ vô chung. Giăng 8:56-59. Cô-lô-se 1:17; Giăng 1:18; Ê-sai 9:6.
3. Đấng Christ không phải là Đức Chúa Trời vì Ngài là sinh vật thọ tạo còn Đức Chúa Trời thì không do ai tạo dựng. Cô-lô-se 1:15; Khải 3:14.
Bản dịch thật chính xác Khải 3:14 phải là thế này: “Ngài là nhân chứng của sự khởi đầu công cuộc sáng tạo của Đức Chúa Trời”, nên Ngài không phải là vật thọ tạo mà là chứng nhân của cuộc sáng tạo.
Châm 8:22, 23 nói đến sự khôn ngoan đã hóa thân trong con người của Đấng Christ, Ngài là Đấng có từ khi nguyên thỉ, trước khi dựng nên thế gian.
4. Đấng Christ không phải là Đức Chúa Trời vì Ô-sê 11:9 nói rằng Đức Chúa Trời không phải là người trong khi Ê-xê-chi-ên 28:2 nói con người không phải là Đức Chúa trời.
Thật ra, trong Ô-sê 11:9, nhà tiên tri không có ý nói rằng Đức Chúa Trời không thể mang lấy hình hài xác thịt của con người đâu. Không có việc chi là khó đối với Đức Chúa Trời (Giê-rê-mi 32:17, 18), và Ngài có thể tự bày tỏ ra trong xác thịt.
5. Đấng Christ không phải là Đức Chúa Trời vì Ngài gọi Đức Chúa Trời là Cha trong Ma-thi-ơ 27:46 và Giăng 20:17.
Chúa Jêsus khi đã thành người Ngài xưng Đức Chúa Trời là Cha Ngài. Đức Chúa Trời trong Hê-bơ-rơ 1:8 gọi Chúa Jêsus là Đức Chúa Trời, nhưng điều đó không làm giảm địa vị Thần tánh của Đức Cha.
6. Đấng Christ không phải là Đức Chúa Trời vì Đức Cha đã sai Ngài xuống thế gian (Giăng 8:42).
Đức Cha sai Con Ngài xuống thế gian, Chúa Jêsus tình nguyện giáng thế, điều đó không làm giảm giá trị địa vị của Ngài là Đức Chúa Trời toàn năng. Lu-ca 19:10; Ga-la-ti 4:4,5.
7. Đấng Christ không phải là Đức Chúa Trời vì Ngài mang thể xác (I Giăng 4:2,3; 2 Giăng 7). Vì Jêsus là xác thịt, xương, máu, nên Ngài là người không hơn không kém.
Chúa Jêsus mang xác thịt xương máu con người vì Ngài đã nhập thể. Làm Đức Chúa Trời Ngài là Đấng Thần linh đời đời, nhưng để làm Đấng cứu chuộc loài người, Ngài nhất thiết phải mang lấy xác thịt con người. I Phi-e-rơ 2:21-23.
8. Đấng Christ không phải là Đức Chúa Trời vì Đức Chúa Trời là đầu của Ngài theo I Cô-rinh-tô 11:3.
Trong một bộ ba đồng trị, nhất thiết phải có một vị chủ tịch nhưng điều đó không có nghĩa là vị chủ tịch lớn hơn hai vị kia. Cha, Con với Thánh Linh là đồng đẳng, nhưng Cha làm vai trò của người điều hành hay thường vụ như cách dùng ngày nay.
9. Đấng Christ không phải là Đức Chúa Trời vì Ngài được gọi là con người theo Giăng 8:40; I Ti-mô-thê 2:5.
Đức Chúa Jêsus vừa là Trời thật, vừa là người thật trong một Thân vị chứ không phải là sự trộn lẫn của hai bản tính. Em-ma-nu-ên nghĩa là Đức Chúa Trời ở cùng chúng ta.
10. Đấng Christ không phải là Đức Chúa Trời vì Ngài là con Đức Chúa Trời cũng giống như chúng ta có thể trở thành con cái của Ngài.
Bằng sự qui đạo chúng ta trở thành con cái Đức Chúa Trời (Giăng 1:12), nhưng Chúa Jêsus là Con Độc sanh của Đức Chúa Trời (Giăng 3:16) đó là một Danh vị độc nhất và đặc biệt. Con Đức Chúa Trời thì đồng đẳng với Đức Cha (Phi 2:6), còn các thánh đồ trở thành kẻ kế tự của Đức Chúa Jêsus Christ.
11. Đấng Christ không phải là Đức Chúa Trời vì Đức Cha đã ban cho Ngài quyền phép theo Ma-thi-ơ 28:18.
Trong Phi-líp 2:5-8 Đức Con đã giao quyền phép cho Đức Chúa Trời, và sau khi Chúa phục sanh Đức Chúa Trời lại tái giao quyền phép đó cho Ngài y như trước. Rõ ràng quyền phép đó vốn là của Ngài, nhưng Ngài tự nguyện xa lìa khi trở thành người.
12. Đấng Christ không phải là Đức Chúa Trời vì Đức Chúa Trời đã tôn Ngài lên làm Chúa trong Công 2:36.
Đây không có nghĩa là thăng chức hoặc tấn phong, nhưng vì Ngài luôn luôn vốn là Đức Chúa Trời nên nhân sự kiện nầy, Đức Chúa Trời công bố điều đó cho cả nhân loại.
13. Đấng Christ không phải là Đức Chúa Trời vì Ngài đầu phục Đức Chúa Trời theo I Cô-rinh-tô 15:28.
Điều nầy không có ý nói đến bản tính của Đấng Christ, nhưng là nói đến địa vị của Ngài. Đấng Christ tình nguyện chọn sự đầu phục, điều nầy không đi ngược lại ý muốn của Ngài.
14. Đấng Christ không phải là Đức Chúa Trời vì Đấng Christ chết còn Đức Chúa Trời bất tử không thể chết. I Ti-mô-thê 1:17; Lu-ca 23:46; Công 2:32.
Jêsus là con người đã chết, nhưng Jêsus là Đức Chúa Trời thì không hề chết Hê-bơ-rơ 2:9,14. Đây là thể xác chết, Thần linh không chết vì sẽ trở về với Đức Chúa Trời.
15. Đấng Christ không thể là Đức Chúa Trời vì Ngài được đầu thai bởi Đức Thánh Linh Ma-thi-ơ 1:18-20. Là một tạo vật của Thánh Linh Ngài không phải là Đức Chúa Trời cũng không phải là Đấng tạo hóa.
Về nhân tánh Chúa Jêsus được đầu thai bởi Thánh Linh. Còn về Thần tánh Chúa Jêsus luôn hằng hữu Giăng 1:1,2, Chúa Jêsus có trước trinh nữ Ma-ri vô cùng.
16. Đấng Christ không thể là Đức Chúa Trời vì Ngài phán ở trong Giăng 20:17 “Ta lên cùng Cha Ta và Cha các ngươi, Đức Chúa Trời Ta và Đức Chúa Trời các ngươi.” Vì thế Chúa Jêsus và Đức Chúa Trời hoàn toàn khác biệt.
Cha và Con là hai Ngôi nhưng là một Đức Chúa Trời “Ta với Cha là một” (Giăng 10:30; Giăng 17:11,21,22).
17. Đấng Christ không phải là Đức Chúa Trời vì Ngài đã cầu nguyện với Đức Cha và xưng Đức Cha như là một Đức Chúa Trời duy nhất có thật (Giăng 17:3; I Cô-rinh-tô 8:6).
Sự chống đối nầy quên rằng Chúa Jêsus đồng hằng hữu với Đức Cha. Cha với Con là một, cả hai đều là một bản tính, là Linh đời đời, nhưng khác nhau về chức vụ và trách nhiệm. Đức Cha và Đức Con có mối quan hệ cá nhân gắn liền với nhau. Ma-thi-ơ 11:27; Lu-ca 10:22; Giăng 12:45.
18. Đấng Christ không phải là Đức Chúa Trời vì nếu Ngài là Đức Chúa Trời thì như vậy sẽ có hai Đức Chúa Trời.
Theo Giáo lý Ba Ngôi thì Đức Chúa Trời có Ba ngôi: Cha, Con và Linh chứ không phải là ba Đức Chúa Trời đâu.
19. Đấng Christ không phải là Đức Chúa Trời vì Ngài chỉ là ý niệm, ỳ chỉ hay mục đích của Đức Chúa Trời. Ngài không có sự hiện hữu vật chất hay hình thể vật chất từ đầu tiên.
Đây có lẽ là lối chơi chữ trong Giăng 1:1,2 nhưng câu xác định và có uy quyền “Ngôi Lời là Đức Chúa Trời.”
20. Đấng Christ không phải là Đức Chúa Trời vì trong Ngài nói “Cha Ta lớn hơn Ta” (Giăng 14:28).
Đây ngụ ý địa vị Ngài chứ chắc chắn không phải bản tính Ngài. Về địa vị Chúa Jêsus “Không coi sự bình đẳng mình là sự nên nắm giữ, ấy chính Ngài đã tự bỏ mỉnh đi” (Phi-líp 2:7). Ngài đã tự chọn địa vị thuận phục Đức Cha.
21. Đấng Christ không phải là Đức Chúa Trời vì dầu Ngài là với Đức Chúa Trời, nhưng chỉ ngụ ý Ngài là một trong sự chăn giữ, sự dạy dỗ và sự phán xét chứ không phải là một trong thân vị Đức Chúa Trời.
Cha và Con là một Đức Chúa Trời (hai Ngôi), đồng hằng hữu như là một Giê-hô-va Đức Chúa Trời. Đức Cha là Giê-hô-va trong cựu ước, Thi 23:1 Chúa Jêsus là Giê-hô-va trong Tân ước Giăng 10:11; Hê-bơ-rơ 13:20; Khải 7:17.
KẾT LUẬN:
Jêsus Christ là Đức Chúa Trời,Ngài là Đức Giê-hô-va. Chúa Jêsus là Đức Chúa Trời toàn năng. Dầu chúng ta không thể trả lời thỏa mãn hết mọi câu hỏi, nhưng chúng ta tin rằng Chúa Jêsus là Đức Chúa Trời.
Đây là đề tài tranh luận với nhiều giáo phái khước từ Thần tánh của Đấng Christ. Họ nói rằng Chúa Jêsus giống như chúng ta, là một con của Đức Chúa Trời, chứ không phải là Đức Chúa Trời. Họ chủ trương rằng Ngài là người con phụ giúp cho Cha, và họ đã trưng dẫn Kinh Thánh để chứng minh điều đó.
Làm thế nào chúng ta là người Tin Lành, trả lời những lý lẽ xem chừng như khó trả lời đó? Tôi tin rằng, nói chung câu trả lời là như thế này: Là Đức Chúa Trời, Chúa Jêsus trong bản thẻ tiền nhập thế của Ngài đã là, và luôn luôn sẽ là đồng đẳng với Đức Chúa Trời là Cha. Tuy nhiên, trong khi nhập thế mang thân xác con người, Ngài rõ ràng quy phục Đức Cha. Khi nghiên cứu thời tiền nhập thể của Đấng Christ, sẽ giúp cho chúng ta nhận thức Đức Con đã phải tự bỏ điều gì hầu trở thành Đấng cứu chuộc chúng ta. Phi-líp 2:5-8.
I. JÊSUS ĐỒNG ĐẲNG VỚI ĐỨC CHA - I Giăng 2:23.
Giăng 5:18 Người Do thái tin tưởng mạnh mẽ nơi Phục 6:4 nên họ hiểu rằng Chúa Jêsus xưng mình ngang hàng với Đức Chúa Trời. Người Do-thái chỉ thừa nhận một Đức Chúa Trời và họ cho rằng lời tự xưng của Chúa Jêsus là phạm thượng, đáng bị ném đá. Lê-vi 24:12.
– Giăng 10:30 “Ta với Cha là một ” chắc chắn là một bằng cớ tỏ ra chúa Jêsus đồng đẳng với Đức Chúa Trời.
– Giăng 14:9 “Ai đã thấy Ta, tức là thấy Cha” , Cha và Con là một bất phân ly.
– Cô-lô-se 1:15 “Đấng Christ là hình ảnh của Đức Chúa Trời mắt không thấy được” không thấy được vì Đức Chúa Trời là Linh.
– Giăng 10:33 Chúa Jêsus cố gắng chứng minh cho họ rằng: Ngài chính là Đức Chúa Trời,nhưng họ ngoan cố không chịu tin.
– Phi 2:5,6 Chúa Jêsus vốn bình đẳng với Đức Chúa Trời.
– Giăng 17:5 Chúa Jêsus nhắc đến sự vinh hiển vốn có của Ngài trước khi nhập thế.
– Giăng 1:1 Đây là lời xác định mở đầu sách Tin Lành Giăng chứng tỏ Jêsus là Đức Chúa Trời.
– I Giăng 5:20 Cả sách Tin lành lẩn sách thơ tín của mình, sứ đồ Giăng xác quyết Jêsus là Đức Chúa Trời.
– Tít 2:13 hướng về hy vọng nơi sự xuất hiện vinh hiển của Đức Chúa Trời cao cả là Chúa Jêsus. Đấng mà chúng ta trông đợi là Đức Chứa Trời, là Chúa Cứu thế đã giáng sinh tại Bết-lê-hem. Tác giả thơ Hê-bơ-rơ cũng thêm lời chứng.
– Hê-bơ-rơ 1: Đức Chúa Trời là Cha gọi con Ngài là Đức Chúa Trời.
– Giu-đe 25. Trong lời chúc phước, Giu-đe cũng gọi Jêsus là Đức Chúa Trời “… Đức Chúa Trời có một và là Cứu Chúa chúng ta.”
– Cô-lô-se 2:9 “Vì sự đầy dẫy của bổn tánh Đức Chúa Trời thảy đều ở trong Đấng ấy như có hình.”
Câu nầy vượt quá sự hiểu biết của con người, nhưng ít ra cũng nói rằng: Đấng Christ có sự đầy đủ hoàn toàn trong Thần tánh không kém thiếu gì. Cho nên, nói rằng Đấng Christ chỉ là “một ” con của Đức Chúa Trời là xúc phạm và phạm thượng Chúa Cứu thế. Trên núi hóa hình ở Ma-thi-ơ 17:2 chúng ta thấy một ít về sự vinh hiển của thời tiền nhập thể của Ngài “Mặt Ngài chiếu sáng như mặt trời.”
Bất cứ ai từ khước không thừa nhận Chúa Jêsus là Đức Chúa Trời đồng đẳng với Đức Cha là phạm tội trọng, khước từ lời Chúa .
Đặt vấn đề thắc mắc, hay từ chỗ sự tiền thực hữu đời đời và vinh hiển của Đấng Christ không hề làm giảm giá trị cho sự kiện Jêsus là, và luôn luôn là Đức Chúa Trời. Người nào phủ nhận Thần tánh của Chúa Jêsus là phạm tội chống lại chính mình Chúa. Chúng ta càng phải tôn cao Chúa Jêsus hơn nữa vì sự kiện Ngài dầu là Đức Chúa Trời, bình đẳng với Cha, nhưng Ngài đã tự bỏ mình đi vì cớ ích lợi cho chúng ta. Chúng ta hãy phủ phục thờ phượng Ngài, ca ngợi Ngài vì cớ sự hy sinh cao cả của Ngài.
II. JÊSUS CHRIST LÀ NGƯỜI PHỤ THUỘC VÀO CHA:
Khi Jêsus Christ trở thành người, Ngài đã tình nguyện nhận địa vị thấp hơn Chaphụ thuộc vào Cha.
– Giăng 14:28 Khi Chúa Jêsus đầu thai bởi Thánh Linh, Ngài đã bước vào mối quan hệ mới với Đức Chúa Trời.
– Hê-bơ-rơ 1:5 điều nầy xảy ra trong Lu-ca 1:35.
– Giăng 3:16 nói đến Jêsus như là con độc sanh. Điều nầy đã được tiên tri trong Thi Thiên 2:7.
Có phải sự sanh ra của Chúa Jêsus là nguồn gốc của Đức Chúa Trời đời đời hay không? Chắc chắn là không, vì với tư cách Đức Chúa Trời, Ngài là Đấng tự hữu, không hề được sanh ra, Ngài hằng hữu. Ê-sai 9:6,7. Sự sanh ra ở đây nói đến trong Lu-ca 1:35 khi Thánh Linh đến với trinh nữ Ma-ri và con người Jêsus được đầu thai.
A. CÁC PHƯƠNG CÁCH CON TÙY THUỘC VÀO CHA:
1. Đời sống trần gian của Chúa Jêsus sống vì Cha, Cha duy trì sự sống của con. Giăng 6:57.
2. Chúa Jêsus không tự làm gì độc lập với Cha Giăng 5:19.
3. Jêsus Christ được Cha sai xuống thế gian. Giăng 6:29,8:29,42.
4. Cha ban Con quyền năng và sự hướng dẫn. Giăng 10:18;13:3.
5. Jêsus Christ nhận sứ điệp từ Cha. Giăng 8:26.
6. Cha giao cho Con một số sứ mạng phải hoàn thành. Giăng 5:36;17:4.
7. Cha lập nước cho Con. Lu-ca 22:29.
8. Trong thời kỳ Hội thánh hiện tại, Chúa Jêsus quy phục quyền cầm đầu của Cha. 1 Cô-rinh-tô 11:3.
9. Đấng Christ trở nên con đường mới để loài người đến gần Đức Chúa Trời. Hê-bơ-rơ 7:25.
10. Jêsus trở nên con đường đến cùng Đức Chúa Trời, con đường cứu rỗi Ngài là con đường duy nhất. Giăng 14:6.
11. Chúa Jêsus xem Cha như Đức Chúa Trời tôi. Giăng 20:17; Ma-thi-ơ 27:46.
B. SỰ TÙY THUỘC NẦY KÉO DÀI BAO LÂU?
Lu-ca 22:29 nói rằng Cha ban phước cho Con. Con sẽ giao nước lại cho Cha (1 Cô-rinh-tô 15:24). Thời kỳ lệ thuộc dưới quyền nầy sẽ kéo dài quá thời điểm này, ngay cả quá cuộc phán xét cuối cùng (1 Cô-rinh-tô 15:27,28).
KẾT LUẬN:
Nếu chúng ta hiểu Kinh thánh đúng sẽ không có mâu thuẫn gì ở đây cả. Chúa Jêsus trước khi nhập thế là Đức Chúa Trời bình đẳng với Đức Cha toàn năng. Khi nhập thế thành người Ngài tự bỏ địa vị đó qua một bên, nhận lấy địa vị lệ thuộc dưới quyền như Con đối với Cha. Càng nghiên cứu sự khiêm nhường đến đều (Phi 2:5-8) của Đấng Christ chúng ta càng thấy tình yêu Ngài đối với chúng ta là lớn dường nào, trong khi chúng ta vẫn còn là tội nhân hư mất.
Chúng ta hãy mau loan báo tin mừng nầy cho muôn dân trên đất.
Câu hỏi:
1. Có 5 bước hạ mình của Chúa Jêsus trong Phi 2:5-7, đó là gì?
2. Tại sao người Do-thái phản ứng mạnh trong Giăng 5:18?
3. Bạn giải thích Giăng 10:30 thế nào?
4. Ý nghĩa Giăng 1:1 là gì?
5. Liệt kê 4 tác giả Tân ước xác nhận Jêsus là Đức Chúa Trời.
6. Đức Chúa Jêsus lệ thuộc vào Cha theo cách nào?
7. Giải thích Giăng 14:28 “Cha Ta lớn hơn Ta.”
8. Khi nào Chúa Jêsus sanh ra? Thi 2:7 và Giăng 3:16.
9. Nêu ra 7 cách Đức Con tùy thuộc Đức Cha.
10. Thời kỳ tùy thuộc này kéo dài bao lâu?
LỜI GIỚI THIỆU:
Để trở thành Chúa cứu thế, Đức Chúa Jêsus không những là Đấng thiêng liêng,vô tội; nhưng cũng là một người thật giống như chúng ta trong mọi phương diện. I Ti-mô-thê 2:5 chỉ có một Đức Chúa Trời và một Đấng trung bảo ở giữa Đức Chúa Trời và loài người là Jêsus Christ là người Chúa Jêsus phải trở nên giống như chúng ta trong mọi sự “Hầu cho đối với Đức Chúa Trời trở nên thầy tế lễ Thượng phẩm hay thương xót, và trung tín đặng đền tội cho chúng dân” (Hê-bơ-rơ 2:17). Chúa Jêsus phải được sanh ra trong luật pháp để cứu vớt chúng ta khỏi luật pháp (Ga-la-ti 4:4,5). A-đam trước nhất đã mang đến sự chết, Đấng Christ là A-đam thứ hai mang đến sự sống (1 Cô-rinh-tô 15:21).
Trong bài học nầy, chúng tôi sẽ trình bày một số các bằng chứng về nhân tính của Đấng Christ.
I. CHÚA JÊSUS ĐƯỢC BAN CHO TÊN LOÀI NGƯỜI:
Ma-thi-ơ 1:21 “ngươi sẽ đặt tên là Jêsus”, đã ứng nghiệm trong Ma-thi-ơ 1:23. Trong I Ti-mô-thê 2:5 Jêsus là người, từ liệu “Con người ” nhấn mạnh nhân tính của Đấng Christ được viết 77 lần (Lu-ca 19:10). Ê-tiên, ngay trước khi chết đã nhìn thấy Chúa Jêsus và đã gọi Ngài là “Con người” (Công 7:56).
II. JÊSUS CÓ TỔ PHỤ LOÀI NGƯỜI:
Là con người, Chúa Jêsus phải có cha mẹ là người, và mẹ Chúa là bà Ma-ri. Lu-ca 2:7 “Nàng sinh con trai đầu lòng.” Ga-la-ti 4:4 “Sanh bởi người nữ dưới luật pháp.” Jêsus được sanh ra trong dòng vua Đa-vít (Công 13:23). Gia phổ Chúa trong Ma-thi-ơ 1:1-16 truy lên tổ phụ của Chúa Jêsus là Áp-ra-ham. Hê-bơ-rơ 7:14 Chúa Jêsus thuộc chi phái Giu-đa.
III. CHÚA JÊSUS CÓ BẢN TÍNH XÁC THỊT:
Giăng 1:14 “Ngôi lời đã trở nên xác thịt ở giữa chúng ta ”
Hê-bơ-rơ 2:14 Chúa Jêsus cũng có thịt và máu. Không thừa nhận Chúa Jêsus là người tức là dấu hiệu của Antichrist. I Giăng 4:3.
IV. CHÚA JÊSUS VÂNG PHỤC QUY LUẬT PHÁT TRIỂN CỦA LOÀI NGƯỜI.
1. Ngài lớn lên. Lu-ca 2:40.
2. Ngài học hỏi. Lu-ca 2:46.
3. Ngài khôn ngoan càng thêm. Lu-ca 2:52.
4. Ngài học tập vâng lời. Hê-bơ-rơ 5:8.
5. Ngài chịu khổ. Hê-bơ-rơ 2:18; Hê-bơ-rơ 2:10.
6. Ngài làm thợ mộc cho đến 30 tuổi. Mác 6:3. Tuổi của Chúa được ghi chép trong Lu-ca 3:23.
7. Ngài chịu cám dỗthử thách. Ma-thi-ơ 4:1-11.
V. CHÚA JÊSUS HÀNH ĐỘNG THEO BẢN TÍNH TỰ NHIÊN CỦA CON NGƯỜI.
1. Ngài đói. Ma-thi-ơ 4:2; Ma-thi-ơ 21:18.
2. Ngài khát. Giăng 4:7; Giăng 19:28.
3. Ngài mệt. Giăng 4:6.
4. Ngài ngủ. Ma-thi-ơ 8:24.
5. Ngài thương yêu. Mác 10:21; 11:36.
6. Ngài động lòng thương xót. Ma-thi-ơ 9:36; Ma-thi-ơ 23:37.
7. Ngài giận và buồn. Ma-thi-ơ 3:4; Giăng 2:16.
8. Ngài kính sợ, tin cậy. Hê-bơ-rơ 5:7.
9. Ngài đau lòng cảm động. Giăng 11:33.
10. Ngài khóc. Giăng 11:35; Lu-ca 19:41; Hê-bơ-rơ 5:7.
11. Ngài cầu nguyện. Ma-thi-ơ 14:23.
Rõ ràng Chúa có bản tính người y hệt chúng ta nên Ngài chịu thách mọi sự như chúng ta. Hê-bơ-rơ 4:15.
VI. CHÚA CÓ THÂN XÁC, LINH HỒN.
1. Jêsus có thân xác Giăng 1:14; Hê-bơ-rơ 2:14; Ma-thi-ơ 26:12; Lu-ca 23:52-56.
2. Jêsus có hồn Ma-thi-ơ 26:38; Lu-ca 23:43.
3. Jêsus có Linh trở lại cùng Cha khi chết Lu-ca 23:46.
VII. JÊSUS CHẾT.
Tuyệt điểm của sự sống là sự chết, con người sống để rồi chết. Hê-bơ-rơ 9:27 “Theo như đã định cho loài người phải chết một lần…”, Jêsus là người, Ngài phải chết một lần khi Ngài bị đóng đinh trên thập giá.
Lu-ca 23:33; Hê-bơ-rơ 2:9, Jêsus đến thế gian để chịu chết và sự chết của Ngài là bằng cớ chính cho nhân tính của Ngài.
KẾT LUẬN:
Chúa Jêsus vẫn mang một thân xác ngay cả sau khi Chúa phục sinh Lu-ca 24:39; Giăng 20:27. Trong Công 7:55,56 Ê-tiên thấy Jêsus đứng bên hữu Cha. Chúa Jêsus giống y như chúng ta trừ 2 điểm: 1. Ngài không nhiễm nguyên tội. 2. Ngài không phạm tội.
Câu hỏi ôn:
1. Sáu bằng cớ chính tỏ ra Jêsus là người thật?
2. Câu Kinh Thánh nào nhấn mạnh nhân tính của Jêsus?
3. Một em bé thành người do cha mẹ sinh, Chúa Jêsus có giống như vậy không?
4. Câu “giống như loài người” trong Phi 2:7 có nghĩa gì?
5. Kể 7 luật phát triển của con người mà Chúa Jêsus đã có.
6. Kể 7 tính người mà Jêsus sở hữu.
7. Nếu Jêsus chỉ là Đức Chúa Trời Ngài có thể chết không? tại sao?
8. Chúa Jêsus vẫn có một thân thể không? tại sao biết?
9. Kể tên 2 khác biệt chính giữa Đấng Christ và chúng ta.
10. Tại sao Jêsus trở nên người? (ba lý do).
LỜI GIỚI THIỆU:
Chúng ta đã học biết Chúa Jêsus được sinh ra vô nhiễm nguyên tội không có bản tính tội lỗi, do sự kiện Ngài giáng sinh bởi trinh nữ, sự việc nầy không theo công lệ loài người.
Trong bài học nầy, chúng ta bước thêm một bước và tỏ rằng Chúa Jêsus đã sống cả đời vô tội. Ngài sống và chết không dính dấp một tội nào. Sự thật,Chúa Jêsus không phải là người pha nữa Trời, nữa người. Ngài là con người thực và là Trời thực, không phải là sự trộn lẫn giữa 2 bản tính.
Hai bản tính của Chúa Jêsus được phân biệt trong mọi khía cạnh. Ngài là người lý tưởng, Ngài là người bình thường nhưng trọn vẹn, Ngài vô tội.
I. Ý NGHĨA SỰ VÔ TỘI CỦA ĐẤNG CHRIST.
Sự vô tội là một mơ ước làm đẹp lòng Đức Chúa Trời. Hê-bơ-rơ 10:7 “Tôi đến làm theo ý muốn Chúa”; Giăng 14;7 “Ta đã làm xong công việc Cha giao cho Ta.” Tội là chủ trương đối nghịch ý chí Chúa và thỏa hiệp với con đường tội lỗi. Tội ở bên ngoài (dối, cắp, giết người) nhưng cũng ở bên trong nữa. Ma-thi-ơ 15:19 tư tưởng xấu trong lòng là gốc rễ của hành động xấu. Chúa Jêsus vô tội cả trong lẫn ngoài. Ngài hoàn toàn Thánh ở trong mọi giờ, mọi lúc. Hê-bơ-rơ 7:26 mô tả sự vô tội của Đấng Christ. Phi-e-rơ mô tả sự vô tội nầy như chiên con không tì, không vít 1 Phi-e-rơ 1:19. Ý tưởng nầy lại xuất hiện ở Hê-bơ-rơ 9:14.
II. SỰ KIỆN VÔ TỘI CỦA ĐẤNG CHRIST.
Trong Công vụ 4:27-30. Mô tả con trẻ thánh nghĩa là từ nhỏ Chúa là người Thánh, vô tội. ma quỉ thừa Chúa Jêsus là Đấng thánh của Đức Chúa Trời (Mác 1:24, Lu-ca 4:34)
Bằng cớ mạnh mẽ nhất về sự vô tội của Đấng Christ không phải là lời chứng của ma quỉ nhưng là Lời hằng sống của Đức Chúa Trời. Chúng ta tin Lời của Đức Chúa Trời là thật.
I Phi-e-rơ 2:21,22.
I Giăng 3:5.
2 Cô-rinh-tô 5:21.
Hê-bơ-rơ 4:15.
I Giăng 3:3.
III. LỜI CHỨNG LIÊN HỆ ĐẾN SỰ VÔ TỘI CỦA ĐẤNG CHRIST.
1. Chúa tự chứng. Ngài thấy tội nơi người khác nhưng tự thấy mình vô tội. Giăng 8:46. Chúa chưa hề thú tội hay xin tha tội. Ngài không hề có tư tưởng xấu nào.
2. Pontius Pilate là người xét xử Chúa Jêsus và nói: Ta không thấy người có tội lỗi chi cả Giăng 18:38.
3. Bà vợ Phi-lát: Là vợ của quan tổng trấn La mã, chưa hề có quan hệ gì với Chúa, nhưng bà nằm mơ và nói với chồng: Đừng làm hại người thánh và công bình đó (Ma-thi-ơ 27:19).
4. Tên cướp trên thập tự giá Lu-ca 23:41.
5. Giu-đa Ích-ca-ri-ốt là một môn đệ thân cận, ăn ngủ gần Chúa và nói chuyện với Ngài. Sau khi đã phản bội nộp Chúa với 30 miếng bạc đã tự chứng “tôi đã phạm tội với huyết vô tội “Ma-thi-ơ 27:4.
6. Đội trưởng lính La mã Lu-ca 23:47. Một người cứng cỏi chỉ huy cuộc hành hình đã chứng: Thật là một người công bình.
IV. CÁC LÝ LẼ CHỐNG LẠI SỰ VÔ TỘI CỦA CHÚA JÊSUS.
1. Một số người từ chối sự vô tội.
2. Một số người nghĩ rằng vì Chúa bị cám dỗ nên Ngài phải mắc tội. – Sự cám dỗ tự nó không phải là tội, chính sự chiều theo cám dỗ mới là tội. Chúa Jêsus bị cám dỗ đủ cách nhưng Ngài không sa vào chước cám dỗ.
3. Một số lý luận rằng theo sự cám dỗ trong Ma-thi-ơ 4:1-14 rằng nếu Jêsus là trọn lành thì sự cám dỗ không thực tế. Làm thế nào một Người trọn vẹn có thể bị cám dỗ? A-đam và Ê-va được dựng nên trọn vẹn không có nguyên tội, họ bị cám dỗ và đã sa ngã, điều đó cho thấy sự cám dỗ là thật, thật ngay cả đối với người trọn vẹn.
4. Một số người nói, làm thế nào tội lỗi xâm nhập vào nơi không có hướng về tội ác hay yếu đuối đối với tội? A-đam và Ê-va đã phạm tội vì họ muốn trở thành như các vị thần, vì ý niệm trưởng thành và phát triển. Sự cám dỗ là thật và họ đã phạm tội, nếu Ngài muốn, vì Ngài là người trọn vẹn. Sự chiến thắng của Chúa là tuyệt đối và hoàn toàn vì Ngài không một lần nào đầu phục, chiều theo tội lỗi.
V. HẬU QUẢ VIỆC TỪ CHỐI SỰ VÔ TỘI CỦA JÊSUS:
Nếu Jêsus có tội, Ngài phải chịu chết trên thập giá vì tội của mình và chúng ta cứ ở trong tội lỗi. Nếu Jêsus có tội thì Ngài không phải là con Đức Chúa Trời hay là Chúa Cứu thế. Nếu Jêsus có tội thì Ngài không thể làm một sinh tế trên thập tự giá. Nếu Jêsus có tội thì Hội thánh Ngài được xây trên cát lún chẳng bao lâu sẽ bị hư hoại.
Khước từ sự vô tội của Đấng Christ là loại Đấng cứu thế và sự cứu rỗi ra khỏi loài người. Ngợi khen Đức Chúa Trời vì Kinh thánh nói rằng Chúa Jêsus vô tội và ngày nay chúng ta có sự cứu rỗi.
VI. SỰ BÀY TỎ TÍNH VÔ TỘI CỦA CHÚA JÊSUS:
Sự vô tội của Chúa Jêsus được thể hiện trong hai phương diện:
1. Tiêu cực: Ngài không bao giờ suy nghĩ, nói năng hoặc hành động tội lỗi nào.
2. Tích cực: Ngài luôn luôn làm đẹp lòng Đức Chúa Trời trong tư tưởng, lời nói và việc làm.
Sự thánh khiết Ngài cũng có hai mặt:
1. Ngài yêu sự thánh khiết.
2. Ngài ghét tội lỗi.
Chúa Jêsus quân bình trọn vẹn vì Ngài làm trọn mọi khía cạnh của sự vô tội.
VII. KẾT QUẢ SỰ VÔ TỘI CỦA ĐẤNG CHRIST:
Là người vô tội Ngài là sự khải thị trọn vẹn về Đức Chúa Trời cho nhân loại. Là người vô tội, Ngài bảo đảm là Đấng trung bảo trọn vẹn. Ngài trở nên giống như loài người, chịu cám dỗ mọi bề và Ngài đã đắc thắng. Là người vô tội Ngài trở nên sinh tế được Đức Chúa Trời tiếp nhận trên thập giá đền tội chúng ta. “Ngài đi trước để lại chúng ta một gương hầu chúng ta noi dấu chơn Ngài I Phi-e-rơ 2:21-22. Con đường thiên đàng mở rộng trước mắt chúng ta nhờ Chúa Cứu thế vô tội.
KẾT LUẬN:
Chúng ta hãy trỗi dậy ca ngợi Đức Chúa Trời, vỉ ngài đã đến vô nhiễm nguyên tội và trở về trời không hề phạm tội vì Ngài sống đời sống đạo đức trọn lành.
Chúng ta hãy cúi đầu thờ phượng Chúa, ca ngợi, tôn thờ Ngài vì sự chiến thắng diệu kỳ nầy. Đây là sứ điệp kỳ diệu cho nhân loại đang bị trói buộc bởi xích xiềng tội lỗi, ham muốn, dục vọng xấu xa. Sự tự do và đắc thắng qua Chúa Cứu thế đắc thắng trọn vẹn.
Câu hỏi ôn:
1. Vì Jêsus có một mẹ là người và một Cha thiên thượng, vậy Ngài có bị trộn lẫn không? giải thích.
2. Sự vô tội của Đấng Christ có nghĩa gì?
3. Câu Kinh Thánh chính chứng minh Jêsus vô tội?
4. Kể 5 chứng nhân và lời chứng của họ về sự vô tội của Đấng Christ.
5. Chúa có thể phạm tội trong sự cám dỗ chép ở Ma-thi-ơ 4:1-14 không? tại sao?
6. Jêsus có phải là Đấng trọn lành duy nhất từng bị cám dỗ không? còn ai nữa?
7. Nếu tìm thấy tội lỗi nơi Đấng Christ thì các hậu quả sẽ ra sao?
8. Sự thể hiện hai mặt về sự vô tội của Đấng Christ là gì?
9. Kể tên 3 kết quả do sự vô tội của Đấng Christ mang lại?
10. Đây là giáo lý nhỏ hay lớn trong Kinh Thánh? tại sao?
LỜI GIỚI THIỆU:
Bài học nầy cố gắng trình bày con người thật của Chúa Jêsus. P.A. Torrey ở trong cuốn sách của ông nhan đề “Kinh thánh dạy gì ” đã dành 56 trang cho đề tài nầy. Chúng ta thường hát, hay cầu nguyện “Tôi muốn giống như Chúa Jêsus.” Chúng ta có ý gì khi nói đến điều nầy? Điều ước muốn nầy là rất tốt và cao thượng, nhưng chúng ta càng giống Chúa Jêsus trong nhiều đặc điểm càng tốt.
Ngài là gương sáng của chúng ta (I Phi-e-rơ 2:21) không chỉ trong hành động mà cả trong bản tánh nữa. Rô-ma 8:29, trở nên giống Ngài trong hình ảnh Ngài chính là nền tảng cho việc nên giống trong bản tính Ngài.
I. CHÚA JÊSUS LÀ ĐẤNG THÁNH KHIẾT.
Đề tài nầy bao trùm bài học về sự vô tội của Đấng Christ. Jêsus Christ là Đấng thánh, tuyệt đối thánh vì Ngài không mang bản tính tội lỗi của loài người từ lúc sanh ra. Hơn nữa Ngài chưa hề phạm bất cứ tội gì, Ngài luôn luôn làm điều tốt lành.
Trong Công 13:14 Phi-e-rơ xưng Chúa Jêsus như là Đấng thánh và công bình. Chúa Jêsus đã tỏ sự thánh khiết Ngài trong sự yêu điều công bình, ghét điều ác khi Ngài dọn sạch đền thờ và công kích tội lỗi cùng điều giả hình. Jêsus ghét tội lỗi đến nỗi Ngài sẵn sàng chết trên thập giá để phá hủy tội lỗi và đem sự công bình lại cho những người tin Ngài.
Ga-la-ti 3:13 nói rằng Đấng Christ là sự rủa sả vỉ chúng ta dưới luật pháp. Rô-ma 4:6 Đức Chúa Trời truyền đạt sự công chính cho ai tiếp nhận Chúa làm Chúa cứu thế, Khải 19:8b.
II. JÊSUS CHRIST LÀ ĐẤNG YÊU THƯƠNG.
Tình yêu của Chúa Jêsus được thể hiện dưới hai hình thức:
1. Đối với cha Ngài.
2. Đối với loài người.
Giăng 14:31. Hầu cho thế gian biết con yêu cha. Chúa Jêsus tỏ tình yêu nầy bằng sự vâng lời cha. Giăng 8:36; 14:31b.
– Jêsus làm xong công việc cha giao cho làm Giăng 17:4; 19:30.
– Jêsus đặc biệt yêu Hội thánh Ê-phê-sô 5:25.
– Jêsus có tình yêu đặc biệt đối với kẻ thuộc về Ngài Giăng 13:1.
– Jêsus cũng yêu thương cả tội nhân Lu-ca 19:10, Ngài đến tìm và cứu kẻ bị mất Ma-thi-ơ 9:13, tỏ ra Ngài thực hành lời Ngài dạy trong Ma-thi-ơ 5:44 và yêu cả kẻ thù Ngài, Lu-ca 23:34.
Chúa Jêsus yêu các em thiếu nhi, Kinh thánh đưa ra hình ảnh đẹp nầy trong Mác 10:13-16. Ngài tỏ tình yêu Ngài bằng cách trở nên nghèo khó để chúng ta trở nên giàu có II Cô-rinh-tô 8:9. Bằng cớ tốt nhất cho tình yêu Ngài là Ngài tình nguyện chết thay chúng ta Giăng 15:13. Jêsus vẫn tiếp tục yêu thương, săn sóc chúng ta hằng ngày và bảo dưỡng chúng ta luôn, Ma-thi-ơ 6:33.
III. JÊSUS CHRIST YÊU THƯƠNG LINH HỒN HƯ MẤT.
Chúng ta hãy theo gương Chúa Cứu thế chúng ta, trong tình yêu không hề mệt mỏi của Ngài đối với linh hồn tội nhân đang lạc loài trong tội lỗi.Ngài đến như người chăn hiền lành tìm và cứu những con chiên lạc, là người Do-thái lẫn người ngoại bang.Giăng 10:16 “Ta còn có nhiều chiên khác… “Chúa Jêsus yêu đám đông dân chúng. Ngài đến để chết cho thế gian, toàn nhân loại. Nhưng chức vụ Ngài hầu hết là chinh phục từng cá nhân một, không bỏ rơi một ai.
Sách Giăng chương I kể lại sự tiếp xúc của Ngài với 2 Môn đệ của Giăng là Anh-rê và các bạn của ông ta (câu 37-40), Phi-e-rơ câu 42, Phi-líp câu 43, Na-tha-na-ên câu 47. Giăng chương 3 với Ni-cô-đem, Giăng 4 với người đàn bà bên giếng ở Sa-ma-ri, Giăng 9 với người mù từ lúc sanh ra. Chúng ta đừng sợ phải tốn nhiều thì giờ với từng linh hồn cá nhân. Trong 15:4, Ngài bày tỏ lòng yêu thương, đi ra tìm cho kỳ được con chiên lạc mất. Chúa Jêsus rất vui khi tìm được tội nhân hư mất Lu-ca 15:3-7.Trong Lu-ca 15:24 Chúa Jêsus nói khi người con hoang trở về với cha, cha “rất vui mừng.”Cũng một thể ấy, Ngài rất đau lòng khi các linh hồn khước từ Ngài, Lu-ca 19:41,42 Chúa Jêsus khóc cho sự cứng lòng của dân thành Giê-ru-sa-lem. Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho chúng ta có tâm tình yêu thương linh hồn hư mất của đồng bào ta.
IV. CHÚA ĐỘNG LÒNG THƯƠNG XÓT.
Chúa Jêsus nặng tình cảm như câu ngắn nhất trong Kinh Thánh mô tả “Jêsus khóc” Giăng 11:35. Sự thương xót của Chúa tỏ ra với đám đông dân chúng “xem họ như chiên đi lạc, không có người chăn” Mác 6:34.
Sự thương xót của Chúa khiến Ngài quan tâm đến nhu cầu thể xác của dân chúng Giăng 6:5. Sự thương xót khiến Chúa chữa người mù Giăng 9:1-38, Ma-thi-ơ 20:34. Ngài thương xót kẻ bị quỷ ám Mác 9:22-25; 5:1-13; Lu-ca 4:41. Chúa thương xót một người phung nghèo khổ Mác 1:40,41; Lu-ca 5:12-15.
Nhiều khi chúng ta nói mình thương người khác trong cảnh khổ của họ nhưng Chúa bày tỏ sự thương xót đó ra bằng hành động cứu giúp. Ngài trở thành người chăn cho con chiên lạc, thành cứu Chúa cho kẻ hư mất, trở thành bác sĩ cho bệnh nhân, Ngài tỏ quyền uy đuổi quỷ. Chúng ta hãy bắt chước Chúa thương xót bằng lời nói đi đôi với hành động.
V. CHÚA JÊSUS THƯỜNG CẦU NGUYỆN.
Bốn sách Tin lành cho thấy một ít nét về cuộc đời cầu nguyện của Chúa Cứu thế, nhưng không đâu mạnh mẽ hơn Hê-bơ-rơ 5:7: Chúa cứu thế khi sắp hy sinh đã nài xin Thượng Đế, khóc lóc kêu cầu Đấng có quyền cứu Ngài khỏi chết.
Không phải là bất thường khi Chúa cầu nguyện suốt đêm, Lu-ca 10:12, Mác 1:35 Ngài cầu nguyện trước những kinh nghiệm quan hệ như lễ báp têm, sự cám dỗ… Lu-ca 3:21; Giăng 6:15. Ngài cầu nguyện công khai với cha xin các phép lạ Ma-thi-ơ 14:19; Giăng 11:41-42. Jêsus kết thúc đời sống trên đất bằng lời cầu nguyện với Cha Lu-ca 23:46. Jêsus thường ở một mình để cầu nguyện, nơi vắng vẻ hoặc trên sườn núi. Đôi khi Ngài cầu nguyện một mình Ma-thi-ơ 14;13, đôi khi Ngài cầu nguyện với các môn đồ Lu-ca 9:28; 22:39-46. Chúa cầu nguyện cho một cá nhân: Phi-e-rơ 22:31-32, cho chính bản thân Ngài Giăng 17:9-20, Ngài cầu nguyện vâng phục thánh ý Cha trong vườn Ghết-sê-ma-nê Ma-thi-ơ 26:42. Chúa dạy các môn đồ cầu nguyện và bảo chúng ta như vậy Ma-thi-ơ 6:9-15. Bởi sự cầu nguyện Ngài đã đắc thắng sự cám dỗ, làm phép lạ, chết làm vinh Danh Chúa.
VI. JÊSUS CHRIST NHU MÌ HIỀN LÀNH.
Nhu mì là thái độ tâm trí ngược lại với cứng rắn và tự mãn. Nhu mì tự thể hiện ra trong sự mềm mại, dịu dàng, hiền lành, nhẹ nhàng đối với người khác. Chúa tự phán rằng Ngài là Đấng nhu mì. Ma-thi-ơ 11:29 – Ma-thi-ơ 12:20.
Phao-lô đã hỏi người Cô-rinh-tô câu hỏi nầy: “Anh em muốn tôi cầm roi đến với anh em hay dùng tình yêu thương và tinh thần nhu mì “I Cô-rinh-tô 4:21. Là một cơ đốc nhân chúng ta cần học sự nhu mì, Ga-la-ti 6:1 “Hãy lấy tinh thần diệu dàng khiêm tốn dìu dắt người ấy quay về đường chánh đáng, anh em phải giữ cẩn thận để khỏi bị quyến rũ.”II Ti-mô-thê 2:24-25 đầy tớ Chúa không nên tranh chấp, nhưng phải hòa nhã với mọi người, khéo dạy dỗ và nhẫn nhục, phải nhu mì sửa dạy người chống nghịch.
Chúa Jêsus tỏ sự nhu mì trong việc không bẻ cây sậy đã gãy, hay tắt ngọn đèn gần tàn Ma-thi-ơ 12:20, Ngài nâng đỡ kẻ ngã lòng cách dịu dàng.
VII. CHÚA JÊSUS RẤT KHIÊM NHƯỜNG.
Chúa Jêsus nhu mì lẫn khiêm nhường Ma-thi-ơ 11:29. Ngài khiêm nhường vì Ngài không tìm vinh hiển riêng mình, nhưng tìm sự vinh hiển của Cha Giăng 8:50. Sự khiêm nhường của Chúa Jêsus cho phép Ngài tiếp xúc với phường thâu thuế và người có tội Lu-ca 15:1,2. Sự khiêm nhường của Chúa Jêsus giữ Ngài im lặng trước sự ức hiếp tàn bạo Ê-sai 53:7; I Phi-e-rơ 2:23. Phi 2:8 “Ngài hạ mình xuống vâng phục cho đến chết, thậm chí chết trên cây thập tự.”
KẾT LUẬN:
Phi-líp 2:5 “Hãy có đồng một tâm tình như Đấng Christ đã có.” Chúng ta nào chỉ bắt chước nhưng còn tự sản xuất sự thánh khiết, tình yêu, sự thương xót, sự nhu mì và khiêm nhường của Chúa Jêsus. Chúng ta hãy trở nên giống như Chúa của chúng ta - không chỉ bề ngoài mà còn ở trong lòng - trong sạch, thành thật.
Chúa muốn sống đời sống nầy lần nữa trong chúng ta khi chúng ta dâng mình cho Ngài. Rô-ma 6:19 hãy dâng thân thể làm nô lệ cho lẽ công chính, thánh khiết.
Câu hỏi ôn:
1. Kể 7 đặc tính Đấng Christ.
2. Chúa cứu thế tỏ tình yêu qua 2 hướng nào?
3. Kể 5 người khác nhau mà Chúa yêu.
4. Ý nghĩa Giăng 10:16 là gì?
5. Chúa Jêsus đặc biệt quan tâm đến việc giảng tin lành cho đám đông hay là cho cá nhân?
6. Kể 7 tầng lớp người mà Chúa xót thương?
7. Bài học lớn nhất về sự cầu nguyện của Chúa Jêsus mà bạn nhận được là gì?
8. Chữ “Nhu mì” nghĩa là gì?
9. Chứng minh Chúa Jêsus là Đấng nhu mì.
10. Chúa tỏ sự khiêm nhường Ngài như thế nào?
LỜI GIỚI THIỆU:
Trong bài học nầy, chúng ta cố gắng tóm tắt các giáo huấn chính của Đấng Christ khi Ngài còn sống trên đất. Trong chức vụ của Chúa, Ngài có 3 bài giảng dài :
1. Bài giảng trên núi Ma-thi-ơ 5-7.
2. Bài nói chuyện núi ô-li-ve Ma-thi-ơ 24-25.
3. Bài nói chuyện trên phòng cao Giăng 13-16,17.
Ngoài ra còn có nhiều sứ điệp ngắn khác.
Một số người nói Chúa Jêsus đã đề cập đến 18 đề tài khác nhau trong bài giảng trên núi. Ma-thi-ơ 7:28,29 dân chúng thích thú giáo lý Ngài vì Ngài dạy cách có quyền năng, không như các thầy thông giáo. Lu-ca 4:22,32, Chúa giảng dạy cách mới, cách mạng và ngược lại với lý luận của con người.
I. CHÚA DẠY VỀ SỰ CỨU RỖI.
Trong bài nói chuyện với Ni-cô-đem, Chúa bảo ông phải sanh lại Giăng 3:1-15.Trong khi nói chuyện với người đàn bà Sa-ma-ri Ngài khiến bà ta khao khát chính Ngài là nước hằng sống.
Trong Giăng 6 Ngài tự tỏ mình là bánh thật, thỏa mãn sự đói khát của nhân loại. Trong Lu-ca 7:47,48 Ngài dạy rằng Ngài có quyền tha tội người biết ăn năn. Trong Giăng 10 bài giảng về người chăn hiền lành, Chúa Jêsus bày tỏ rằng Ngài là cửa cứu rỗi duy nhất, không ai có thể được cứu ngoài Ngài. Trong Ma-thi-ơ 11:28-30, Chúa kêu gọi kẻ mệt mỏi, người lao động mệt nhọc đến cùng Ngài để được cứu rỗi và sự yên nghỉ. Sự mời gọi đến sự cứu rỗi mở rộng thêm ra trong Lu-ca 14:16-24, bao gồm cả những người lang thang, hư hỏng, người nghèo, người bịnh tật, mù lòa, người đau khổ… Câu chuyện cứu rỗi mọi người yêu mến là chuyện đứa con hoang đàng trong Lu-ca 15.
II. CHÚA JÊSUS DẠY VỀ ĐỜI SỐNG HẰNG NGÀY CỦA NGƯỜI CƠ ĐỐC.
Trong Ma-thi-ơ 5:33-48 Chúa dạy 1) Không được thề 2) Đưa má bên kia cho người ta vả 3) Yêu kẻ thù. Trong Ma-thi-ơ 6:1-4 Chúa dạy về sự bố thí: 1) Phải làm trong bí mật. 2) Một sự ký thác đời đời. Chúa Jêsus dạy nhiều về sự cầu nguyện Ma-thi-ơ 6:3-13, Lu-ca 11:1-13, Giăng 14:13-14; 16:23-24 cầu nguyện phải là: 1) Trong bí mật 2) Liên tục 3) Không giới hạn trong lãnh vực và quyền lực nào. Chúa Jêsus dạy ta phải tha thứ kẻ khác trước khi Ngài tha thứ cho chúng ta. Ma-thi-ơ 6:14-15; 5:23,24; 6:16-18; Lu-ca 4:21. Chúa Jêsus dạy cần phải công khai xưng danh Chúa ra Ma-thi-ơ 19:32,33; Giăng 9:38.
Chúa dặn dò người tin Chúa trở về nhà làm chứng cho bà con bạn hữu trước Mác 5:19. Chúa dạy sự cứu rỗi chắc chắn cho người tin Giăng 3:16-18, 56, Giăng 5:24.
Phần lớn bài giảng phòng cao nói về chức vụ của Thánh linh là Đấng hướng dẫn, ban năng lực và sứ mạnh cho tín đồ Giăng 14:16-21. Chúa Jêsus không hứa với các môn đồ và tín đồ thời kỳ dễ dàng, nhưng nhắc cho họ rằng họ sẽ bị bắt bởi vì Ngài, và Ngài hứa giúp họ ân điển đầy đủ trong lúc thử thách Giăng 16:1-6; Lu-ca 12:11,12.
III. CHÚA DẠY VỀ NGƯỜI PHA-RI-SI VÀ CÁC GIÁO SƯ GIẢ.
Chúa Jêsus mạnh mẽ tố các giáo sư giả và kẻ giả hình. Trong Ma-thi-ơ 23:13-36 Ngài nói: “Khốn cho các ngươi người Pha-ri-si, thầy thông giáo và kẻ giả hình” 8 lần, Câu 13,14,15,16, 23,25,27, và 29, gọi họ là người mù và điên.
Trong Giăng 8:44 Chúa mạnh mẽ nói rằng cha họ là ma quỷ.
Trong Ma-thi-ơ 16:6 Chúa cảnh cáo các môn đồ “Cẩn thận về men người Pha-ra-si và Sa-đu-sê”, là người dạy tà giáo phủ nhận sự phục sinh, Jêsus dạy rằng những giáo sư giả nầy làm hết sức khiến có người theo, nhưng lại làm cho những người ấy trở thành “con cái địa ngục gấp hai họ “Ma-thi-ơ 23:15. Trong Ma-thi-ơ 7:15-20 Chúa cảnh cáo các tiên tri giả là muông sói mang lốt chiên. Lu-ca 20:41-47 nhắc ta cẩn thận về các thầy thông giáo.
IV. CHÚA DẠY VỀ SỰ QUẢN LÝ.
Chúa dạy về cách dùng tiền và tài sản đúng đắn trong Lu-ca 12:16-34, của cải thật phải gửi trước cho Chúa (33,34). Khi người đàn bà dâng 2 đồng xu trong Mác 12:41-44, Ngài đánh giá cao bà nầy vì bà đã rời rộng dâng cho Chúa.
Trong Ma-thi-ơ 25:14-30 Chúa dạy ta xủ dụng các ta lâng Chúa ban làm vinh Danh Chúa. Trong Lu-ca 19:11-27 Chúa dạy mở mang nước Chúa cho đến ngày Chúa đến. Các tín đồ là người quản lý tiền bạc, thời gian, tài năng, ân tứ và các cơ hội.
V. CHÚA DẠY VỀ THIÊN ĐÀNG, ĐỊA NGỤC.
Chúa Jêsus dạy về địa ngục và hình phạt đời đời ít nhất 70 lần trong các sách Tin lành. Ma-thi-ơ 25:41 “Hãy lui khỏi Ta, hỡi kẻ bị rủa, vào lửa đời đời dành cho ma quỷ. Chính Chúa Jêsus dạy chúng ta hình ảnh đau đớn rõ rệt trong địa ngục ở Lu-ca 16:42-48 cảnh cáo nghiêm trọng địa ngục là nơi sâu bọ không chết và lửa không tắt, câu 44, 46,43.
Trong bài giảng phòng cao Chúa xác định Ngài đi sắm sẵn cho chúng ta, một chỗ và sẽ trở lại tiếp rước chúng ta- Giăng 14:1-3.
Đối với tên trộm ăn năn Chúa Jêsus nói: Hôm nay ngươi sẽ ở với ta trong Pa-ra-di.
Chúa Jêsus mô tả thiên đàng như nhà Cha - Ma-thi-ơ 6:9; Lu-ca 11:2.
Chúa Jêsus đã từ thiên đàng đến chịu chết để mang nhiều con về nhà thiên đàng- Hê-bơ-rơ 2:10.
VI. CHÚA DẠY VỀ SỐNG KẾT QUẢ.
Giăng 15:1-17 trọng tâm của bài giảng phòng cao đề cập đến cây nho và nhánh với ước muốn chúng ta phải kết quả hơn.
Trong thí dụ về cây vả không trái trong Lu-ca 13:6-9, Cây (người cơ Đốc) không kết quả sẽ bị cắt, phá và ném vào lửa.
Trong Ma-thi-ơ 7:16-20 Chúa Jêsus dạy “Bởi trái của họ các ngươi sẽ biết họ…”
Trong thí dụ người gieo giống Ma-thi-ơ 13:1-23 Chúa Jêsus diễn tả ý nghĩa Mỗi Cơ Đốc nhân phải kết quả có người gấp 30 lần, gấp 60 lần, và gấp 100 lần.
Là Cơ đốc nhân chúng ta cần được tỉa sửa để sai trái hơn- Giăng 15:2. Sự tỉa sửa là kinh nghiệm cay đắng của việc “đào bới, vô nhân ” nhưng là việc cần thiết của kết quả.
Lu-ca 6:43-46 Chúng ta là Cơ Đốc nhân phải mang trái Thánh Linh và chinh phục linh hồn tội nhân về cho Chúa.
VII. CHÚA DẠY VỀ LỜI TIÊN TRI.
Bài giảng trên núi Ô-li-ve trong Ma-thi-ơ 24-25 đề cập hầu hết đến đề tài tiên tri.
– Ma-thi-ơ 24:1-3 Đề cập đền sự hủy phá thành Giê-ru-sa-lem xảy ra năm 70 SC.
– Ma-thi-ơ 24:4-14 nói đến sự suy đồi của thời kỳ chúng ta đang sống.
– Ma-thi-ơ 24:15-26 đề cập đến cơn đại nạn, thời kỳ khó khăn của nhà Gia-cốp.
– Ma-thi-ơ 24:27-31 nói đến sự trở lại vinh quang của Chúa. Các chi tiết khác chép trong thí dụ về cây vả (32-51) và 10 nữ đồng trinh trong Ma-thi-ơ 25:1-13.
– Ma-thi-ơ 25:31-46 Nói đến sự phán xét các dân tộc và sự chia chiên và dê.
– Bảy sự mầu nhiệm trong Ma-thi-ơ 13:1-52 là các quan điểm khác về Nước Trời.
KẾT LUẬN:
Tôi có thể nói rằng sự giáo huấn của Đấng Christ có thể gồm tóm trong một chữ: YÊU. Ngài nhấn mạnh và tóm lược 600 điều răn mà người Do Thái chính thống đã tóm thành 2 điều răn:
1) Yêu Đức Chúa Trời.
2) Yêu kẻ lân cận - Ma-thi-ơ 22:37-39.
Tình yêu đã trở thành dấu hiệu chính của một người Cơ Đốc - Giăng 1:35.
Trong Giăng 15:13 Chúa Jêsus ngụ ý sự chết của Chúa trên thập giá để đền tội nhân loại là sự thể hiện của tình yêu cao cả dành cho tội nhân. Lời cầu nguyện của Chúa Jêsus trong Giăng 17 là lời nài xin cho sự hiệp một. Xem các câu 11,21,22,23. Không nhất thiết là hiệp nhất trong tổ chức nhưng hiệp nhất trong mục đích vớt tội nhân.
Chúa Jêsus để lại Hội Thánh là thân thể Ngài trên đất để làm chứng về Ngài khi Ngài vắng mặt Ma-thi-ơ - Ma-thi-ơ 28:19; Mác 16:15.
Giáo lý của Chúa Jêsus dạy chúng ta không chỉ yêu người đáng yêu mà yêu thương mọi người ngay cả kẻ thù, vì Chúa đã yêu họ rồi - Ma-thi-ơ 5:44; I Giăng 4:19; Rô-ma 5:8.
Câu hỏi ôn:
1. Ba bài giảng chính trong chức vụ Chúa Jêsus là gì?
2. Tóm lược 3 điểm Chúa dạy về sự cứu rỗi.
3. Trong 6 cách, bạn cho rằng lời dạy của Chúa là mới mẻ và cách mạng?
4. Trong bài giảng phòng cao Chúa nói về ai nhiều nhất?
5. Đoạn nào trong Kinh Thánh Chúa công bố 8 điều khốn nạn về người Pha-ri-si là kẻ giả hình?
6. Người tín đồ có phải quản lý về tiền bạc thôi phải không? giải thích?
7. Chúa dạy gì về địa ngục?
8. Nhắc 3 khúc Kinh Thánh nói đến sự sống kết quả.
9. Bài giảng nào Chúa nói lời tiên tri?
10. Làm thế nào các điều răn có thể tóm lại thành một động từ “yêu”?
LỜI GIỚI THIỆU:
Ngày nay, nhiều người cho rằng Đấng Christ đã phế bỏ luật pháp và Ngài đã làm trọn luật pháp rồi, Ngài chỉ để lại cho chúng ta một mạng lệnh duy nhất là hãy yêu thương nhau. Nhưng đọc kỹ các sách Tin lành, chúng ta thấy Chúa Jêsus đã truyền cho nhân loại nói chung và các môn đệ Ngài nhiều mạng lịnh quan trọng, chúng ta cần biết và vâng theo. Các sách Tin Lành có khoảng 147 mạng lịnh.
I. HÃY ĂN NĂN.
Ăn năn có hai khía cạnh: quay khỏi tội lỗi và quay về với Đức Chúa Trời.
– Ma-thi-ơ 4:17 Hãy ăn năn vì nước Đức Chúa Trời đã đến gần.
– Lu-ca 13:24 Hãy gắng sức vào cửa hẹp.
– Ma-thi-ơ 6:33 trước hết hãy tìm kiếm nước Đức Chúa Trời.
II. HÃY TIN.
Chúng ta phải tin Tin lành, tin Đấng Christ và Đức Cha.
– Mác 1:15 Hãy ăn năn và tin Tin lành. Đây là lời chính Chúa Jêsus không phải lời của Giăng.
– Giăng 14:1 Hãy tin Đức Chúa Trời cũng hãy tin ta nữa.
– Giăng đoạn 6:29 Hãy tin Đấng mà Ngài sai đến.
III. PHẢI SANH LẠI.
Sự tái sanh là hành động mầu nhiệm của Đức Thánh linh, khiến người ăn năn sẽ được đổi mới thành con cái sinh ra trong gia đình của Chúa.
– Giăng 3:7 Chớ lấy làm lạ ngươi phải sanh lại.
– Lu-ca 10:20 Hãy mừng vì tên các ngươi đã được ghi trên thiên đàng.
– Ma-thi-ơ 12:23 Xem trái thì biết cây, phải sanh lại thì mới có đời sống mới.
IV. HÃY NHẬN LẤY ĐỨC THÁNH LINH.
Mỗi tín hữu cần được Đức Thánh linh ngự trị và ban quyền năng.
– Giăng 20:22 Ngài hà hơi và phán: Hãy nhận Đức Thánh linh.
– Lu-ca 24:49 Hãy chờ trong thành cho đến khi nhận.
VI. PHẢI CẦU NGUYỆN LUÔN.
Đặc điểm quan hệ của đời sống người tín đồ là cầu nguyện.
– Lu-ca 21:36 Hãy thức canh cầu nguyện.
– Lu-ca 10:2 Cầu nguyện chủ mùa gặt sai con gặt.
– Lu-ca 6:28 Hãy cầu nguyện cho kẻ bắt bớ anh em.
VII.PHẢI CÓ ĐỨC TIN.
Các thánh đồ của Đức Chúa Trời được tôn vinh vì có Đức tin nơi Đức Chúa Trời vinh hiển.
– Mác 11:12 Hãy có đức tin nơi Đức Chúa Trời.
– Giăng 20:27 Đừng sợ chỉ tin mà thôi.
– Ma-thi-ơ 14:27 Ấy là Ta đây đừng sợ.
VIII. PHẢI TÌM KIẾM LỜI CHÚA.
Đây là công việc hằng ngày của người tín hữu.
– Giăng 5:39 Các ngươi tìm xem Kinh Thánh.
– Giăng 15:20 Hãy nhớ lời Ta đã phán cùng các ngươi.
IX. HÃY CHIẾU SÁNG.
Mỗi tín đồ hằng ngày phải soi sáng.
– Ma-thi-ơ 5:16 Hãy soi ra như vậy đặng họ thấy việc lành…
– Giăng 15:16 Các ngươi đi và kết quả, trái đậu luôn…
– Mác 5:19 Hãy về nơi bạn hữu các ngươi và thuật lại việc lớn Chúa đã làm cho ngươi.
X. HẾT LÒNG YÊU CHÚA.
Người tín hữu phải yêu Chúa và hết lòng hầu việc Chúa.
– Mác 12:30 Yêu Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí…
– Mác 4:10 Chỉ thờ và hầu việc một mình Ngài.
XI. LÀM TRỌN BỔN PHẬN ĐỐI VỚI CHÍNH QUYỀN.
Người tín đồ phải yêu và vâng phục chính quyền.
– Mác 12:17 Hãy trả cho Sê-sa…
XII.LÀM TRỌN BỔN PHẬN ĐỐI VỚI CÁC NGƯỜI LÁNG GIỀNG.
Láng giềng của chúng ta là những người có cần ta.
– Ma-thi-ơ 19:19 Hãy yêu kẻ lân cận như mình.
– Lu-ca 6:31 Điều gì các ngươi muốn người ta làm cho mình, hãy làm điều đó cho họ.
XIII. KHÔNG THAM LAM.
Đời sống chúng ta phải hướng về trời không hướng về đất.
– Lu-ca 12:15 cẩn thận không tham lam.
– Ma-thi-ơ 15:42 Ai xin hãy cho, ai mượn đừng trớ.
– Ma-thi-ơ 6:19 chớ chứa của cải dưới đất.
XIV. KHÔNG GIẢ HÌNH.
Cẩn thận tránh sự đạo đức giả.
– Lu-ca 12:1 cẩn thận men người PHA-RI-SI, giả hình…
– Ma-thi-ơ 23:2,3 đừng theo việc họ làm.
XV. HÃY NHU MÌ.
Hãy giống Chúa Jêsus trong sự nhu mì, hạ mình, khiêm tốn.
– Ma-thi-ơ 11:29 Hãy gánh ách Ta và học theo Ta.
– Mác 10:44 Ai muốn làm lớn phải làm nhỏ.
– Lu-ca 17:10 chúng tôi chỉ là đầy tớ vô ích.
XVI. YÊU THƯƠNG ANH EM.
Chúng ta phải yêu thương tha thứ và chịu đựng.
– Giăng 15:12 Hãy yêu thương lẫn nhau như Ta đã yêu các ngươi.
– Ma-thi-ơ 18:10 Cẩn thận đừng khinh một đứa trẻ nào.
– Ma-thi-ơ 5:24 trước hãy làm hòa với anh em.
– Lu-ca 17:4 nếu phạm tội 7 lần cũng hãy tha cho.
– Lu-ca 6:37 đừng phán xét để khỏi bị phán xét, hãy tha để được tha.
XVII. HÃY NÊN TRỌN LÀNH.
Chúa Jêsus nêu lên tiêu chuẩn cao cả cho người theo Chúa.
– Ma-thi-ơ 5:48 Hãy trọn vẹn như Cha các ngươi trên trời là trọn vẹn.
– Lu-ca 6:36 Hãy thương xót như Cha các ngươi hay thương xót.
XVIII. HÃY KHÔN NGOAN.
Đây không phải là sự không ngoan của loài người, nhưng là sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời ban cho.
– Ma-thi-ơ 10:16 Khôn ngoan như rắn, hiền như bồ câu.
– Ma-thi-ơ 7:6 Đừng đem đồ Thánh cho chó, cũng không quăng ngọc cho heo. Điều nầy đòi hỏi sự khôn ngoan để biết khi nào nên nói.
XIX.HÃY GIẢNG TIN LÀNH.
Mỗi tín hữu phải giảng tin lành nơi mình đang sống.
– Ma-thi-ơ 16:15 Hãy đi khắp thế gian giảng tin lành.
– Lu-ca 24:47 Giảng Danh Chúa ra khắp nơi bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem…
– Giăng 21:15-17 Hãy chăn chiên con Ta…
XX.HÃY SẴN SÀNG ĐÓN CHỜ SỰ TÁI LÂM CỦA ĐẤNG CHRIST.
Chúng ta phải sẵn sàng cho biến cố nầy từng giờ từng phút.
– Lu-ca 12:40 Hãy sẵn sàng vì Con Người đến trong giờ các ngươi không ngờ. Lúc chúng ta cũng sẵn sàng nghinh đón Chúa.
XXI. HÃY TRUNG TÍN CHO ĐẾN CHẾT.
Sự vinh hiển thật là sự hoàn thành vinh hiển.
– Ma-thi-ơ 24:13 Ai trung tín đến cuối cùng sẽ được cứu.
KẾT LUẬN:
Giăng 14:23 Nếu ai yêu Ta thì sẽ giữ lấy lời Ta… Hãy dùng những mạng lịnh nầy để xét lại đời sống chúng ta trước mặt Chúa. Chúa Jêsus ban cho chúng ta những mạng lịnh nầy để hướng dẫn chúng ta bước theo Ngài vào khung cửa hẹp.
Câu hỏi ôn:
1. Có bao nhiêu mạng lịnh của Chúa Jêsus trong các sách Tin lành? Bao nhiêu trong các sách thơ tín và khải thị?
2. Mục đích của những mạng lịnh nầy là gì?
3. Có 3 điều Chúa Jêsus muốn chúng ta là tín đồ phải tin tưởng?
4. Liệt kê 5 cách chúng ta theo Chúa Jêsus?
5. Từ Ma-thi-ơ 5:16 “Những việc lành” gì chúng ta phải bày tỏ cho thế gian?
6. Tôi phải yêu Chúa như thế nào?
7. Hãy trích dẫn luật vàng?
8. Giải thích Lu-ca 12:15 “đời sống con người không chỉ cốt tại của cải dư dật đâu.
9. Tại sao Chúa Jêsus bảo chúng ta là loài người bất toàn phải toàn vẹn như Đức Chúa Trời trong Ma-thi-ơ 5:48?
10. Chúng ta phải giảng Tin lành cho ai?
LỜI GIỚI THIỆU:
Đề tài nầy suốt nhiều thế kỷ đã là một bãi chiến trường mà con người đã chiến đấu, đầu ốc khoa học của thế kỷ XX đã nỗ lực giải quyết cuộc tranh luận nầy. Ngày nay, dường như cả hai dòng tư tưởng cùng tồn tại: một số chấp nhận phép lạ còn một số không thừa nhận.
Các khoa học gia tư khước phép lạ vì họ không thể hiểu cũng không thể chứng minh phép lạ được.
Người tín đồ Tin lành chấp nhận phép lạ vì họ có đức tin nơi Đức Chúa Trời là Đấng toàn năng. Chữ phép lạ được dùng cách dễ dãi ngày hôm nay. Một số người thoát chết trong một tai nạn xe hơi liền nhấn mạnh: “đó thật là một phép lạ.” Thật ra, đó chính là một hành động quan phòng Thiên thượng - đó là sự bảo vệ của các Thiên sứ canh giữ chúng ta. Vào trường hợp khác, khi chúng ta tình cờ gặp một người yêu mến dưới một hoàn cảnh thật bất ngờ, chúng ta nói đó thật là một phép lạ. Thật ra, đó là sự quan phòng của Chúa để dẫn dắt ta.
Vậy, chúng ta hãy bắt đầu với một định nghĩa có thể chấp nhận được về phép lạ.
I. ĐỊNH NGHĨA CHỮ PHÉP LẠ.
Định nghĩa đơn giản của phép lạ là sự để qua một bên luật thiên nhiên bằng một luật siêu nhiên. Luật siêu nhiên là luật của Đức Chúa Trời vốn cao hơn luật thiên nhiên của quả đất.
Chẳng hạn, một trái táo rơi ngược lên trời thay vì rơi xuống đấtđó là một phép lạ. Đó sẽ là quyền năng của Đức thánh linh chế ngự và thay đổi luật trong lực và luật vạn vật hấp dẫn.
Sau đây là một định nghĩa kinh điển hơn: “Phép lạ là sự ảnh hưởng trong thiên nhiên, không do các hoạt động được thừa nhận trong thiên nhiên hay do hành động của con người, nhưng chứng tỏ một quyền lực cao siêu và nhằm làm một dấu chứng” (Lindsoll và Woodbridge). Trong Công vụ 4:16,22 cả quốc hội Do-thái và Đức thánh linh gọi sự chữa lành trong Công vụ 3:1-11 là một phép lạ. Bình thường một người 40 tuổi mà không hề đi được sẽ không thể đứng dậy, bước đi, nhảy nhót như một người mạnh mẽ được. Cho nên người què ở cửa hẹp đứng dậy đi được là một phép lạ.
II. SỰ ĐỘC NHẤT VÔ SONG CỦA PHÉP LẠ CHÚA JÊSUS.
Các phép lạ của Chúa Jêsus được thi thố đề chứng minh “Thần tánh” của Ngài và gây uy tín cho các sứ điệp của Ngài. Giăng 2:11 đây là phép lạ thứ nhất Chúa làm tại Ca-na xứ Ga-li-lê, bày tỏ sự vinh hiển Ngài và các môn đồ tin Ngài. Các tiên tri (Môi-se, A-rôn, Ê-li, Phi-e-rơ và Phao-lô) thực hiện các phép lạ được Chúa ủy nhiệm cho họ để hoàn thành công tác, nhưng Chúa Jêsus thực hiện các phép lạ bằng quyền năng riêng của Ngài, để bày tỏ Thần tánh của Chúa. Nói chung, trong các sách tin lành có ghi chép lại từ 35-40 phép lạ mà Chúa Jêsus đã thi hành với mọi hình thức bởi vì: Mọi quyền phép đều giao cho Chúa Jêsus (Ma-thi-ơ 28:18).
Trong khi bị cám dỗ Chúa Jêsus (Lu-ca 4:3,4) đã từ chối làm phép lạ theo đề nghị của Ma quỷ sau khi Ngài kiêng ăn 40 ngày.
III. LÃNH VỰC PHÉP LẠ CỦA CHÚA JÊSUS.
A. Trên thiên nhiên:
Ma-thi-ơ 8:26,27 Chúa Jêsus khiến biển yên lặng.
B. Trên Ma quỷ:
Chúa Jêsus đuổi quỷ ra khỏi người bị quỷ ám. Mác 5:12,13; Ma-thi-ơ 8:28-32; 9:32-33; 15:22-28; 17:14-18; Mác 1:23-27.
C. Trên bệnh tật:
– Bại liệt Ma-thi-ơ 8:13; 9:6; Giăng 5:9.
– Teo tay Ma-thi-ơ 12:13.
– Lưng còng Lu-ca 3:12.
– Mất huyết Ma-thi-ơ 9:22.
– Phù thũng Lu-ca 14:2.
– Sốt rét Ma-thi-ơ 8:15.
– Câm không nói Ma-thi-ơ 9:33.
– Mù mắt Giăng 9:1-38.
– Điếc tai Ma-thi-ơ 11:5.
– Phung các loại Ma-thi-ơ 8:3; Lu-ca 17:19.
D. Trên sự chết:
– Ngài kêu La-xa-rơ từ kẻ chết Giăng 11:43-44.
– Ngài kêu con gái Giai-ru Ma-thi-ơ 19:18-26.
– Ngài kêu con trai bà góa Na-in Lu-ca 7:12-15.
E. Các lãnh vực khác:
– Chúa hóa nước thành rượu Giăng 2:1-11.
– Nuôi năm ngàn người ăn Giăng 6:1-14.
– Bước trên nước biển Giăng 6:15-21.
– Nuôi 4. 000 người ăn Ma-thi-ơ 15:32-39.
– Khiến cây vả khô Ma-thi-ơ 21:18-22.
– Tìm đồng bạc trong miệng cá Ma-thi-ơ 17:27.
– Phép lạ đánh cá Lu-ca 5:1-11; Giăng 21:6.
F. Phép lạ lớn nhất:
Là sự phục sinh của chính Chúa Jêsus sau ba ngày nằm trong phần mộ. (Cô-rinh-tô 5;4; Rô-ma 1:4).
IV. SỰ ĐÁNG TIN CỦA PHÉP LẠ CHÚA JÊSUS.
Các phép lạ của Chúa Jêsus được ghi chép cẩn thận, rõ ràng trong Kinh Thánh không thể lẫn lộn được. Những phép lạ nầy có tính cách công khai, trước mặt nhiều nhân chứng “Tai nghe mắt thấy.” Các phép lạ về chữa lành bệnh tật không hề bị các bác sĩ và khoa học gia phủ nhận. Không một ai có khả năng tái diễn các phép lạ đó y như Chúa. Các phép lạ của Chúa là độc nhất vô nhị. Chúa Jêsus không bao giờ làm phép lạ vì các mục đích không trong sạch hoặc không xứng đáng, các động cơ của ngài đều tốt lành. Các phép lạ của Chúa Jêsus có hiệu quả tức thì, sự chữa lành xảy ra lập tức và lạ lùng.
Chúa Jêsus chứng minh cho Giăng Báp-tít biết Ngài là Đấng Christ khi chỉ cho ông thấy các phép lạ Ngài làm Ma-thi-ơ 11:3-6. Cố gắng giải thích các phép lạ là xúc phạm quyền năng và sự chính trực của Đấng Christ. Các phép lạ là thật và chúng ta vui vẻ xác nhận đức tin chúng ta trong lời Đức Chúa Trời.
V. CÁC SỰ CHỐNG ĐỐI PHÉP LẠ CHÚA JÊSUS.
1. Một số người nói rằng nhân cách Chúa Jêsus quá mạnh mẽ đến nỗi Ngài có ảnh hưởng lớn, có thể chữa vài bệnh thần kinh bấy ổn.
2. Một số gợi ý giải thích các phép lạ cách buồn cười do lòng vô tín. Chẳng hạn họ cho rằng biển cạn và Chúa thực sự đi trên cát, khi cậu đưa bánh và cá cho Chúa thì mọi người mới lấy bánh và cá mình đem theo chia cho người khác, hoạc người chết chưa chết hẳn.
3. Thuyết duy vật từ chối lực siêu nhiên mà chỉ chấp nhận lực lượng vật chất nên từ chối phép lạ.
4. Thuyết phiếm thần chỉ thừa nhận luật tự nhiên và cho rằng không có phép lạ.
5. Thuyết bất khả tri từ chối phép lạ vì họ từ chối nguồn phép lạ là Đức Chúa Trời.
6. Các nhà Tự nhiên học nói rằng tính chất không thay đổi của thiên nhiên loại trừ phép lạ.
7. Những nhà lạc quan (hay lý tưởng) cho rằng mọi sự tốt lành và phép lạ không cần thiết.
8. Những người khác chối bỏ phép lạ chỉ vì “không đủ bằng chứng.”
Đối với chúng ta, sự đáng tin của Đức Chúa Trời là rõ ràng, chúng ta tin lời Chúa và không thắc mắc gì.
VI. GIÁ TRỊ PHÉP LẠ CỦA CHÚA JÊSUS.
Đối với chúng ta, các phép lạ chứng tỏ Jêsus là Chúa cứu thế. Chúa Jêsus chứng tỏ thân vị và thần tánh Chúa bằng các phép lạ Ngài làm, các phép lạ là bằng chứng của quyền lực siêu nhiên II Cô-rinh-tô 2:9 (quyền lực của Antichrist đến từ Sa-tan).
Chúa Jêsus tiếp nhận quyền lực siêu nhiên từ đâu và từ ai? chắc chắn là từ Đức Chúa Trời.
Các phép lạ không cứu rỗi ai (Giăng 12:37), nhưng phép lạ có thể dẫn một người đến đức tin. Ma-thi-ơ 8:27 các phép lạ chắc chắn tăng cường đức tin cho người vốn có đức tin.
Riêng cá nhân tôi, tôi vui mừng vì Chúa Jêsus đã làm phép lạ, điều nầy đánh đổ mọi nghi ngờ vô tín trong tôi và dạy tôi tin tưởng tuyệt đối nơi Ngài không sợ hãi. Đấng đã khởi sự làm việc cứu rỗi tôi sẽ làm cho trọn Phi-líp 1:???
VII. CÁC PHÉP LẠ CÓ THỂ XẢY RA HÔM NAY.
Trong cựu ước, các phép lạ đã làm ra bởi các người như Môi-se, Ê-li, Ê-li-sê… Trong các sách Tin lành, Chúa Jêsus đã làm nhiều dấu kỳ phép lạ. Sau khi Chúa thăng thiên, các phép lạ làm ra bởi các sứ đồ như Phi-e-rơ, Phao-lô… Nếu các phép lạ được làm ra trong quyền năng Đức Chúa Trời thì chắc chắn có phép lạ vì Chúa của chúng ta không hề thay đổi Hê-bơ-rơ 13:8. Các phép lạ có thể xảy ra Hôm nay. Tuy vậy,
KẾT LUẬN:
Chúng ta hãy tôn vinh Đức Chúa Trời bằng việc chấp nhận các phép lạ đúng y như Kinh thánh đã chép. Chúng ta đừng xúc phạm Chúa với sự khờ dại và vô tín do sự hữu hạn của chúng ta. Tốt hơn, chúng ta nên bắt chước người nữ da đen kia khi bà nói: “Tôi tin rằng con cá nuốt ông Giô-na vì Kinh Thánh chép như thế, Nếu Kinh Thánh chép là ông Giô-na nuốt con cá thì tôi cũng tin như vậy.”
Câu hỏi:
1. Tại sao các khoa học gia chối bỏ phép lạ?
2. Cái mà ta thường gọi là phép lạ có đúng thực là phép lạ không?
3. Phép lạ là gì?
4. Các phép lạ của Chúa Jêsus độc đáo theo 3 cách nào?
5. Liệt kê 7 loại phép lạ Chúa Jêsus đã làm.
6. Kể 8 bệnh tật mà Chúa Jêsus đã chữa lành.
7. Tại sao chúng ta phải tin các phép lạ của Chúa Jêsus?
8. Một số người chối bỏ phép lạ căn cứ trên cơ sở nào?
9. Liệt kê 3 giá trị phép lạ Chúa.
10. Ngày nay phép lạ có thể xảy ra không?
LỜI GIỚI THIỆU:
Có hai giáo lý bị người ta chống đối hơn cả là sự nhập thể và sự chết của Chúa Giê-xu. “Hai giáo lý nầy bày tỏ tình thương vô hạn, lạ lùng và không dò hiểu được của Đức Chúa Trời đối với con người khổ nghèo tội lỗi ” (tiến sĩ Adolph Saphir). Sự chết đền tội là giáo lý quan trọng mà Phi-e-rơ, Phao-lô, Gia-cơ và Phi-líp đã giảng trong Công vụ: “Không có một tia hy vọng nào cho con người ở ngoài sự đền tội ” (D.l. Moody). Sự chịu chết là công tác lớn nhất mà Chúa Jêsus đã thực hiện trên mặt đất. Chúng ta ra đời để sống, và sự chết chấm dứt công tác chúng ta; còn Đức Chúa Con ra đời để chết, và sự chết của Ngài khởi sự cứu rỗi chúng ta. Mục đích giáng thế của Ngài không thể đạt được bằng đường lối nào khác.
Tội lỗi đưa đến sự chết đó là hình phạt tất nhiên, người có tội phải chết, cho nên người thay thế phải chết. Trên tòa án Thiên đàng không thể có sự hối lộ để xí xóa, bỏ qua tội lỗi. Sự đền tội là quả tim của Cơ đốc giáo. Sự đền tội giải quyết vấn đề tội lỗi. Tội lỗi và sự đền tội là nội dung của Kinh thánh, sợi chỉ đỏ bằng máu chạy suốt xuyên qua Kinh thánh từ Sáng thế đến Khải huyền.
I. GIÁO LÝ VỀ SỰ CHẾT CỦA CHÚA JÊSUS.
1. Được Đức Chúa Trời báo trước:
o Ê-sai 53:8 Ngài bị cất khỏi đất kẻ sống.
o Đa-ni-e ân 9:26 Chữ cắt đứt ở đây nói đến sự chết.
o Xa-cha-ri 13:7 Ta đánh kẻ chăn, bầy chiên tan lạc.
2. Đức Chúa Trời chỉ định sự chết của Ngài:
o Ê-sai 53:6 Đức Giê-hô-va làm cho tội lỗi chúng ta
o Ê-sai 53:10 Đức Chúa Trời đẹp lòng làm tổn thương người.
o Công vụ 2:23 Bởi sự biết trước của Đức Chúa Trời, các người đóng đinh Ngài.
3. Ý nghĩa sự chết của Chúa:
o Đền tội: được dùng 77 lần nghĩa là bao phủ tội lỗi. Đây là từ ngữ dùng ở trong cựu ước và chỉ xuất hiện một lần trong Tân ước ở Rô-ma 5:11.
o Sự làm lành: làm nguôi cơn giận: Đây là ý niệm về ngôi thi ân. I Giăng 2:2.
o Sự thay thế: Đây là ý niệm về người nầy thay thế cho người kia. Người vô tội chịu phạt thế người phạm tội. Giăng 10:11 Người chăn hiền lành vì chiên mình phó sự sống mình.
o Sự cứu chuộc: Tội nhân trong tình trạng nô lệ được Đức Chúa Trời mua chuộc lại bằng một giá chuộc. I Phi-e-rơ 1:18-19. Anh em được cứu chuộc không phải bởi vàng bạc, nhưng bởi huyết báu Jêsus Christ.
o Sự giảng hòa: Đức Chúa Trời và loài người là kẻ thù địch, chúng ta được làm hòa với Đức Chúa Trời nhờ sự chết của con Ngài và trở thành bạn hữu. Rô-ma 5:10 “khi chúng ta còn là thù nghịch thì nhờ sự chết của con Ngài nên chúng ta được giảng hòa với Đức Chúa Trời.”
o Giá chuộc: Giá trả cho sự giải phóng một tù nhân (người bị tội lỗi bắt cóc). Ma-thi-ơ 20:28 “Con người đến không phải để người ta phục vụ mình, nhưng để phục vụ người ta và phó mình làm giá chuộc nhiều người.” Xem Giăng 19:18.
4. Phương thức Chúa chịu chết:
o Ngài chết do bị đóng đinh Ma-thi-ơ 27:35; Mác 15:24; Lu-ca 23:33.
o Ngài chịu treo trên thập tự như con rắn treo lên nơi đồng vắng Dân 21:8; Giăng 3:14.
o Chúa chịu chết cách sỉ nhục Hê-bơ-rơ 12:2 “Chịu thập giá khinh điều sỉ nhục ”
o Chúa chịu cái chết bị rủa xả Ga-la-ti 3:23 “Đáng rủa sả kẻ bị treo trên cây gỗ.”
5. Chúa chết cách tình nguyện:
Chúa tình nguyện chịu chết thay chúng ta, không ai bắt buộc Ngài làm điều đó ngoài tình thương Ngài. Giăng 10:18 Không ai cất mạng sống Ta, Ta phó.
6. Lý do Chúa chết:
Tại sao Chúa Jêsus Đấng vô tội phải chịu chết? Chúng ta thường thấy thế nào một tội nhân phải chịu chết vì tội của mình như là hậu quả của tội lỗi.
Nhưng Chúa Jêsus đã mang lấy tội chúng ta và chịu chết để thỏa mãn sự công bình của Đức Chúa Trời thánh khiết trên thiên đàng thay cho chúng ta. Tội lỗi đòi phải trả giá và tiền công của tội lỗi là sự chết. Chỉ có Đấng Christ mới có thể trả giá cách đầy đủ. Mọi thuộc tánh của Đức Chúa Trời phải hòa hợp nhau để đem lại sự cứu rỗi cho loài người. Bản tánh yêu thương của Đức Chúa Trời không thể tha thứ cho tội lỗi được cho đến khi bổn tánh công bình Ngài được thỏa mãn. Tại thập tự giá, mọi thuộc tánh của Đức Chúa Trời được đáp ứng cách thỏa đáng.
7. Kết quả sự chết của Chúa:
Sự cứu rỗi nhân loại chấp nhận Ngài làm Đấng thay thế. I Ti-mô-thê 4:10 Ngài là Chúa cứu thế của mọi người.
II. NHỮNG LÝ LẼ CHỐNG ĐỐI SỰ CHẾT THAY CỦA CHRIST.
1. Con người không thể chịu đau khổ vì tội mình sao? Vâng, nhưng hình phạt đầy trọn là sự chết đời đời, và cõi đời đời cũng không đủ để trả xong nợ.
2. Con người có thể đền tội chính mình không? Không: Sự đau khổ đời đời cũng không đủ để đền tội. Hê-bơ-rơ 9:22 không có huyết thì không có sự tha thứ. Chỉ có cái chết mới thỏa mãn những đòi hỏi của Đức Chúa Trời, và linh hồn không bao giờ tiếp tục chết nơi địa ngục (có người định nghĩa địa ngục là chết đời đời mà không bao giờ có thể chết).
3. Giáo lý đền tội do Phao-lô sáng chế? Không đúng, chính Chúa Jêsus đã giảng đến khi Ngài còn ở trên đất.
a. Ma-thi-ơ 16:21… chịu chết và sống lại.
b. Giăng 12:24 hạt lúa gieo xuống đất và chết sẽ đem lại nhiều bông trái.
4. Giáo lý nầy không khiến con người cảm thấy vô vọng và phạm tội càng thêm nữa sao? Không, thập giá dạy rằng Đức Chúa Trời rất ghét tội lỗi. Xem Rô-ma 6:1,2.
5. Bắt một người vô tội chịu khổ vì tội chùng ta ngược với ý muốn người đó là không hợp lý: Nếu Chúa Jêsus bị bắt buộc làm điều đó thì bất công thật, nhưng Chúa Jêsus đã tình nguyện chết, chính Chúa lựa chọn làm điều đó.
6. Đức Chúa Trời không thể tha tội nhân mà không cần cái chết khủng khiếp trên thập giá sao? Tội lỗi đã phạm nghịch với chính Đức Chúa Trời, tại sao Ngài không loại tội đó được? Đức Chúa Trời không thể tự động xóa tội chúng ta được vài luật của Đức Chúa Trời phải được thỏa mãn. Sáng 2:17 “ngày ngươi ăn chắc sẽ chết.” Ê-xê-chi-ên 18:4 “Linh hồn nào phạm tội thì sẽ chết.” Rô-ma:23 “tiền công tội lỗi là sự chết.” Sự ăn năn không loại bỏ nhu cầu hình phạt tội lỗi. Tội lỗi đã phạm và tội phải được xử lý theo quan điểm của chính Đức Chúa Trời. Sự công bình và vinh hiển của Chúa cần bảo tồn, sự thánh khiết Chúa đòi phạt tội bằng sự chết.
7. Có thể chuyển tội của người phạm tội cho người vô tội được không? Các tòa án con người chỉ phạt người phạm tội, nhưng họ có thể phạt người chịu thế nếu người ấy bằng lòng tự nguyện chịu thế, không do áp lực nào bắt buộc.(Ê-sai 53:4,5; 1 Phi-e-rơ 2:4).
8. Nếu mỗi tội đòi phải chịu chết đời đời, thì làm thế nào Chúa Jêsus có thể chịu khổ thế cho vô số cái chết của vô số tội nhân chỉ trong vài giờ ngắn ngủi trên thập tự giá?
Không phải là số lượng đau khổ được kể như là sự công bình của Đức Chúa Trời được thỏa mãn, hơn nữa sự kiện một Đấng vô tội chịu chết thay lại là việc khác. Đấng chịu khổ thay không phải là người thường, Ngài là Đấng thần nhân. I Ti-mô-thê 2:5. Ê-sai 52:14 “Mặt mày người xài xể lấm hơn kẻ nào khác, hình dung xài xể hơn con trai loài người” câu nầy gợi ý cái chết quá khủng khiếp, đến nỗi Đức Chúa Trời phải kéo xuống bức màng tối tăm ở thập tự giá kẻo con người thấy vẻ mặt xài xể đó. (Lu-ca 23:44).
KẾT LUẬN:
Cái chết của Chúa đầy đủ cho mọi tội nhân, Ngài chết thay tội lỗi toàn thế gian, Ngài chết vì tội của bạn và đặc biệt là vì tội của tôi.
Câu hỏi:
1. Jêsus phải làm gì để hoàn tất sứ mạng của Ngài trên thế gian?
2. Đưa ra 2 câu tiên tri cựu ước để chứng minh câu trả lời của bạn ở câu 1.
3. Đưa ra 2 câu Kinh Thánh chứng tỏ rằng Đức Chúa Trời sẵn sàng để cho Chúa Jêsus chết trên đất.
4. Đưa ra 5 ý nghĩa cái chết của Đấng Christ và giải thích từng ý nghĩa.
5. Bạn có thể đền tội cho tội mình không? tại sao?
6. Tại sao Chúa Jêsus chết trên thập tự giá?
7. Kết quả cái chết của Jêsus Christ là gì?
8. Đức Chúa Trời có thể tha tội mà không cần cái chết của Chúa Jêsus không? tại sao?
9. Người ta có thể chuyển tội một phạm nhân cho một người vô tội không?
10. Nếu sự hình phạt cho mỗi tội là sự chết thì làm sao Chúa Jêsus chịu chết cho vô số cái chết được?
LỜI GIỚI THIỆU:
Giáo lý phục sinh là giáo lý nền tảng của Tân ước, Tân ước nhắc đến sự phục sinh 104 lần. Cơ đốc giáo là tôn giáo duy nhất với một giáo chủ sống, Đức Phật đã chết, thần Brahma đã chết ( Ấn độ giáo), Mohamed đã chết… Sự hãnh diện và vinh quang của Cơ đốc giáo là ngôi mộ trống: Chúa Jêsus đã sống lại. Trên thập giá Chúa Jêsus lớn tiếng : “Mọi sự đã được trọn” và Đức Cha đã phê chuẩn “Amen”, bằng cách khiến con Ngài sống lại từ trong kẻ chết. Nếu Chúa Jêsus không sống lại từ nơi phần mộ, chúng ta là những kẻ khốn nạn hơn hết vì chúng ta vẫn ở trong tội lỗi, chúng ta vẫn hư mất đời đời ( I Cô-rinh-tô 15:16-19 ). Chúa Jêsus đã phán trước Ngài sẽ chịu chết và sau 3 ngày Ngài sẽ sống lại Ma-thi-ơ 16:21. Nếu sự sống lại là thật thì Jêsus thật là con Đức Chúa Trời, đây là phép lạ mà căn cứ vào đó, các phép lạ khác sẽ tồn tại hay sẽ sụp đổ. Nếu phép lạ lớn nhất nầy là thật, thì thật để cho mọi người thừa nhận tất cả các phép lạ khác.
I. BẰNG CỚ SỰ PHỤC SINH CỦA CHÚA.
1. Ngôi mộ trống. (Ma-thi-ơ 28:6; Lu-ca 24:3 ).
2. Lời chứng của các Thiên sứ. (Ma-thi-ơ 28:46; Lu-ca 24:5-7 )
3. Những người nói chuyện với Ngài sau khi sống lại: Phi-e-rơ, Ma-ri, Cleopas, Thô-ma.
4. Jêsus đã ăn, uống, chỉ ra các dấu đinh ở tay, ở sườn cho các bạn Ngài sau khi sống lại.
5. 500 tín đồ thấy Ngài cùng 1 lúc I Cô-rinh-tô 15: 6.
6. Chúa Jêsus hiện ra với Ê-tiên khi vị chấp sự tử đạo Công vụ 7:56.
7. Chúa hiện ra với Phao-lô trên đường Đa-mách Công 9:5.
8. Bởi lời chứng của hàng triệu người đã chứng minh Ngài là cứu Chúa hằng sống.
9. Bởi những bằng chứng không thể chối bỏ Công vụ 1:3.
II. CÁC LỜI GIẢI THÍCH SỰ PHỤC SINH CỦA CHÚA.
1. Thuyết âm mưu lừa dối: Cho rằng môn đệ âm mưu với nhau dựng chuyện Chúa sống lại cho người tin.
2. Thuyết ngất lịm: Cho rằng Chúa Jêsus chỉ ngất lịm vì các binh lính chưa giết Ngài chết, nhờ vào mộ lạnh và hương liệu khiến Chúa sống lại, – Thuyết nầy hoàn toàn sai vì chính Chúa bị tên lính đâm vỡ tim, máu huyết tràn ra. Ngoài ra, các hương liệu đó là thuốc độc chỉ có thể giết Chúa Jêsus thêm mà thôi, chứ không giúp Chúa hồi sinh được.
3. Thuyết ảo ảnh: Cho rằng các môn đồ muốn gặp lại Chúa Jêsus và họ cứ nghĩ về việc ngài sẽ sống lại, cho nên trong sự tưởng tượng của mình, họ tưởng là họ đã thấy Chúa. – Kinh thánh cho chúng ta biết rằng các môn đồ không tin và không hiểu rằng Chúa sẽ sống lại bao giờ. Chính Thô-ma, sau khi nghe người nầy người kia nói đã thấy Chúa mà ông vẫn không tin, cho đến khi rờ được Ngài bằng tai nghe, mắt thấy. Các môn đồ khác cũng vậy, đến nỗi Chúa phải quở trách họ về việc họ không tin những người thấy Chúa làm chứng lại Lu-ca 24:25.
4. Thuyết thấy ma: Các môn đồ chỉ thấy hình ma bóng quế của Chúa Jêsus và tưởng rằng đã thấy Ngài thực sống lại. Chính Chúa Jêsus đã phủ nhận thuyết nầy khi Ngài nói: “ma thì không thịt, không xương còn các con thấy Ta có”, ma thì không ăn uống, còn Chúa thì ăn với các môn đồ. (Lu-ca 24:39,43 ).
5. Thuyết huyền thoại: Đó chỉ là câu chuyện thần thoại được người xưa kể lại do sự bịa đặt, chứ không có thực. – Toàn bộ Kinh thánh và những chứng cớ sờ sờ về sự phục sinh của Chúa phủ nhận thuyết nầy, vì không có chuyện bịa đặt nào có đủ sức thuyết phục và đứng vững lâu dài trước sự công kích của người vô tín và sự tàn phá của thời gian như thế.
6. Lời giải thích đúng đắn: Ta chỉ có thể thừa nhận rằng chính Chúa Jêsus đã sống lại từ kẻ chết như Ngài đã phán, xem Công vụ 2:24.
III. THÂN THỂ PHỤC SINH CỦA CHÚA.
1. Thân thể có thịt và xương Lu-ca 24:39.
2. Thân thể rất vinh hiển Phi-líp 3:21.
3. Thân thể bất tử không thể chết nữa Rô-ma 6:9.
4. Thân thể thiêng liêng I Cô-rinh-tô 15:44.
5. Thân thể thần linh có thể vượt qua tường nhà xây Giăng 20:19.
IV. CHÚA JÊSUS SỐNG LẠI NHƯ THẾ NÀO?
1. Bởi quyền năng của Đức Cha Công vụ 2:23,24; 3:15; 5:30.
2. Bởi quyền năng của Chúa Thánh linh I Phi-e-rơ 3:18.
V. KẾT QUẢ SỰ PHỤC SINH CỦA CHÚA.
1. Chứng minh sự thực hữu của Đức Chúa Trời. Nếu không có Đức Chúa Trời thì làm thế nào Đấng Christ có thể sống lại từ kẻ chết. Ngài sống lại vì Đức Chúa Trời hằng sống đã khiến Ngài sống lại.
2. Chứng minh thần tánh của Chúa Jêsus Rôm 1:4.
3. Có nghĩa là sự cứu rỗi là sự kiện đã hoàn tất. Chúa Jêsus phán rằng sự cứu rỗi đã được trọn khi Ngài chết trên thập tự giá, và chính sự phục sinh đã xác nhận điều quan hệ đó.
4. Sự phục của Chúa Jêsus bảo đảm rằng mọi người khác đều sẽ sống lại:
– Người công bình sống lại để được sự sống đời đời.
– Người Không công bình sống lại để chịu phán xét và hình khổ đời đời.
5. Sự phục sinh của Chúa chuẩn bị cho Ngài hoàn tất lời hứa “Ta sẽ trở lại đem các ngươi đi với Ta.”
6. “Quyền năng sự phục sinh của Ngài” (Phi-líp 3:10 ), là một kinh nghiệm mà ngày nay ta có thể vui hưởng: nó có nghĩa là sống trong sự tươi mới, của sự sống đến với chúng ta, qua việc Đấng phục sinh sống cuộc sống của Ngài cách mới mẻ trong cuộc sống mỗi chúng ta.
KẾT LUẬN:
Sự phục sinh là quyền năng lớn nhất trên thế giới ngoài quyền năng của sự cầu nguyện. Sự phục sinh vượt trổi hơn quyền năng và sức mạnh của nguyên tử, của Hydrogen, Cobalt hay Uranium. Các thứ vũ khí đó chỉ hủy diệt, còn sự phục sinh ban sự sống cho người chết. Có câu chuyện kia kể rằng: Một người vô tín kia sắp chết và ông muốn chắc chắn rằng thân thể ông không thể sống lại được, nên ông viết 2 câu trong bản di chúc: ” Thân thể tôi phải được hỏa táng, và tro bụi của tôi sẽ được đưa lên phi cơ rải khắp bảy biển “.Nhưng Kinh thánh cho biết : biển sẽ đem trả những người chết mình chứa và các thân thể sẽ sống lại ứng hầu trước tòa án Đấng Christ. Nguyện quyền năng của sự phục sinh này hành động trong thân thể tôi giữ tội khỏi phạm tội.
Sự phục sinh là nền tảng mà trên đó Cơ đốc giáo đứng vững hay sụp đổ. Ngày nay, quyền lực chinh phục mạnh nhất là sự chết, nhưng sự phục sinh của Chúa lại là quyền lực mạnh hơn vì đã phá tan quyền của sự chết. Ngày nay, chúng ta có thể ca hát cách đắc thắng: ” Ớ sự chết cái nọc của mầy ở đâu? ớ mồ mả sự chiến thắng của mầy ở đâu? I Cô-rinh-tô 15:55.
Chúng ta đang hầu việc một Đấng cứu thế hằng sống, Ngài đang cai trị thế giới ngày nay. Sự chiến thắng thuộc về chúng ta khi chúng ta tiến bước với Đấng làm đầu Hội thánh là Jêsus, Đấng chiến thắng sự chết. Nguyện Chúa cho chúng ta ý thức rằng Ngài đang sống, khi sự sống của Ngài trong thân xác chúng ta.
Câu hỏi:
1. Tính chất đặc biệt của Cơ đốc giáo là gì?
2. Đưa 6 bằng cớ về sự phục sinh.
3. Thuyết ngất lịm nói gì về sự phục sinh? có thật không? tại sao?
4. Làm thế nào ta biết thuyết ảo ảnh là sai?
5. Lời giải thích đúng đắn nhất về sự phục sinh của Đấng Christ là gì?
6. Mô tả thân thế phục sinh của Đấng Christ.
7. Chúa sống lại như thế nào?
8. Làm thế nào sự phục sinh của Đấng Christ minh chứng sự thực hữu của Đức Chúa Trời?
9. Tại sao giáo lý phục sinh bị nhiều người từ khước?
10. Theo bạn quyền lực lớn nhất trên thế giới là gì?
LỜI GIỚI THIỆU:
Đời sống của Đấng Christ có thể kể lại theo bốn phép lạ lớn: Sự Giáng sinh, sự phục sinh, sự thăng thiên và sự tái lâm. Hôm nay, chúng ta học phép lạ lớn thứ ba nầy. Sự thăng thiên là biến cố trong đó Đấng Christ từ giã trần gian cách thấy được và trở về Thiên đàng. Ngài giáng thế như một em bé khiêm nhu, Ngài từ giã trần gian như một Đấng chinh phục được tôn vinh. Khi công tác ở dưới đất đã hoàn tất, Ngài bước vào công tác trên trời với việc chuẩn bị sắm sẵn cho chúng ta một chỗ, đồng thời Ngài làm công tác cầu thay của thầy tế lễ thượng phẩm.
I. CÂU CHUYỆN THĂNG THIÊN.
Công vụ 1:9-11 lời mô tả nầy có thể tóm lược trong mấy chữ sau đây: Ngài thăng thiên một cách thấy được và bằng thân thể của Ngài
II. SỰ THĂNG THIÊN ĐƯỢC KINH THÁNH NÓI TIÊN TRI VÀ DẠY DỖ.
o Thi 68:18.
o Thi 110:1.
o Lu-ca 9:51.
o Giăng 6:62.
o Giăng 20:17.
Cựu ước tiên tri và Chúa Jêsus dạy rõ về sự thăng thiên. Lúc bấy giờ các môn đồ cũng không hiểu sự dạy dỗ của Chúa, giống như họ không hiểu về sự chết, sự chôn và sự phục sinh của Ngài.
III. SỰ THĂNG THIÊN XẢY RA 40 NGÀY SAU SỰ PHỤC SINH.
Chúa Jêsus lưu lại trần thế chưa vội về cùng Cha vì một số lý do:
1. Ngài muốn chứng tỏ rõ ràng không chút nghi ngờ rằng Ngài đã thực sự sống lại từ trong kẻ chết.
2. Ngài lưu lại để ban cho các môn đồ những dạy dỗ khác về đức tin Cơ đốc. Sau khi phục sinh, Chúa Jêsus có thể giải thích thêm về những sự dạy dỗ của Ngài đã từng nói trước về sự chết, sự chôn và sự phục sinh của Ngài đã hoàn toàn ứng nghiệm. (Công 1:3).
IV.CÁCH CHÚA THĂNG THIÊN.
Lu-ca 24:51 Jêsus Christ giờ nầy đã ngồi bên hữu Đức Chúa Trời, Ê-phê-sô 1:20.
Một số người nghĩ rằng “Bên hữu Đức Chúa Trời” là câu nói tượng trưng có nghĩa là quyền năng. Tuy nhiên, tôi tin rằng đây là câu nói theo nghĩa đen nghĩa là địa vị cao quý nhất bên Đức Cha, vì Ê-tiên đã thấy Chúa Jêsus đứng bên hữu Đức Chúa Trời Công vụ 7:56.
Sự thăng thiên là việc thấy được, không phải là chuyện bí mật, các sứ đồ đã thấy, đã chứng kiến. Chúa Jêsus thăng thiên cách cá nhân, thấy được va bằng thân thể Ngài, y như cách mà Ngài sẽ tái lâm đến thế gian nầy.
V. SỰ CẦN THIẾT CỦA VIỆC THĂNG THIÊN.
Thiên đàng là nhà của Chúa Jêsus, cho nên thật là hợp lý khi lại trở về nhà sau khi hoàn tất công tác. Giăng 14:28 “Ta về cùng Cha” lời tiên tri phải được ứng nghiệm, Ngài đã báo trước là Ngài sẽ về cùng Cha và Ngài đã thực hiện điều đó. Giăng 16, theo ý định của Đức Chúa Trời thì Đức Thánh Linh sẽ chưa đến ngự vào cho đến khi Đấng Christ thăng thiên. Sự thăng thiên phải đến trước Lễ ngũ tuần giăng 16:7. Sự thăng thiên của Đấng Christ là cần thiết để Ngài “đi và sắm sẵn một chỗ ” Giăng 14:2,3. Thật là kỳ diệu dường nào nếu Chúa Jêsus cứ sống trên đất mãi mãi với quyền năng phục sinh của Ngài, nhưng đó không phải là kế hoạch của Đức Chúa Trời cho Hội thánh của Ngài.
1. Chúa Jêsus đã thăng thiên để hoàn tất công tác cứu chuộc Giăng 20:16,17.
2. Sự thăng thiên của Chúa Jêsus có thể giúp những tín đồ Ngài làm những việc to lớn hơn. giăng 14:12.
3. Chúa Jêsus thăng thiên để bước vào chức vụ cầu thay bên hữu ngai Đức Chúa Cha.
4. Sự thăng thiên của Chúa Jêsus khiến chức vụ của Ngài không còn giới hạn ở Pa-lét-tin nhưng có tính cách hoàn cầu Ma-thi-ơ 28:18.
5. Sự thăng thiên trở thành bằng cớ mạnh mẽ và sự giải thích chắc chắn về sự phục sinh.
VI. MỤC ĐÍCH CỦA SỰ THĂNG THIÊN.
1. Chúa Jêsus đã thăng thiên để tôn vinh Đức Cha Giăng 17:1.
2. Chúa Jêsus thăng thiên để trở thành hoàng tử và Cứu Chúa Công 5:31.
3. Chúa Jêsus thăng thiên làm người đi đầu mở đường cho chúng ta Hê-bơ-rơ 16;20.
4. Chúa Jêsus thăng thiên để sắm sẵn cho chúng ta một chỗ trên thiên đàng Giăng 14:12,2, để làm thầy tế lễ cho chúng ta Hê-bơ-rơ 9:21-24 và để ngồi trên ngôi ơn phước. Hê-bơ-rơ 10:12,13.
VII. CÁC KẾT QUẢ CỦA SỰ THĂNG THIÊN.
1. Chúa Jêsus đã ban các ân tứ cho loài người (Ê-phê-sô 4:8). Các ân tứ đó là gì? câu 11 nói: Sứ đồ, tiên tri…
2. Bởi vì Ngài đã thăng thiên nên Đức thánh linh đã giáng lâm Giăng 16:7; Công vụ 2:33.
3. Ngài chứng tỏ rằng tội lỗi đã được rửa sạch bằng cách Ngài an tọa, tỏ ra công việc Ngài đã hoàn tất (Hê-bơ-rơ 1:3).
4. Bởi sự thăng thiên của Ngài ngày nay chúng ta có lòng dạn dĩ đến với Chúa trong sự cầu nguyện (Hê-bơ-rơ 4:14-16).
5. Bởi sự thăng thiên bây giờ Ngài có thể cứu toàn vẹn (Hê-bơ-rơ 7:25), Ngài có thể đưa một tội nhân từ hố sâu tội lỗi lên đến từng trời cao nhất ở cùng với Ngài.
6. Sự hiện diện của Ngài ở các từng trời khiến chúng ta “Lấy lòng thành thật, với đức tin đầy dẫy, lòng được tưới sạch khỏi lương tâm xấu mà đến gần Chúa” (Hê-bơ-rơ 10:22).
7. Bây giờ, Ngài đang đứng ở ngưỡng cửa thiên đàng mời gọi chúng ta “Hãy nhìn xem Chúa Jêsus” (Hê-bơ-rơ 12:2). Ngài đứng ra như mục tiêu cuối cùng của cuộc hành trình mà chúng ta sẽ đạt đến.
8. Ngày nay, về địa vị mới chúng ta được ngồi với Ngài ở các nơi trên trời (Hê-bơ-rơ 2:6).
9. Ngài đã thăng thiên để làm đầy trọn mọi sự (Ê-phê-sô 4:10).
10. Bây giờ khi Ngài đã thăng thiên, các thiên sứ, các quyền bính, các thế lực đều quy phục Ngài (I Phi-e-rơ 3:22), sự thăng thiên đã thành lễ đăng quang của Ngài.
11. Sự thăng thiên đã trở thành một trong 6 điều trọn lành (I Ti-mô-thê 3:16).
KẾT LUẬN:
Bởi sự tôn cao của Chúa Jêsus Christ, mọi đầu gối sẽ quỳ xuống và mọi lưỡi sẽ xưng Jêsus Christ là Chúa mà tôn vinh Đức Chúa Trời là Đức Chúa Cha. Phi-líp 2:9-11. cũng vì đó nên Đức Chúa Trời đã ban cho Ngài Danh trên hết mọi danh. Chúng ta sẽ chờ đợi cho đến một ngày nào đó Chúa Jêsus được tôn vinh dường ấy. Chúng ta hãy thờ phượng và hầu việc Chúa là Đấng đã thăng thiên. Ngài đã chinh phục cả quy luật của trọng lực và đã về trời bằng phép lạ thăng thiên. Chúng ta hãy sẵn sàng đón Ngài trở lại y như cách Ngài đã lên trời vậy.
Câu hỏi:
1. Bốn phép lạ lớn trong đời sống Chúa Jêsus là gì?
2. Câu chuyện thăng thiên chép ở đâu?
3. Lời tiên tri về sự thăng thiên của Chúa Jêsus chép ở đâu?
4. Đưa ra 2 lý do tại sao Chúa Jêsus không thăng thiên ngay sau khi ngài phục sinh?
5. Mô tả sự thăng thiên.
6. Đưa ra 5 lý do tại sao Chúa Jêsus thăng thiên là cần thiết?
7. Đưa ra 4 mục đích của sự thăng thiên.
8. Đưa ra 7 kết quả của sự thăng thiên.
9. Bài học gì về sự thăng thiên mà chúng ta học được từ I Phi-e-rơ 3:22?
10. Bài học gì bạn học được khi liên kết Ê-phê-sô 4:10 với Ma-thi-ơ 18:20.
LỜI GIỚI THIỆU:
Ngày nay Chúa Jêsus đang làm gì? Ngài có dành hết thì giờ để sửa soạn chỗ ở cho những người được chuộc hay không? Đây là một trong những công tác quan trọng của Ngài. “Trong nhà Cha Ta có nhiều chỗ ở, Ta đi sắm sẵn cho các ngươi một chỗ” Giăng 14:2. Thêm vào công tác nầy, Chúa Jêsus còn nhận thêm một công tác nữa trong chức vụ cầu thay. “Vì Ngài hằng sống để cầu thay cho họ” (Hê-bơ-rơ 7:25). “Vì Đấng Christ không vào nơi chí thánh do tay người làm ra” (Hê-bơ-rơ 9:24) nhưng vào chính thiên đàng để bây giờ ra mắt Đức Chúa Trời vì cớ chúng ta. Một thầy tế lễ là một người trung gian, một người thay cho kẻ tội lỗi can thiệp với Đức Chúa Trời công chính. Thầy tế lễ mang con sinh đỗ huyết hay một của lễ chuộc tội đến cùng Đức Chúa Trời (Lê-vi 4:16-18). Nguyện vọng của Gióp là có một người trung gian “Chẳng có người nào phân xử giữa chúng ta, đặt tay mình trên hai chúng ta” (Gióp 9:33).
Chúng ta thường tạ ơn Đức Chúa Trời về sự giáng sinh và sự chết của Chúa Jêsus, chúng ta cũng phải tạ ơn Chúa vì hiện nay Ngài đang ngồi bên hữu Đức Chúa Trời để biện hộ cho chúng ta. Ngày ngày, đêm đêm thầy tế lễ thượng phẩm của chúng ta cầu thay cho chúng ta trước mặt Đức Chúa Trời.
I. CÔNG TÁC ĐỀN TỘI CỦA ĐẤNG CHRIST ĐƯỢC TRỌN THÀNH Ở DƯỚI ĐẤT.
Trên thập tự giá Chúa Jêsus phán: “Mọi sự đã được trọn ” Giăng 19:30. Sự cứu rỗi đã hoàn tất trọn vẹn. Tội lỗi đã được xử lý công bình ở thập giá, Chúa Jêsus sẽ không bao giờ chết vì tội lỗi nữa. Hê-bơ-rơ 9:24-28 cho thấy sự sai lầm và tội lỗi của Giáo hội La-mã là dâng lễ Misa hằng ngày. Người La-mã giáo thực ra đã cố gắng tái diễn việc đóng đinh Chúa mỗi lần họ dâng lễ misa. Chúng ta cho rằng việc nầy là phạm thượng và đã bất kể lời dạy của Thánh kinh “Đấng Christ đã dâng mình chỉ một lần đặng cất tội lỗi của nhiều người.”
II. ĐẤNG CHRIST ĐÃ ĐÁP ỨNG CÁC ĐIỀU KIỆN TRỞ THÀNH MỘT THẦY TẾ LỄ.
1. Ngài được chọn giữa loài người (Hê-bơ-rơ 5:1).
2. Ngài được tấn phong và bổ nhiệm vào chức vụ (Hê-bơ-rơ 3:2).
3. Ngài được Đức Chúa Trời kêu gọi cho công tác (Hê-bơ-rơ 5:4,5).
4. Ngài phục vụ những việc liên quan đến Đức Chúa Trời Hê-bơ-rơ 2:17.
5. Ngài dâng tế lễ và sinh tế đền tội Hê-bơ-rơ 5:1 Ngài dâng chính mình làm sinh tế cho Đức Chúa Trời.
III. ĐẤNG CHRIST ĐƯỢC LẬP LÀM THẦY TẾ LỄ THEO KHUÔN MẪU A-RÔN.
Trên đất Chúa Jêsus không bao giờ hàng động như một thầy tế lễ Ngài không bao giờ bước vào nơi Chí thánh.
1. Chúa Jêsus vừa dâng sinh tế trước mặt nhân dân, Ngài còn công khai dâng chính mình trên thập tự giá.
2. Ngài xuất hiện trước mặt Đức Chúa Trời vì cớ nhân dân.
3. Ngài đi ra để chúc phước cho nhân dân.
Tuy nhiên A-rôn là một người đã chết, Chúa Jêsus là Đức Chúa Trời hằng sống cầu thay cho chúng ta, trong khía cạnh nầy Chúa Jêsus theo ban Mên-chi-xê-đéc làm thầy tế lễ đời đời (Hê-bơ-rơ 5:6).
IV. CHÚA JÊSUS PHÓ CHÍNH MÌNH LÀM TẾ LỄ TRÊN THẬP TỰ GIÁ.
Trong khi chúng ta còn là tội nhân, thì Chúa cứu thế đã vì chúng ta trĩu chết, Ngài đã chết trên thập giá sỉ nhục ngoài cửa thành. Sinh tế của Ngài là một sinh tế:
1. Tình nguyện, tự ý Hê-bơ-rơ 10:5-10 Ngài tự nguyện chết.
2. Thay thế Hệ-bơ-rơ 7:24-28 Ngài chết thay tôi.
3. Không tì vết Hê-bơ-rơ 9:14 Ngài là chiên con không tì vết.
4. Có huyết Hê-bơ-rơ 9:12 Huyết quý báu của Ngài Công 20:28.
5. Được nhận Hê-bơ-rơ 13:20.21 sự công bình của Cha được thỏa mãn.
6. Đầy đủ cả Hê-bơ-rơ 7:27 không cần tái diễn lần nào nữa.
V. ĐẤNG CHRIST BÂY GIỜ BƯỚC VÀO SỰ HIỆN DIỆN CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI VÌ CHÚNG TA.
1. Nơi chốn: ở thiên đàng Hê-bơ-rơ 9:1-8, nói đến trách nhiệm của thầy tế lễ Hê-bơ-rơ 9:1-12. Hê-bơ-rơ 9:24 Ngài vào chính trong trời để bây giờ vì chúng ta hiện ra trước mặt Đức Chúa Trời. Công 7:55.
2. Vì ai? Vì những kẻ thuộc về Ngài Hê-bơ-rơ 9:24; 7:24,25 cầu thay cho những kẻ đến gần Đức Chúa Trời.
3. Cơ sở: lời cầu thay của Ngài là chính huyết Ngài Hê-bơ-rơ 9:12. Trong Giăng 17:1-26 (lời cầu nguyện như thầy tế lễ thượng phẩm) Chúa Jêsus nói đến công việc đã hoàn tất.
4. Lời cầu thay thực tế:
a. Xin ân điển ban cho các thánh đồ lúc có cần. II Cô-rinh-tô 12:9.
b. Xin sức mạnh ban cho kẻ yếu đuối Giăng 17:11.
c. Xin cho chúng ta thoát khỏi tội và sự cám dỗ Giăng 1715.
d. Xin tha tội khi chúng ta xưng tội I Giăng 1:9.
e. Xin cho chúng ta quyền năng làm chứng nhân cho Ngài Công 1:8.
f. Xin cho chúng ta trở nên giống như hình bóng Đấng Christ Rô-ma 8:28.
5. Mục đích của sự cầu thay;
a. Duy trì sự sống (Hê-bơ-rơ 9:24).
b. Ban sự tẩy sạch (I Giăng 2:1).
c. Ban ân điển và sự giúp đỡ (Hê-bơ-rơ 4;15,16).
d. Bảo đảm sự chiến thắng (Hê-bơ-rơ 2:17,18).
VI. ĐẤNG CHRIST ĐANG BIỆN HỘ CHO CHÚNG TA.
Sa-tan là kẻ kiện cáo chúng ta trước mặt Đức Chúa Trời (Gióp 1:16-12). Để chống lại lời kiện cáo đó chúng ta có một trạng sư trước tòa thiên đàng. Đấng trạng sư biện hộ cho chúng ta là chính Đấng Christ (I Giăng 2:1). Đấng chuộc tội trở thành Đấng biện hộ. Khi chúng ta phạm tội Ngài cầu thay cho chúng ta trên cơ sở công tác đã hoàn tất của Ngài là thập tự giá. Các thánh đồ bởi đó được tha thứ vì cớ Chúa cứu thế (I Giăng 1:9).
VII. ĐẤNG CHRIST SẴN SÀNG CẦU THAY CHO CHÚNG TA HÔM NAY.
Nếu chúng ta không cầu xin sự tha thứ, chúng ta sẽ không nhận được sự tha thứ.
1. Trong những giờ thử thách nghiêm trọng, chúng ta phải vui mừng vì có một bạn thật đang đứng trước tòa của Đức Chúa Trời.
2. Chúa Cứu thế đứng sẵn ở tòa Thiên Chúa để hỗ trợ cho chúng ta.
3. Ngài sẵn sàng làm đại diện cá nhân của chúng ta trước mặt Đức Cha.
4. Khi cầu nguyện chúng ta đặt nhu cầu của mình vào tay Chúa nhờ sự chăm sóc của Ngài.
5. Là một người thật, Ngài bị thử thách trong mọi sự cũng như chúng ta nhưng chưa hề phạm tội. Ngài đã chiến thắng tội lỗi và bây giờ Ngài ban quyền chiến thắng đó cho chúng ta.
6. Chúng ta không biết gì về lời kiện cáo mà Sa-tan thường xuyên đem ra trước mặt Chúa để chóng lại chúng ta. Một số lời kiện cáo đó là đúng nhưng hầu hết đều giả dối. Khải 12:10 kẻ kiện cáo chúng ta đã bị quăng xuống rồi.
7. Những người thân yêu đã về Thiên quốc trước chúng ta, các thánh hay bà Ma-ri không ai có thể làm Đấng biện hộ cho chúng ta được.
Chúa Jêsus là Đấng cầu thay, Đấng biện hộ duy nhất của chúng ta trước ngai Đức Chúa Trời mà thôi.
KẾT LUẬN:
Lu-ca 22:31 “Hỡi Si-môn, Si-môn Sa-tan đòi sàng sảy ngươi như lúa mì, nhưng ta đã cầu nguyện cho ngươi không thiếu thốn.”Đây chính là chức vụ cầu thay của Đấng Christ vì cớ chúng ta ngày nay trên thiên đàng. Vì Chúa biết hết mọi sự nên Ngài có thể cầu thay cho chúng ta, tránh được sự cám dỗ ngay cả trước khi nó đến với chúng ta. Hãy nhờ Ngài cầu thay cho trường hợp của bạn, để bạn nhận được ân điển, sức mạnh và quyền năng cho cuộc sống hằng ngày. Hãy đẻ Ngài cầu thay cho trường hợp của bạn, hầu cho bạn trở nên giống như Ngài Rô-ma 8:29. Sự cầu thay của Chúa là động cơ mạnh mẽ để chúng ta kiên trì cầu nguyện và sống đời sống Cơ-đốc đắc thắng. Đấng Christ phục sinh đang theo dõi bảo hộ tôi. Các chiến sĩ cơ Đốc nhận Jêsus làm tướng đi đầu trong cuộc chiến với các thế lực trên trời. Ê-phê-sô 6:12. Người tín đồ khiêm nhường nhất biết an nghĩ trên tình yêu bất diệt của một thiết hữu không thấy được, nhưng luôn luôn chăm sóc bạn hữu Ngài cách thành tín không thôi.
Câu hỏi ôn:
1. Công tác hiện tại của Đấng Christ là gì?
2. Đấng Christ có đang còn chuẩn bị hoàn thiện sự cứu rỗi không? giải thích.
3. 5 điều kiện Đấng Christ đã đạt được để thành thầy tế lễ là gì?
4. Chúa Jêsus được lập làm thầy tế lễ theo kiểu mẫu nào?
5. Mô tả sự hy sinh của Chúa Jêsus trên thập tự giá.
6. Chúa Jêsus thi hành chức thầy tế lễ thượng phẩm ở đâu?
7. Liệt kê 5 lời cầu thay thực tế của thầy tế lễ thượng phẩm?
8. Tại sao ta cần thầy tế lễ thượng phẩm ở thiên đàng?
9. Chúng ta được yên ủi gì khi đọc Khải 12:10?
10. Lời cầu thay của Đấng Christ trong Lu-ca 22:31 có phải là trường hợp cá biệt không? tại sao?
LỜI GIỚI THIỆU:
Có 3 từ liệu Hy-lạp được dùng để mô tả sự kiện nầy:
– Parousia: Sự hiện diện cách cá nhân.
– Apokalupsis: sự khải thị.
– Epiphanela: Sự xuất hiện.
Cả 3 từ liệu trên đây ngụ ý rằng sẽ có một thời kia, Đấng Christ sẽ trở lại cách công khai bằng sự khải thị cá nhân của chính mình Ngài cho nhân thế. Một số người dạy rằng sự tái lâm là khi ta chết “Chúa Jêsus đến tiếp rước linh hồn nhưng chủ trương nầy không đúng vì lúc đó Chúa không bày tỏ chính mình cách công khai, thấy được cho toàn thế giới.
Công vụ: 1:10,11 mô tả sự thăng thiên của Chúa thể hiện cách 1) Cá nhân. 2) Bằng thân thể phục sinh. 3) Thấy được bằng mắt thường. 4) Với quyền phép của Ngài. Theo lời thiên sứ Chúa Jêsus sẽ tái lâm y như cách Ngài lên trời vậy. Sự giáng thế của Chúa cứu thế rất khiêm tốn, nhưng sự tái lâm của Ngài rất vinh hiển. Rõ ràng có 3 quan điểm chính về sự tái lâm của Chúa:
1. Hậu 1000 năm: Quan điểm nầy cho rằng sự tái lâm sẽ kể theo sau 1000 năm bình an.
2. Vô 1000 năm: Quan điểm nầy không tin vào thời gian cụ thể của 1000 năm nhưng tin rằng khi Đấng Christ đến mọi sự sẽ chấm dứt nhanh chống.
3. Tiền 1000 năm: Chúa đến rồi mới đến 1000 năm bình an tiếp theo.
Một vấn đề khác là sự tái lâm của Chúa có 2 giai đoạn:
1) Sự cất hội thánh lên cách bí mật (1 Tê-sa-lô-ni-ca 4:15-17), khi Chúa đến các thánh được gặp Ngài trên không trung.
2) Sự xuất hiện công khai (Khải 1:7) khi Chúa đến cùng với các thánh đồ để thiết lập nước 1000 năm bình an (I Tê-sa-lô-ni-ca 3:13)
Một vấn đề chưa giải quyết được của những người chủ trương Tiền thiên niên là liệu hội thánh có trải qua cơn đại nạn hay không, vì vậy có sự tranh luận về việc Chúa cất hội thánh lên “trước cơn đại nạn hay ngay cơn đại nạn ”
I. NHỮNG LỜI TIÊN TRI VỀ SỰ TÁI LÂM.
Những lời tiên tri về sự giáng sinh của Chúa Jêsus đã được ứng nghiệm hoàn toàn, điều nầy giúp chúng ta hoàn toàn tin tưởng rằng những lời tiên tri về sự tái lâm của Chúa cũng sẽ được ứng nghiệm cách rõ ràng, trung thực chứ không theo nghĩa thiêng liêng hay hình bóng.
1. Các tiên tri nói trước (Đa-ni-ên 7:13).
2. Chính Chúa Jêsus báo trước (Ma-thi-ơ 25:31).
3. Sứ đồ Phao-lô nói trước (I Ti-mô-thê 6:14).
4. Các thiên sứ báo trước (Công 1:10,11). Khi Chúa Jêsus thăng thiên.
Không một lời tiên tri nào ở đây đã từng được ứng nghiệm khi Chúa đến lần thứ nhất.
II. THỜI ĐIỂM CHÚA TÁI LÂM.
Đây là sự bí mật mà chỉ Đức Cha biết mà thôi Ma-thi-ơ 24:36. chúa Jêsus khi còn là người thì Ngài không biết, nhưng Jêsus Christ là Đức Chúa Trời thì dĩ nhiên là Ngài biết. Tôi tin rằng đó là một ngày có thể di dịch (2 Phi-e-rơ 3:12), nghĩa là có thể tới sớm hay đến muộn tùy theo mức độ rao giảng Tin lành mau hay chậm Ma-thi-ơ 24:14.
III. MỤC ĐÍCH CHÚA TÁI LÂM.
1. Để hoàn tất sự cứu rỗi các thánh đồ. Ngài đã giải phóng chúng ta ra khỏi quyền lực và án phạt của tội lỗi, nhưng rồi Ngài sẽ giải cứu chúng ta ra khỏi sự hiện diện của tội lỗi nữa Hê-bơ-rơ 9:28.
2. Để được vinh hiển trong các thánh đồ. II. Tê-sa-lô-ni-ca 1:10 “Khi Ngài sẽ đến trong ngày đó để được sáng danh trong các thánh đồ, được khen ngợi trong mọi kẻ tin.”
3. Để đưa ra ánh sáng những điều còn giấu kín trong bóng tối I Cô-rinh-tô 4:5.
4. Để phán xét II Ti-mô-thê 4:1.
5. Để tể trị Khải 11:15.
6. Để tiếp chúng ta lên với Ngài Giăng 14:13.
7. Để tiêu diệt sự chết I Cô-rinh-tô 15:25,26.
IV. CÁCH CHÚA TÁI LÂM.
A. Cách bí mật lúc hội thánh được cất lên I Tê-sa-lô-ni-ca 15:2, Ma-thi-ơ 24:44,50.
B. Cách công khai lúc Chúa tái lâm Khải 1:7, Ma-thi-ơ 24:30, Tít 2:13.
V. CHÚA TÁI LÂM Ở ĐÂU.
A. Lúc cất lên chúng ta sẽ được gặp Ngài trên không trung I Tê-sa-lô-ni-ca 4:17.
B. Lúc tái lâm chúng ta sẽ cùng Ngài giáng xuống địa cầu, có lẽ Chúa sẽ ngự xuống núi Ô-li-ve Xa-cha-ri 14:4.
VI. HÌNH THỨC CHÚA TÁI LÂM.
1. Trong mây trời Ma-thi-ơ 24:30.
2. Trong vinh hiển của Cha Ngài Ma-thi-ơ 16:27.
3. Trong vinh quang của chính mình Ngài Ma-thi-ơ 25 :31.
4. Trong lửa hừng 2 Tê-sa-lô-ni-ca 1:7.
5. Với quyền phép và vinh quang Ma-thi-ơ 24:30.
6. Khi tái lâm Ngài có thân thế như lúc thăng thiên Công 1:9-11.
7. Với tiếng kêu lớn và tiếng Thiên sứ I Tê-sa-lô-ni-ca 4:16.
8. Với các thánh của Ngài I Tê-sa-lô-ni-ca 3:13.
9. Được các thiên sứ tháp tùng Ma-thi-ơ 16:27.
10. Cách thình lình Mác 13:36.
VII. NHỮNG DẤU HIỆU CỦA SỰ TÁI LÂM.
Trong II Ti-mô-thê 3:1-7 có liệt kê 23 dấu hiệu về sự tái lâm của Chúa, phần lớn các dấu hiệu nầy rất rõ rệt ngày nay.
1. Những thời kỳ khó khăn.
2. Người ta đều tư kỷ.
3. Tham tiền.
4. Khoe khoang.
5. Xấc xược (kiêu căng).
6. Hay nói xấu (phạm thượng).
7. Không vâng lời cha mẹ.
8. Bội bạc (vô ơn).
9. Không tin kính (bất khiết).
10. Vô tình (sống không tình cảm).
11. Khó hòa thuận.
12. Hay phao vu.
13. Không tiết độ.
14. Dữ tợn.
15. Thù người lành (khinh người tốt).
16. Lường thầy phản bạn.
17. Hay nóng giận.
18. Lên mình kiêu ngạo.
19. Ưa thích sự vui chơi hơn là yêu mến Chúa.
20. Bề ngoài giữ điều nhơn đức (hình thức đạo đức).
21. Quyến dụ đàn bà mang tội lỗi.
22. Bị bao nhiêu tình dục xui khiến.
23. Vẫn học luôn mà không hề thông biết lẽ thật được.
Trong Ma-thi-ơ 24:5-7 và 12-38 liệt kê 10 dấu hiệu.
1. Christ giả.
2. Chiến tranh và tiếng đồn về giặc giã.
3. Đói kém.
4. Dịch lệ.
5. Động đất.
6. Tội ác thêm nhiều.
7. Tình yêu tàn tạ, lạnh lùng.
8. Ham ăn.
9. Mê uống.
10. Cử cưới gả.
Và những dấu hiệu khác như:
1. Sự hủy phá thành Giê-ru-sa-lem. Lu-ca 21:20-24.
2. Sự đầy đủ của hội thánh. Rôm 11:25.
3. Tin lành giảng ra khắp đất. Ma-thi-ơ 24:14.
4. Antichrist xuất hiện. 2 Tê-sa-lô-ni-ca 2:3-8.
KẾT LUẬN:
Đừng chế giễu và hoang mang như một số người được nói đến trong 2 Phi-e-rơ 3:3 vì ngày Chúa tái lâm là chắc chắn. Có phải chúng ta bán hết mọi sự lên núi chờ Ngài không? không phải vậy. Chúng ta phải hoạch định kế hoạch và hoạt động y như Ngài chưa đến ngay và đồng thời ta phải sống một đời sống thánh khiết trong sạch y như Ngài sẽ trở lại HÔM NAY (I Tê-sa-lô-ni-ca 3:12,13). Giáo lý nầy phải ảnh hưởng đến đời sống chúng ta, nó phải giữ chúng ta bận rộn vì Chúa, và tỉnh thức trông đợi Ngài. Mão triều thiên dành cho kẻ yêu mến sự hiện đến của Ngài (II Ti-mô-thê 4:6-9).
Câu hỏi ôn:
1. Trong Công vụ 1:10,11 có ba chữ nào mô tả sự tái lâm?
2. Đưa ra 3 từ ngữ Hy-lạp nói về sự tái lâm.
3. Kể tên 4 vị nói tiên tri về sự tái lâm.
4. Khi nào Đấng Christ tái lâm?
5. Kể 7 mục đích Chúa tái lâm.
6. Bạn học gì về sự tái lâm trong I Tê-sa-lô-ni-ca 5:2 và Ma-thi-ơ 24:44?
7. Đấng Christ sẽ đến ở đâu? giải thích?
8. Kể 12 điều về cách Chúa tái lâm.
9. Kể 10 dấu hiệu về Chúa tái lâm trong II Ti-mô-thê 3 và Ma-thi-ơ 24.
10. Áp dụng thực tế của giáo lý nầy là gì?
LỜI GIỚI THIỆU:
Sự tái lâm của Đấng Christ được nhắc đi nhắc lại 318 lần trong 260 đoạn trong Tân ước. Cứ 25 câu trong Tân ước thì có một câu nói về sự tái lâm.
Từ I Tê-sa-lô-ni-ca 4:18 chúng ta được Chúa dạy hãy an ủi lẫn nhau với việc Chúa sắp tái lâm. Hy vọng của thế giới về sự giáng sinh của Chúa Cứu thế đã trở thành hiện thực, thì sự hy vọng của Tân ước về sự tái lâm sớm của Chúa Jêsus cũng sẽ trở thành hiện thực. Lời cầu nguyện cuối cùng của Kinh Thánh trong Khải 22:20 là: "Lạy Chúa, xin hãy đến." Giáo lý này khiến cho Sa-tan giận dữ vì nó thù ghét biến cố cuối cùng vinh hiển nầy. Giáo hội thế gian và tín đồ xác thịt cũng không thích giáo lý nầy. Sự kiện Chúa tái lâm dẫn dắt chúng ta đến một đời sống thức canh, trung tín, khôn ngoan, hoạt động, đơn sơ, tự chế, cầu nguyện và ở trong Christ. Các tín đồ có thể sẽ không đồng ý với nhau về vài khía cạnh của giáo lý nầy, nhưng tất cả đều phải nên tỉnh thức. Những người thức canh cách trung tín được hứa sẽ được phước đặc biệt. "Phước cho đầy tớ nào khi Chúa đến thấy họ thức canh" (Lu-ca 12:37).
I. ĐỐI VỚI ĐỨC CHÚA TRỜI.
Khi Đấng Christ trở lại, sự vinh hiển của Chúa sẽ hiển lộ, mọi người sẽ nhìn thấy (Ê-sai 40:5).
II. ĐỐI VỚI HỘI THÁNH.
1. Khi Chúa tái lâm những người chết trong Christ sẽ sống lại I Tê-sa-lô-ni-ca 4:13-18.
2. Khi Chúa tái lâm thân thể các tín đồ sẽ biến hóa trở nên giống như chính Chúa (Phi-líp 3:20,21; I Giăng 3:2; I Cô-rinh-tô 15:51-53).
3. Khi Chúa tái lâm những tín hữu còn sống và những tín đồ sống lại sẽ cùng gặp Ngài (I Tê-sa-lô-ni-ca 4:17) và cùng ở với Chúa luôn.
4. Sự phán xét các tín hữu sẽ tiếp theo ngay sau đó (II Ti-mô-thê 4:8; I Phi-e-rơ 5:4).
5. Cuối cùng hội thánh sẽ sống và đồng trị với Đấng Christ (Khải 20:4).
III. ĐỐI VỚI DÂN Y-SƠ-RA-ÊN.
Ngay trước khi Chúa tái lâm đân Y-sơ-ra-ên sẽ được tái hợp (Ê-sai 11:11,12). Các lời tiên tri sau đây phần lớn được ứng nghiệm (Ê-xê-chi-ên 36:24; 37:21, Sô-phô-ni 3:19,20).
Có lẽ ngay sau khi hội thánh được cất lên sẽ có một cuộc tập hợp dân Y-sơ-ra-ên lớn hơn nữa. Khi. Chúa tái lâm, dân tộc Y-sơ-ra-ên, tất cả 12 chi phái sẽ được tái hợp (Ê-xê-chi-ên 37:19-24). Jêsus Christ, con Đa-vít sẽ làm vua cai trị thế giới như lời tiên tri đã nói trong Giê-rê-mi 23:5,6. Dân Y-sơ-ra-ên thời kỳ nầy sẽ được xét xử và tẩy sạch (Rô 11:26). Xem Ê-xê-chi-ên 37:23 và 36:25-29. Y-sơ-ra-ên và Pa-lét-tin sẽ phát triển thịnh vượng lạ lùng trong thời kỳ nầy (Giê-rê-mi 31:31-34; Ê-xê-chi-ên 36:37,38; 36:33,37). Dân Y-sơ-ra-ên sẽ là dân tộc lãnh đạo hàng đầu trên thế giới (Xa-cha-ri 8:23, Ê-sai 49:22,23) vào lúc nầy dân Y-sơ-ra-ên sẽ mang thông điệp của vương quốc Chúa đến toàn thế giới. Ê-sai 66:19 nhiều lời hứa mà dân Y-sơ-ra-ên mong muốn được hưởng vào lần đến thứ nhất của Ngài, thực ra sẽ được ứng nghiệm khi Chúa Jêsus trở lại lần thứ 2.
IV. ĐỐI VỚI CÁC DÂN TỘC VÀ CÁ NHÂN CHƯA ĐƯỢC TÁI SANH.
Sự tái lâm của Chúa là ngày vui mừng cho hội thánh và cho dân Y-sơ-ra-ên, nhưng là ngày u buồn cho những người vô tín (Ma-thi-ơ 24:30, Khải 1:7).
Sự phán xét các dân tộc sẽ tiếp theo sự tái lâm vinh hiển của Đấng Christ (Ma-thi-ơ 25:31, 32). Chúa phân chia chiên với dê, các dân tộc được kể là chiên rồi sẽ theo Chúa (Ê-sai 2:2,3). Còn các dân tộc được kể là dê bị trừng phạt trong lửa hừng (2 Tê-sa-lô-ni-ca 1:7-9). Những dân tộc còn lại trên đất bắt buộc phải hầu việc Đấng Christ vì Ngài cai trị bằng cây gậy sắt (Thi 2:9; Xa-cha-ri 9:10, Khải 11:15). Các dân tộc sẽ chấm dứt chiến tranh và sống trong hòa bình (Mi-chê 4:3; Ê-sai 2:4).
V. ĐỐI VỚI XÃ HỘI NÓI CHUNG.
Trái đất sẽ đầy dẫy sự hiểu biết Chúa, như nước bao phủ biển vậy Ê-sai 11;9.
VI. ĐỐI VỚI ANTICHRIST VÀ MA QUỶ.
Antichrist sẽ lộ nguyên hỉnh sau khi hội thánh được cất lên, và cai trị kinh khủng của nó sẽ bị cáo chung với sự tái lâm hiển hiện của Đấng Christ và các thánh của Ngài (2 Tê-sa-lô-ni-ca 2:8). Khải 19:20 nói đến sự chung cuộc khi Antichrist bị quăng vào hồ lửa. Ma quỷ sẽ bị xiềng và ném xuống vực sâu 1000 năm kể từ lúc Chúa hiển hiện (Khải 20:1-3).
VII. ĐỐI VỚI THẾ GIỚI VẬT CHẤT.
LỜI GIỚI THIỆU:
Với bài học nầy chúng ta bắt đầu nghiên cứu về Đức Thánh Linh, ngôi ba của Đức Chúa Trời Ba ngôi. Đức Thánh Linh đực Đức Cha và Đức Con sai xuống để ngự trị và hướng dẫn các tín đồ. Nhiều người nói rằng họ tin Đức Thánh Linh, nhưng thực ra họ tin nơi Đức Chúa Trời là Cha và tin nơi Đức Chúa Trời là Con, còn đối với Đức Thánh Linh họ coi như là một tay sai, một tôi tớ của Đức Chúa Trời mà thôi. Đây là một quan niệm sai lầm vì Đức Thánh Linh đồng đẳng, đồng quyền và không thua kém hai ngôi kia chút nào.
Một số người khác hạ giá Đức Thánh Linh xuống thành một lực lượng vô tình như là điện lực, có sức mạnh, quyền năng nhưng hoàn toàn không phải là một Thân vị sống kém thua Đức Chúa Trời. trong bài học nầy, chúng ta cố gắng chứng minh Thân vị của Ngài, và bài kế đến chúng ta sẽ học về Thần tánh của Ngài. Chúng ta tin rằng Đức Thánh Linh là một Người sống vì chúng ta có thể đến với Ngài, hay xa lánh Ngài, tin cậy Ngài hay nghi ngờ Ngài, yêu mến Ngài hay ghen ghét Ngài, tôn kính Ngài hay xúc phạm Ngài.
I. TẦM QUAN TRỌNG CỦA GIÁO LÝ NẦY.
A. Nếu Đức Thánh Linh là một Thân vị sống đồng đẳng với Đức Cha và Đức Con thì chúng ta phải thờ phượng Ngài y như thờ phượng Đức Cha và Đức Con. Danh hiệu của Ngài được gắn liền với Danh Cha và Con trong lời chúc phước và trong công thức lễ Báp tem.
B. Nếu Ngài chỉ là một ảnh hưởng hay một quyền lực nào đó thì chúng ta sẽ xem Ngài như là "một điều," "một cái" mà đó là một quan điểm ngoại đạo dẫn đến sự sai lầm là "Tôi muốn có thêm điều đó." Nếu Ngài là một Thân vị thì chúng ta phải xưng Ngài với ngôi Đại danh từ.
C. Nếu Ngài là một Thân vị thì chúng ta phải biết nhiều hơn về Ngài cách thân mật và cách cá nhân.
II. KINH THÁNH DÙNG ĐẠI DANH TỪ KHI XƯNG ĐỨC THÁNH LINH.
- Giăng 15:26 khi Đức Thánh Linh đến Ngài sẽ...
- Giăng 16:8 khi Ngài đến Ngài sẽ...
- Giăng 16:13 Khi Ngài, Thần lẽ thật sẽ đến...
- Giăng 16:14 Ngài sẽ tôn vinh Ta.
Trong ngôn ngữ Hy-lạp đại danh từ "Linh" thường dùng theo trung tính. Các sinh viên nghiên cứu tiếng Hy-lạp Tân ước rất ngạc nhiên ở sự lựa chọn danh từ giống đực ở các đại danh từ. Trong phân đoạn Giăng 16:7,8,13-15 mười hai lần đại danh từ giống đực Hy văn (Skeinos) "Ngài" được dùng cho Đức Thánh Linh.
III. THÁNH LINH LÀ MỘT ĐẤNG VÌ NGÀI CÓ MỘT SỐ ĐẶC TÍNH.
1. Có ý chí (I Cô-rinh-tô 12:11), Thánh Linh quyết định.
2. Thông minh (Nê-hê-mi 9:20, Rôm 8:27).
3. Sự hiểu biết (I Cô-rinh-tô 2:10-12) Thánh Linh biết.
4. Quyền năng (Công vụ 1:8).
5. Khả năng yêu (Rô-ma 15:30).
6. Khả năng buồn (Ê-phê-sô 4:30).
Thánh Linh là một "Người" vì Ngài suy nghĩ, cảm biết, có ý chí, có mục đích, biết yêu và biết buồn. Thánh Linh chắc chắn không phải là một ảnh hưởng vì Ngài có khả năng thông minh và cảm xúc vốn xa lạ với những lực lượng vô tình. Chúng ta đừng bao giờ nghi ngờ, ghen ghét hay xúc phạm Thánh Linh. Chúng ta hãy tiếp tục đến với Ngài với đức tin, sự yêu thương và sự thờ phượng.
IV. ĐỨC THÁNH LINH LÀM NHỮNG VIỆC MÀ CHỈ MỘT THÂN VỊ CÓ THỂ LÀM.
1. Thánh Linh tìm kiếm những việc sâu xa của Đức Chúa Trời (I Cô-rinh-tô 2:10).
2. Thánh Linh có thể nói (Khải 2:7).
3. Thánh Linh có thể kêu lên (Ga-la-ti 4:6).
4. Thánh Linh cầu thay (Rô-ma 8:26).
5. Thánh Linh làm chứng, xác nhận (Giăng 15:26).
6. Thánh Linh dạy dỗ (Giăng 14:26). Khả năng nầy còn được nhắc đến trong Giăng 16:12-14 và Nê-hê-mi 9:20.
7. Thánh Linh hướng dẫn và lãnh đạo (Rô-ma 8:14).
8. Thánh Linh truyền lệnh (Công 16:6,7).
9. Thánh Linh kêu gọi người ta hoạt động và giao phó công tác cho họ (Công 13:2, Công 20:28).
10. Thánh Linh tiếp tục sứ mạng Ngài được giao (Giăng 15:26).
V. ĐỨC THÁNH LINH ĐƯỢC GIAO PHÓ MỘT CHỨC VỤ NHẤT ĐỊNH.
Ngài là Đấng an ủi chính Giăng 14:16. Tiếng Hy-lạp chữ "PARAKLETOS" ở đây có nghĩa là "một người ở bên cạnh với." Ngài là bạn thiết bên cạnh ta hướng dẫn và an ủi chúng ta. Trong cuốn Đức Thánh Linh Mục Sư R.A. Torrey đã gợi ý rằng áp dụng giáo lý nầy là rất thực tế.
1. Đây là phương pháp điều trị sự sợ hãi, tối tăm bất thường. Thánh Linh ở với tôi.
2. Đây là phương pháp trị bệnh mất ngủ. Hãy cố gắng giao thông với Thánh Linh và bạn sẽ ngủ ngon.
3. Đây là cách chữa mọi sự cô đơn. Hãy phát triển mối thân hữu với Thánh Linh.
4. Đây là cách chữa một tấm lòng tan vỡ.
5. Đây là sự khích lệ lớn lao cho các quyền phép, và cách chũa bệnh cho sự vô vọng.
6. Đây là sự khuyến khích việc dạy dỗ và rao giảng. Thánh Linh ở với tôi hướng dẫn tôi.
7. Sự hiện diện của Ngài là uy quyền của chúng ta trong công việc cá nhân.
VI. ĐỨC THÁNH LINH CÓ NHỮNG TÌNH CẢM.
1. Ngài có thể buồn (Ê-sai 63:10).
2. Ngài có thể bị xúc phạm (Hê-bơ-rơ 10:29).
3. Ngài có thể bị nói dối (Công 5:3).
4. Ngài có thể bị nói phạm (Ma-thi-ơ 12:31).
VII. ĐỨC THÁNH LINH LÀ MỘT NGƯỜI.
Chúng ta tin rằng Ngài là một NGƯỜI, theo nghĩa Ngài có thân vị, vì Ngài sở hữu tất cả những đức tính cần thiết như thông minh, tình cảm và ý chí, hiểu biết và các hành động. Chúng ta cần đối xử với Ngài như với một Người, một Thân vị.
KẾT LUẬN:
Mong rằng chúng ta kết bạn thân với Đấng sống là Đức Thánh Linh. Hãy cầu nguyện "Xin Chúa dạy con càng thông công nhiều hơn với Đức Thánh Linh." Từng giây phút hãy để cho Chúa Thánh Linh làm bạn thân, đồng chí thân thiết nhất của chúng ta.
Câu hỏi:
1. Hai cảm tưởng sai về Đức Thánh Linh mà người ta thường có.
2. Đưa ra 3 lý do tại sao đề tài nầy quan trọng?
3. Đưa ra 3 phân đoạn trong Kinh Thánh dùng đại danh từ Đức Thánh Linh.
4. Hai câu Kinh Thánh dịch lộn đại danh từ Thánh Linh.
5. Ý nghĩa từ ngữ Hy-lạp "PARAKLETOS"?
6. Sáu đặc tính một người mà Đức Thánh Linh có là gì?
7. Kê ra 10 điều Đức Thánh Linh làm chứng mình là một Người.
8. Chức vụ của Đức Thánh Linh là gì?
9. Kê 7 áp dụng thực tế của Đấng yên ủi.
10. Kể tên 4 tình cảm của Đức Thánh Linh.
Trong bài trước ta đã thiết lập sự kiện Đức Thánh Linh là một người, một Thân vị. Tuy nhiên Ngài không phải là một người như chúng ta vì Ngài không có một thân thể con người. Đức Thánh Linh không chỉ là một người,nhưng chúng ta tin rằng Ngài là Đấng thiêng liêng. Đức Thánh Linh là Đức Chúa Trời toàn năng, đồng đẳng đồng quyền với Đức Cha và Đức Con.
I. THẦN TÁNH CỦA ĐỨC THÁNH LINH.
Chúng ta tin rằng Đức Thánh Linh là Thần bởi vì:
A. Đức Thánh Linh có các thuộc tánh thiêng liêng.
1. Đời đời Hê-bơ-rơ 9:14
2. Toàn tại Thi thiên 139:7-10.
3. Toàn năng Lu-ca 1:35, Sáng 1:2, Gióp 26:13.
4. Toàn tri I Cô-rinh-tô 2:10,11, Giăng 14:26, 16:12,13.
5. Thánh khiết Lu-ca 11:13.
6. Lẽ thật I Giăng 5:6.
7. Nhân từ Nê-hê-mi 9:20.
8. Giao thông II Cô-rinh-tô 13:14.
B. Đức Thánh Linh làm những việc chỉ Đức Chúa Trời có thể làm.
1. Sáng tạo Gióp 33:4, Thi 104:30.
2. Cứu rỗi I Cô-rinh-tô 6:11, Ê-phê-sô 1:13.
3. Ban sự sống Giăng 6:63.
4. Tác giả của sự tái sanh Giăng 3:5,6.
5. Tiên tri II Phi-e-rơ 1:21.
6. Cáo trách loài người về sự công bình và về sự phán xét hầu đến Giăng 16:8-11.
C. KINH THÁNH có một câu mạnh mẽ.
1. Trong Ê-sai 6:8-10 và Phao-lô trích dẫn trong Công 28:25-27.
2. Trong Công 5:3-5 Đức Thánh Linh được gọi là Đức Chúa Trời.
D. Ba ngôi thân thương.
1. Ma-thi-ơ 28:19 Công thức báp tem.
2. II Cô-rinh-tô 13:14 Lời chúc phước.
3. Giăng 14:16 Ta sẽ cầu xin Cha sẽ ban cho các ngươi một Đấng yên ủi khác.
II. ĐỨC THÁNH LINH ĐƯỢC PHÂN BIỆT VỚI CHA VÀ CON.
Một số người nghĩ rằng Đức Thánh Linh là "Linh của Cha" hoặc là "Linh của Con" chứ không phải là một Thân vị riêng biệt. Nhưng trong Lu-ca 3:21,22 vào lúc Chúa Jêsus chịu phép báp tem, có ba Ngôi hiện diện rõ ràng :
1. Đức Chúa Trời là Cha phán "Nầy là Con yêu dấu... ."
2. Đức Chúa Trời là Con được Giăng báp-tít làm phép báp têm dưới sông Giô-đanh.
3. Đức Chúa Trời là Linh ngự xuống như chim bồ câu.
Và trong Ma-thi-ơ 28:19 công thức báp têm cũng phân biệt rõ ràng ba Ngôi. Trong Giăng 14:16 Đức Con cầu, Đức Cha ban, Đức Thánh Linh ngự đến. Công vụ 2:33 Đức Con được tôn ngồi bên hữu Đức Cha, Đức Cha ngồi trên ngai và Đức Thánh Linh được ban cho Hội thánh. Đức Cha, Con và Đức Thánh Linh là ba Ngôi khác nhau nhưng liên hệ với nhau, nói chuyện với nhau, nhận biết nhau. (Torrey).
III. SỰ PHỤ THUỘC CỦA ĐỨC THÁNH LINH VÀO ĐỨC CHA VÀ CON.
Giăng 14:28 Đức Cha sai Đức Thánh Linh xuống thế gian và Ngài vâng lệnh. Giăng 15:16.
Đức Con sai Thánh Linh đến với môn đồ và Hội thánh. Công 16:7 Đức Thánh Linh được kể là "Linh của Chúa Jêsus."Rom 8:9 Đức Thánh Linh được kể là "Linh của Đức Chúa Trời." Đức Thánh Linh không tự nói nhưng nhắc lại những gì mình đã nghe. Giăng 16:13. Đây là sự khiêm nhường thật, Đức Thánh Linh tôn vinh Đấng Christ Giăng 16:14. Danh Đức Thánh Linh tiếp theo hai Danh khác khi ba Danh được gắn liền với nhau - Ma-thi-ơ 28:19 Cha, Con và Thánh Linh, II Cô-rinh-tô 13:14 Cha, Con, Linh.
IV. CÁC DANH HIỆU CỦA ĐỨC THÁNH LINH.
1. Đức Thánh Linh Lu-ca 11:13.
2. Linh Giăng 3:6.
3. Linh của Chúa Ê-sai 11:2.
4. Linh của Đức Giê hô va Ê-sai 61;1.
5. Linh của Đức Chúa Trời hằng sống II Cô-rinh-tô 3:3.
6. Linh của Christ Rom 8:9.
7. Linh của Con Ngài Ga-la-ti 4:6.
8. Linh của Jêsus Christ Công 16:7.
9. Linh đốt cháy Ê-sai 4:4.
10. Linh thánh khiết Rom 1:4.
11. Đức Thánh Linh của lời hứa Ê-phê-sô 1:13.
12. Linh của lẽ thật Giăng 14:17, 15:26, 16:13.
13. Linh của sự sống Rom 8:2.
14. Linh của khôn ngoan và hiểu biết, Linh của mưu luận và mạnh sức, Linh tri thức Ê-sai 11:2.
15. Linh ân điển Hê-bơ-rơ 10:29.
16. Linh vinh hiển 1 Phi-e-rơ 4:14.
17. Linh đời đời Hê-bơ-rơ 9:14.
18. Đấng an ủi Giăng 14:26, 15:26.
19. Dầu vui mừng Hê-bơ-rơ 1:9.
KẾT LUẬN:
Đức Thánh Linh cũng được ví như chim bồ câu hiền lành và nhạy cảm Ngài được ví như gió (Giăng 3:1-19) một sức mạnh tái tạo vô hình và mầu nhiệm. Ngài được ví như nước, sức mạnh thanh tẩy trong sự nên thánh (Giăng 4:14). Ngài được ví như sông trào ân phước phục vụ (Giăng 7:38,39). Ngài là Đấng an ủi, hướng dẫn và lãnh đạo đời sống người Cơ-đốc (Giăng 14:16).
Ta phải tôn kính, đầu phục và bước đi theo Đức Thánh Linh.
Câu hỏi:
1. Điều khác biệt giữa chúng ta và Đức Thánh Linh là gì khi cả hai đều là con người?
2. Liệt kê 6 thuộc tánh chứng tỏ Đức Thánh Linh là thần.
3. Liệt kê 6 việc chính của Đức Thánh Linh tỏ ra Thần tánh của Ngài.
4. So sánh Ê-sai 6:8-10 với Công 28:25-27. Bạn học được gì?
5. Ý nghĩa Công 5:3-5 khi đề cập đến giáo lý nầy là gì?
6. Tại sao Danh Đức Thánh Linh bao gồm trong Ma-thi-ơ 28:19 và II Cô-rinh-tô 13:14. ?
7. Chúng ta học được gì về Đức Thánh Linh từ Lu-ca 3:21,22?
8. Đưa ra 3 câu Kinh thánh tỏ ra sự tùy thuộc của Đức Thánh Linh vào Cha và Con.
9. Liệt kê 7 Danh hiệu của Đức Thánh Linh.
10. Đức Thánh Linh được sánh ví như gì?
LỜI GIỚI THIỆU:
Đức Thánh Linh là một Thân vị Thần Linh có một nhiệm vụ nhất định trên thế giới. Nghiên cứu Thánh Kinh ta thấy Đức Thánh Linh rất tích cực hoạt động. Công tác của Ngài được thể hiện trong vũ trụ và giữa loài người. Từ lễ Ngũ tuần, chức vụ của Ngài đã có chiều hướng thay đổi liên hệ đến các tín đồ. Trong cựu ước, Đức Thánh Linh có một chức vụ "đến và đi." Vào lễ Ngũ tuần Ngài đến để ngự trong các tín đồ và sống trong Hội thánh sống của Đức Chúa Jêsus Christ.
o Quan xét 6:34 "Nhưng Linh của Đức Chúa Trời đến trên Ghi-đê-ôn."
o I Sa-mu-ên 16:14 "Nhưng Thần của Đức Chúa Trời lìa khỏi Sau-lơ."
o Quan xét 11:29 "Rồi Linh của Đức Chúa Trời đến trên Giép-thê."
o Thi thiên 51:11 "Xin đừng cất khỏi tôi Thánh Linh của Chúa."
Ngày nay, lời cầu xin nầy không còn phù hợp vì sau lẽ Ngũ tuần Thánh Linh đã thường trực trong lòng người tín đồ.
o Giăng 14:16.....Đấng yên ủi để ở với các ngươi đời đời...
I. LIÊN HỆ ĐẾN SỰ SÁNG TẠO.
Đức Thánh Linh tích cực hoạt động trong sự sáng tạo, Sáng 1:2 "Thần của Đức Chúa Trời vận hành trên mặt nước" cũng xem Gióp 26:13,14, Gióp 33:4, Thi 104:30, Thi 36:6 "Các từng trời được làm nên bởi Lời Đức Giê-hô-va, cả cơ binh trời bởi miệng Ngài mà có " (Hơi thở của Chúa ở đây chính là Thánh Linh).
II. LIÊN HỆ ĐẾN NGƯỜI VÔ TÍN.
Giăng 16:8-11 "Khi Ngài đến, Ngài sẽ tố cáo thế gian về tội lỗi,về sự công bình và về sự phán xét."Ngài sẽ thuyết phục thế gian về tội lỗi bởi vì họ không tin nơi Đức Chúa Jêsus Christ. Ngài sẽ thuyết phục thế gian về sự công bình vì Đấng Christ là Đấng hoàn toàn công chính. Ngài sẽ thuyết phục thế gian về sự phán xét vì Đấng Christ đã bị xét đoán rồi (trên thập giá).
Công tác của Thánh Linh là thường xuyên làm chứng về Đấng Christ và thập tự giá. Để làm việc nầy Ngài thường hành động (mặc dù không phải là cách duy nhất) qua lời chứng của các tín hữu, và Ngài hành động trên lương tâm của con người qua Lời của Đức Chúa Trời.
III. LIÊN HỆ ĐẾN SỰ BẢO TỒN VŨ TRỤ.
o Ê-sai 40:7 "Cỏ khô hoa rụng, vì hơi Đức Giê-hô-va thổi qua " Thánh Linh sáng tạo và bảo tồn, Ngài cũng có quyền phá hủy theo ý Ngài.
o Thi 104:30 "Chúa sai Thần Chúa ra, chúng nó được dựng nên, Chúa làm cho mặt đất ra mới." Bởi Lời của Đức Chúa Trời và quyền của Đức Thánh Linh thế giới đổi mới.
IV. LIÊN HỆ ĐẾN THÁNH LINH.
Đức Thánh Linh là Tác giả của Thánh kinh.
o II Phi-e-rơ 1:20,21 "Bởi Thánh Linh cảm động mà người ta nói bởi Đức Chúa Trời."
o Giăng 16:14 Đức Thánh Linh cũng là nhà giải nghĩa Thánh Kinh cho chúng ta.
o Giăng 14:26 "Đấng ấy sẽ dạy dỗ các ngươi mọi sự, nhắc lại cho các ngươi nhớ mọi điều Ta đã phán cùng các ngươi."
Trong những lúc cần, đặc biệt là trong những lúc trả lời những vấn đề khó khăn Đức Thánh Linh luôn thành tín khi nhắc lại cho tôi nhớ những câu Thánh Kinh rất quí báu, thích hợp cho mọi nhu cầu của tôi.
V. LIÊN HỆ ĐẾN ĐỨC CHÚA JÊSUS CHRIST.
1. Chúa Jêsus được đầu thai bởi Chúa Thánh Linh, nói đúng ra là Ngài được sanh ra bởi Thánh Linh Lu-ca 1:35.
2. Sau khi chịu phép Báp-têm, Ngài được Thánh Linh dẫn vào đồng vắng chịu sự cám dỗ. Ma-thi-ơ 4:1.
3. Chúa Jêsus được Thánh Linh xức dầu thi hành chức vụ Công 10:38.
4. Chúa Jêsus chịu đóng đinh trong quyền năng của Đức Thánh Linh Hê-bơ-rơ 9:14.
5. Chúa Jêsus đã phục sinh bởi quyền năng của Thánh Linh Rom 1:4, 8:11.
6. Chúa Jêsus giáo huấn các môn đệ của Ngài và Hội thánh qua Thánh Linh Công 1:2.
7. Chúa Jêsus ban Đức Thánh Linh cho những người tin Ngài. Công 2:33.
VI. LIÊN HỆ ĐẾN TÍN ĐỒ.
1. Ngài xác nhận cho tín đồ địa vị làm con và khiến họ trở nên con Đức Chúa Trời. Rom 8:16,17, Ga-la-ti 4:6.
2. Ngài ấn chứng cho tín đồ về sự vinh hiển tương lai, II Cô-rinh-tô 1:22, Ê-phê-sô 1:13,14.
3. Ngài đầy dẫy chính mình Ngài trong tín đồ, ban cho họ đời sống đắc thắng. Công 1:4-8, Ê-phê-sô 5:18.
4. Ngài Thánh hóa tín đồ biệt riêng họ ra Thánh. 2 Tê-sa-lô-ni-ca 2:13, 1 Phi-e-rơ 1:2.
5. Ngài thường ở cùng tín đồ luôn luôn Giăng 14:16.
6. Ngài lấy Lời Chúa và dạy các tín đồ Giăng 14:26, Cô-rinh-tô 2:13.
7. Ngài nhắc lại những gì chúng ta đã trung tín học hỏi Giăng 14:26.
8. Ngài làm chứng về Đấng cứu thế cho chúng ta, Ngài thường xuyên giãi bày về Cứu Chúa Jêsus Christ. Giăng 15:26.
9. Ngài hướng dẫn tín đồ vào mọi lẽ thật. Giăng 16:13, Đây là giải pháp cho những sai lầm.
10. Ngài lấy thân thể chúng ta, và làm cho Đấng Christ được vinh hiển trong và qua thân thể chúng ta. Giăng 16:14.
11. Ngài lấy những điều thuộc về Đấng Christ, những điều thuộc linh và giãi bày ra cho chúng ta. Giăng 16:14.
12. Ngài ban cho chúng ta năng lực vâng theo Đức Chúa Trời trong giờ phút yếu đuối và tăng cường sức mạnh cho chúng ta Ê-xê-chi-ên 36:27.
13. Ngài ban tín đồ năng lực để vâng theo lẽ thật. 1 Phi-e-rơ 1:22.
14. Ngài ban cho tín đồ sự tự do khỏi luật của sự tội và sự chết Rom 8:2.
15. Ngài lấy người tín đồ yếu đuối làm đầy trọn luật công bình trong người đó. rom 8:3,4.
16. Ngài ban cho người tín đồ quyền năng làm đẹp lòng Đức Chúa Trời, bằng cách ban cho họ đắc thắng xác thịt. Rôm 8
17. Ngài sẽ làm sống lại thân thể hay chết của chúng ta. Rom 8:11.
18. Ngài ban cho quyền năng làm chết các việc làm thể xác Rom 8:13.
19. Ngài hướng dẫn tín hữu trong đời sống cầu nguyện để họ cầu nguyện theo ý muốn của Đức Chúa Trời. Rom 8:26,27.
20. Ngài ban cho tín đồ sự đắc thắng trên những ham muốn xấu xa của xác thịt. Ga-la-ti 5;16,17.
21. Ngài dẫn đưa tín đồ ra khỏi luật pháp để đến sự tự do trong Đấng Christ. Ga-la-ti 5:18.
22. Ngài là Đấng khiến chúng ta mang bông trái của Đức Thánh Linh. Ga-la-ti 5:22,23.
23. Ngài ban cho chúng ta sự bước đi thánh thiện khi chúng ta được Thánh Linh hướng dẫn. Ga-la-ti 5:25.
24. Ngài giúp chúng ta bỏ hết những điều không đẹp lòng Đức Chúa Trời Ê-phê-sô 4:30-32.
25. Ngài chiến tranh với Sa-tan bằng cách đưa ra một tiêu chuẩn chống lại Sa-tan. Gia-cơ 4:7; Ê-sai 59:19.
26. Ngài ban sự yên nghỉ cho linh hồn tin cậy nơi Chúa Ê-sai 63:14.
27. Ngài làm cho Đấng Christ trở thành Chúa (chủ và vua) trong đời sống cá nhân chúng ta. I Cô-rinh-tô 12:13.
28. Ngài ban sự tự do cho con cái Đức Chúa Trời.II Cô-rinh-tô 3:17.
29. Ngài ban tình yêu thiên thượng cho con cái Đức Chúa Trời. Rom 5:5, Cô-lô-se 1:4,8.
30. Ngài ban niềm vui đầy trọn, hạnh phúc hoàn toàn và sự thỏa lòng cho các thánh đồ Công 13:52.
31. Ngài tăng cường cho con người bề trong chúng ta sức mạnh với quyền năng thuộc linh, quyền năng chống cự, phản kháng tội lỗi. Ê-phê-sô 3:16.
32. Ngài ban sự công chính, bình an và vui mừng cho con cái Chúa Rom 14:17, 15:13.
33. Ngài khải thị, giải thích và áp dụng những mầu nhiệm của Đức Chúa Trời. I Cô-rinh-tô 2:9-14.
34. Ngài ban quyền năng cho chúng ta để truyền đạt lẽ thật cho kẻ khác. Công 1:8; I Cô-rinh-tô 2:1-4; I Tê-sa-lô-ni-ca 1:5.
35. Ngài cảm hứng cho sự thờ phượng và tôn vinh chính Đức Chúa Trời. Giăng 4:23,24. Phi 13:3.
36. Ngài an ủi. Công 9:31.
37. Ngài kêu gọi người hầu việc Đấng Christ và hướng dẫn họ trong chức vụ. Công 8:27-29, 13:2-4.
38. Ngài hướng dẫn từng chi tiết trong đời sống và chức vụ người tín đồ. Ma-thi-ơ 4:1; Rom 8:14, Công 10.
39. Nhờ Ngài chúng ta được đến gần Cha trên trời. Ê-phê-sô 2:18.
40. Ngài cho ta biết những đặc quyền cứu chuộc của chúng ta và gia tài của chúng ta trong Đấng Christ. I Cô-rinh-tô 2:12.
41. Các ân tứ của Đức Thánh Linh ban cho hội thánh I Cô-rinh-tô 12.
VII.CÁC CÔNG TÁC KHÁC CỦA ĐỨC THÁNH LINH.
1. Ngài ở với loài người Sáng 6:3. cố gắng khiến họ quay bỏ tội lỗi hướng về sự công bình.
2. Ngài soi sáng người ta Gióp 32:8 để ban cho họ trí hiểu.
3. Ngài ban tài năng khéo léo cho con người Xuất 31:2-5.
4. Ngài giúp đỡ con người làm những công việc bình thường như thổi kèn (Ghi-đê-ôn) Quan xét 6:34.
5. Ngài ban sức mạnh thể xác cho Sam-sôn. Quan xét 14:6.
KẾT LUẬN:
Chúng ta hãy ca ngợi Chúa vì công tác tái tạo thành tín của Đức Thánh Linh (Giăng 3). Chúng ta cảm tạ Chúa vì các ân tứ Ngài ban cho chúng ta cách dồi dào đầy ân điển (I Cô-rinh-tô 12:7-11).
Câu hỏi:
1. Có nên cầu nguyện theo Thi thiên 51:11b ngày nay không? tại sao?
2. Đưa ra 2 câu Kinh thánh dạy rằng Đức Thánh Linh tích cực hoạt động trong sự sáng tạo.
3. Câu nào dạy rằng Đức Thánh Linh làm mới và bảo tồn vũ trụ?
4. Đức Thánh Linh cáo trách thế gian về 3 điều gì?
5. Kể tên 2 chức vụ của Đức Thánh Linh liên quan đến Thánh Kinh.
6. Kể 7 điều Thánh Linh làm cho Chúa cứu thế.
7. Bạn có thể thêm một điểm nào vào danh sách 40 điều Đức Thánh Linh làm cho tín đồ không?
8. Có 5 công tác quí báu nhất mà Đức Thánh Linh làm cho cá nhân bạn là gì?
9. Kể 5 công tác Thánh Linh làm đối với người tín đồ được nhắc đến trong sách Rô-ma.
10. Kể 5 công tác khác của Đức Thánh Linh.
LỜI GIỚI THIỆU:
Đức Thánh Linh là một Thân vị mà người ta có thể phạm tội chống lại Ngài. Chúng ta hãy cẩn thận kẻo phạm tội cùng Ngài dù là ý thức hay không ý thức, vô tình hay cố ý. Một số những tội nầy có thể do các tín đồ mắc phải một số các tội khác do các người vô tín phạm đến. Tuy nhiên, những sự khác nhau ở đây khó có thể chứng minh cách tuyệt đối được. Ngay cả tấn sĩ Ironside là người đã liệt kê các tội đó riêng biệt từng thứ, cũng thừa nhận rằng có lẽ hai hạng người nói trên đều có thề mắc phải 7 thứ tội được xem là tội phạm nghịch cùng Đức Thánh Linh.
I. TỘI PHẠM THƯỢNG ĐẾN ĐỨC THÁNH LINH DO NGƯỜI QUÁ TỰ PHỤ.
Tội phạm thượng nghịch với Đức Thánh Linh là một thứ tội không thể tha thứ được. "Ấy vậy, Ta phán cùng các ngươi, các tội lỗi và sự phạm thượng của người ta đều sẽ được tha thứ, song lời phạm thượng đến Đức Thánh Linh thì chẳng được tha đâu" (Ma-thi-ơ 12:31,32). Đây được gọi là tội không thể tha thứ, một trong những tội ghê gớm nhất mà con người trên thế gian phạm đến.
Tội phạm thượng đến Đức Thánh Linh là tội qui về cho Sa-tan công việc mà Đức Thánh Linh đã làm. Trong Mác 3:22-30 Chúa Jêsus đuổi quỷ bằng quyền năng của Đức Thánh Linh, nhưng các thầy thông giáo đã nói rằng Chúa Jêsus thực hiện các phép lạ đó bằng quyền phép của Sa-tan. Đây là tội phạm thượng. Hãy cẩn thận, đừng hạ thấp giá trị công tác của Đức Thánh Linh. Đây là một tội trọng.
Chúng ta hãy nghe lời Charles Finney, được Edman trưng dẫn trong cuốn Finney Lives on trang 118, "Đức Thánh Linh buồn lòng khi người ta nói hay xuất bản những điều làm hạ giá công tác của Đức Chúa Trời. Khi một công tác đầy ơn phước của Đức Chúa Trời bị coi nhẹ, không qui sự vinh hiển xứng đáng cho Danh Ngài thì Đức Thánh Linh buồn lòng. Về một cơn phục hưng nếu ta chỉ nói đến sơ sài, chỉ cho qua loa các dữ kiện mà không đánh giá đúng cho các dữ kiện đó, chúng ta cũng làm Đức Thánh Linh buồn."
II. TỘI KHINH LỜN ĐỨC THÁNH LINH DO NGƯỜI KIÊU NGẠO.
Hê-bơ-rơ 10:29 "Huống chi kẻ dày đạp con Đức Chúa Trời, coi huyết của giao ước tức là huyết mà mình nhờ đó để được nên thánh là ô uế, lại khinh lờn Đức Thánh Linh ban ơn, thì anh em há chẳng tưởng rằng người ấy đáng bị hình rất nghiêm đoán phạt hay sao? "Đức Thánh Linh trình bày công tác cứu chuộc đền tội của Đấng Christ cho tội nhân, nếu tội nhân từ khước không chịu tin, hay không chịu tiếp nhận người đó đã khinh lờn, xúc phạm đến Đức Thánh Linh. Trong sự khước từ nầy tội nhân đang nói với Đức Thánh Linh rằng "Toàn bộ công trình của Đấng Christ là sự lừa dối, và trình bày trước mặt Đức Chúa Trời một kế hoạch tự cứu khác bằng việc làm." Đó là kể rằng sự chết của Đấng Christ là việc tầm thường, sự chết của một phàm nhơn. Vì vậy, khước từ thần tánh của Đấng Christ và giá trị của huyết Chúa là khinh thường lời chứng của Đức Thánh Linh (Giăng 5:8).
III. TỘI LÀM PHẬT Ý ĐỨC THÁNH LINH DO NGƯỜI KHÔNG VÂNG LỜI.
Ê-sai 63:9,10 "Song họ đã bội nghịch, đã làm cho thần thánh Ngài phải buồn rầu." Câu Kinh Thánh nầy nói đến sự bội nghịch của dân Y-sơ-ra-ên, nhưng các nguyên tắc của Đức Chúa Trời không bao giờ thay đổi, và con người ngày nay cũng bất tuân chống nghịch lại Đức Thánh Linh. Hãy suy nghĩ đến sự kinh khủng xấu xa của những người được cứu chuộc, đang chống nghịch và làm phật ý Đức Thánh Linh đang ngự trong lòng. Nếu chúng ta thành thật với chính mình, đây có lẽ là sự ngăn trở của bản thân chúng ta một cách thuộc linh.
Đôi khi, Đức Thánh Linh khám phá ra sự xấu xa nào đó trong lòng ta, thay vì tạ ơn Ngài về sự khám phá đó, chúng ta lại cưỡng lại, vì tấm lòng kiêu ngạo của chúng ta từ chối xưng tội của mình.
Nguồn gốc của sự làm phật lòng Chúa là sự bội nghịch. Nó gây nên bởi sự lầm bầm, phàn nàn, oán trách. Từ chối chấp nhận vị trí trong cuộc sống mà Chúa ban cho và chỗ đứng của mình trong thân thể Đấng Christ, nhưng thường xuyên bất mãn la làm buồn lòng Đức Thánh Linh. Một người sau khi được nhắc nhở cảnh cáo nhiều lần được phước dư dật cộng với ánh sáng, sự hiểu biết phong phú mà vẫn cứ miệt mài trong sự ác, cứ hững hờ không nhận biết Ngài, chắc chắn là phật lòng Đức Thánh Linh. Vậy chúng ta hãy lắng nghe, hãy đầu phục và vâng lời Đức Thánh Linh và đừng bao giờ làm phật ý Đức Thánh Linh cao quí. Chúng ta hãy chấm dứt sự cứng lòng của ý chí chúng ta và tiếp nhận ơn phước mà Ngài muốn ban cho chúng ta.
IV. TỘI CHỐNG NGHỊCH ĐỨC THÁNH LINH DO NGƯỜI VÔ TÍN.
Công 7:51 "Các ngươi cứ nghịch với Đức Thánh Linh hoài, tổ phụ các ngươi thể nào, các ngươi cũng thể ấy." Chúng ta chống nghịch Đức Thánh Linh khi chúng ta nghi ngờ Lời của Đức Chúa Trời. Hê-bơ-rơ 3:19 "Vả chúng ta thấy những người ấy không thể vào đó được, vì cớ không tin." Sự vô tín gây cho con người tội chống nghịch thường thường Đức Thánh Linh đánh thức lương tâm con người là điều phải, nhưng khi chúng ta cố tình chống nghịch sự lãnh đạo của Ngài, là chúng ta thật sự bày tỏ sự vô tín. Đôi khi Đức Thánh Linh nhắc nhở chúng ta làm chứng đạo cho một linh hồn, từ bỏ tội lỗi, dâng mình truyền giáo, đi học trường Kinh Thánh, sống đời sống biệt riêng, giúp người nghèo, nhưng thay vì chúng ta vâng lời, chúng ta lại chống cự sự dẫn dắt của Ngài.
Đây là lời cảnh cáo Sáng 6:3 "Thần Ta sẽ chẳng hằng ở cùng loài người luôn." Khi con người chống nghịch Đức Chúa Trời khá lâu, Đức Chúa Trời có thể phó mặc họ sa vào sự hư mất Rom 1:24. Nếu Đức Thánh Linh chiếm hữu trọn vẹn tấm lòng của chúng ta, ta phải chấm dứt mọi sự chống nghịch và tẩy sạch mọi điều xấu xa từng làm lòng ta ô uế Phải loại bỏ sự vô tín.
V. TỘI THỬ ĐỨC THÁNH LINH DO NGƯỜI THIẾU THÀNH THẬT.
Công 5:1-9 "Sao các ngươi dám đồng mưu dễ thử Thánh Linh của Chúa?" A-na-nia và Sa-phi-ra khi âm mưu lừa dối anh em mình, họ đã thực sự thử và dối Đức Thánh Linh. Thay vì kết án người khác chúng ta hãy tự xét lấy mình. Một người có thể sẽ phạm tội nầy khi giả vờ với anh em mình rằng người ấy hoàn toàn dâng mình cho Đức Chúa Trời, trong khi người ấy thực ra có khuynh hướng về tội lỗi và xa lánh Đức Chúa Trời. Cẩn thận việc tỏ ra thánh thiện trước mặt loài người hơn là trước mặt Đức Chúa Trời (Thi 51:10).
"Lạy Đức Chúa Trời, xin hãy dựng nên trong tôi một lòng trong sạch." Có phải tôi đang nói là tôi dâng mình trọn vẹn đầu phục Chúa, khi tôi biết rõ trong lòng là tôi giả hình chăng? 2 Vua 5:25-27 Ghê-ha-xi nói dối và đã mắc bệnh phung. Đừng bao giờ nói dối với Đức Thánh Linh.
"Mọi sự lừa dối và tự khoe khoang, mọi sự đạo đức giả, mọi sự nói dối với con người là nói dối với Đức Thánh Linh" (Oswald J. Smith).
VI. TỘI DẬP TẮT ĐỨC THÁNH LINH DO NGƯỜI THÀNH KIẾN.
"Chớ dập tắt Đức Thánh Linh" (I Tê-sa-lô-ni-ca 5:19-20). Đây là một mạng lệnh nghiêm khắc. Tư tưởng dập tắt phát xuất từ ý dập tắt ngọn lửa như trong Ê-sai 4:4, thần thiêu đốt. "Ngài không dập tắt ngọn đèn gần tàn" (Ma-thi-ơ 12:20). "Lấy thêm đức tin làm thuẩn nhờ đó anh em có thể dập tắt được các tên lửa của kẻ dữ" (Ê-phê-sô 6:16). Dập tắt có nghĩa là làm cho im lặng, cứng đờ ra. Đừng dập tắt, đừng làm cho câm nín tiếng nói nài nỉ, nhắc nhở của Thánh Linh. Khi Ngài phán với chúng ta qua lời Ngài, hoặc qua lương tâm ta phải vâng lời dù phải trả giá nào .
Nếu chúng ta làm cho lửa dập tắt trong đời sống chúng ta thà ta chỉ còn có tro tàn. Ta có thể dập tắt Ngài ở điểm nầy, nhưng đầu phục Ngài ở điểm khác. Khi một người đầu phục Đức Thánh Linh thì lúc đầu Ngài phán rất to với ta, khi ta làm điều sai trái, nhưng nếu ta không để ý tiếng nói của Ngài thì chẳng bao lâu tiếng nói ấy trở nên nhỏ bé cho đến khi im hơi lặng tiếng. Những sự quở trách không được ta để ý đến, sẽ đi đến hậu quả cứng lòng và đi đến dập tắt. Chúng ta hãy cẩn thận trong việc chỉ trích sự thề hiện của Đức Thánh Linh trong lời làm chứng của một số tín đồ, hoặc bài giảng của một số mục sư truyền đạo, kẻo chúng ta mắc tội dập tắt Đức Thánh Linh mà không hay.
VII. TỘI LÀM BUỒN LÒNG ĐỨC THÁNH LINH DO NGƯỜI NHẸ DẠ TẦM PHÀO.
"Anh em chớ làm buồn cho Đức Thánh Linh của Đức Chúa Trời vì nhờ Ngài anh em được ấn chứng đến ngày cứu chuộc" (Ê-phê-sô 4:30). Cha mẹ tin tưởng nơi một đứa con, về sau đứa con đó ăn cắp và cha mẹ buồn lòng. Đức Thánh Linh luôn tin tưởng chúng ta trong việc chúng ta luôn chống cự tội lỗi và vâng lời Chúa, nếu chúng ta thất bại Ngài sẽ buồn lòng. Phụ lòng tin tưởng của Chúa dẫn đến sự buồn lòng của Ngài. Đức Thánh Linh được mô tả bằng hình ảnh của một chim bồ câu nhạy cảm, rất dễ sợ hãi bay đi. Đức Thánh Linh thường buồn lòng bởi những lời nói vô bổ, hung dữ ra từ miệng các Thánh đồ.
Câu kế tiếp nhấn mạnh điều nầy khi Kinh Thánh chép "Phải bỏ khỏi anh em những sự cay đắng, buồn giận, tức mình, kêu rêu, mắng nhiếc, cùng mọi điều hung ác" (Ê-phê-sô 4:31). Đức Thánh Linh không đồng tình, đồng ý trong các cuộc nói chuyện vô bổ và càng không đồng tình trong lời nói xấu xa tục tĩu. Chúng ta hãy coi chừng cánh cửa miệng lưỡi, chúng ta không nên để lưỡi mình làm công cụ cho tội lỗi mà làm buồn lòng Chúa. Người đầy dẫy Đức Thánh Linh là người vui vẻ nhưng nghiêm trang.
KẾT LUẬN:
Khước từ Thánh Linh sẽ không được tái sanh, làm buồn Thánh Linh sẽ không được Thánh Linh tiếp tục ngự trong lòng, dập tắt Thánh Linh sẽ đánh mất quyền năng hầu việc. Chúng ta phải thường xuyên sống trong sự tương giao với Đức Thánh Linh.
Câu hỏi ôn:
1. Bảy tội nghịch lại với Đức Thánh Linh là gì?
2. Tội không thể tha là tội gì? Hãy giải thích.
3. Lời cảnh cáo liên quan đến việc báo cáo tin tức phục hưng là gì?
4. Khinh lờn Đức Thánh Linh là gì?
5. Người ta làm phật lòng Đức Thánh Linh như thế nào?
6. Nguyên do căn bản của sự chống nghịch Thánh Linh là gì?
7. Kể ra 2 ví dụ về thử Thánh Linh.
8. Tư tưởng chính trong việc dập tắt Đức Thánh Linh Là gì?
9. Đưa ra một ví dụ về dập tắt Thánh Linh ở điểm nầy mà không ở điểm kia.
10. Cách thông thường nhất trong việc làm buồn lòng Đức Thánh Linh là gì?
LỜI GIỚI THIỆU:
Lúc mới tin Chúa, người tín đồ nhận đời sống xưng nghĩa. Người ấy được xưng là công nghĩa căn cứ trên sự công nghĩa của Chúa Jêsus. việc nầy được tiếp nối theo bằng đời sống dâng mình, khi chúng ta nhận biết quyền sở hữu của Chúa trên đời sống chúng ta. "Anh em không còn thuộc về chính mình nữa... đã mua bằng giá cao rồi" (I Cô-rinh-tô 6:19-20). Ở bàn thờ của sự dâng mình, chúng ta phó thác đời sống mình và ý chí mình cho Chúa (Ma-thi-ơ 26:39). Tiếp theo đó là đời sống trong sạch khi họ từ bỏ điều xấu xa và vị kỷ. Nhưng chúng ta không thể sống trong tình trạng tiêu cực trống rỗng. Đời sống chúng ta cần phải đầy dẫy Đức Thánh Linh. "Đừng say rượu vì rượu xui cho luôn tuồng, nhưng phải đầy dẫy Đức Thánh Linh" (Ê-phê-sô 5:18 ). Đây là một mạng lịnh rất mạnh mẽ của Kinh Thánh Tân ước.
Có người nói lại với Mục sư tiến sĩ Billy Graham về một Hội thánh kia đã thi hành kỷ luật một ông chấp sự vì đã say rượu. Mục sư tiến sĩ Graham đã hỏi lại: "Thế người ta sẽ làm gì một ông chấp sự không được đầy dẫy Đức Thánh Linh, cả hai việc đó đều được nhắc đến trong cùng một câu Kinh Thánh."
Ở lúc quy đạo, người tín đồ hoàn toàn được ở trong Đấng Christ, nhưng thường thì người ấy chưa bước vào sự đầy trọn về sự thừa hưởng thuộc linh cho đến thời gian về sau nầy. Với việc quy đạo người tín đồ sở hữu Đức Thánh Linh (Rom 8:16). Việc nầy có thể được ví dụ như việc chiếm hữu một ngôi nhà. Đức Thánh Linh có thể được mời làm vị khách trong phòng khách, nhưng không bao giờ được trọn quyền kiểm soát nhà bếp, phòng ngủ, nhà kho. Đức Thánh Linh có thể trú ngụ nhưng không làm chủ có thể là khách trọ nhưng chưa là chủ nhà. Khi chúng ta dâng quyền kiểm soát đời sống ta cho Chúa, Ngài sẽ càng ngày càng đầy dẫy chính mình Ngài trong chúng ta, "... huống chi Cha các ngươi ở trên trời lại chẳng ban Thánh Linh cho kẻ xin Ngài sao?" (Lu-ca 11:13). Ở đây, chúng ta được dạy phải cầu xin cho được đầy dẫy Đức Thánh Linh. Cho nên tiến sĩ Scofield đã giải thích rằng, "Trở lại với lời hứa Lu-ca 11:13 là quên lễ Ngũ Tuần và bỏ qua lẽ thật về mỗi người tín đồ đều được Đức Thánh Linh ngự trong lòng." Nhưng đây không phải là câu giải thích đúng, vì Lu-ca đã viết sách Tin lành rất lâu sau lễ Ngũ tuần. Lễ Ngũ tuần nói về việc Đức Thánh Linh ngự trong lòng người tín đồ, trong khi Lu-ca 11:13 nài xin cho sự Đầy dẫy Đức Thánh Linh.
I. ĐỨC THÁNH LINH VÀ NGƯỜI TÍN ĐỒ.
Các môn đồ chờ đợi trong thành Giê-ru-sa-lem về lời hứa ban Đức Thánh Linh (Lu-ca 24:49). Công vụ 2:4 là sự ứng nghiệm lời hứa nầy khi Đức Thánh Linh giáng lâm. Từ đó người tín đồ có Đức Thánh Linh ngự vào, nhưng không phải là Đức Thánh Linh kiểm soát từng người tín đồ. Người tín đồ vẫn có ý chí phản nghịch cứng cỏi của mình. Người ấy có thể cầu nguyện hay không, chịu ban cho hay không chịu ban cho, làm chứng hay không chịu làm chứng, đầu phục hay không chịu đầu phục. Người tín đồ có thể vâng lời Đức Thánh Linh hay chống nghịch làm buồn Đức Thánh Linh.
Hành động đức tin cao cả nhất của người tín đồ là tận hiến đời mình cho Đức Thánh Linh. Việc nầy không cần thiết cho sự cứu rỗi nhưng rất cần cho sự đầy dẫy Đức Thánh Linh. Người tín đồ sẽ nhận đầy Đức Thánh Linh, khi người đó thừa nhận, cảm biết quyền tể trị của Ngài, sự kiểm soát toàn diện của Ngài trong cuộc sống. Chính Ngài tể trị từng chi tiết trong cuộc sống chúng ta.
II. ĐẦY DẪY ĐỨC THÁNH LINH LÀ MỘT MẠNG LỊNH PHẢI VÂNG THEO.
Đây có phải là một kinh nghiệm kỳ diệu, một sự xa xí dành cho một ít người như các sứ đồ và Ê-tiên hay không?
Đây phải là kinh nghiệm của mỗi một người tín đồ. Ê-phê-sô 5:18 không phải là lời yêu cầu được chăng hay chớ, nhưng là mạng lịnh rõ ràng có tính bắt buộc. Hình ảnh trong Ê-phê-sô
5:18 là sự tương phản giữa một người đang chịu ảnh hưởng hoàn toàn bị điều khiển bởi một quyền lực khác, hoặc của rượu hoặc là của Thánh Linh, hoặc là thuộc về đất hoặc thuộc về trời. Nước Ai-cập luôn luôn có sông Nile, nhưng mỗi năm nước Nile mới tràn ngập một lần. Có sông Nile là một việc, nhưng nước sông Nile tràn ngập dâng lên lại là một việc khác. Khi sông Nile tràn ngập nước, xứ Ai-cập được phì nhiêu. Chúng ta hãy nhận biết và từng trải sự tràn ngập của Đức Thánh Linh trong đời sống chúng ta (Giăng 7:38,39). Trong nguyên văn Hy-lạp mạng lịnh nầy có tính liên tiếncứ tiếp tục đầy dẫy Đức Thánh Linh. Sự đầy dẫy Đức Thánh Linh cần nên phải được thường xuyên, liên tục trong đời sống chúng ta.
Sứ đồ Phi-e-rơ được đầy dẫy Đức Thánh Linh trong Công 2:4 rồi lại đầy dẫy nữa trong Công 4:8 và lại tiếp tục đầy dẫy nữa trong Công 4:31. Mỗi ngày cần sự đầy dẫy mới mẻ.
III. MỌI NGƯỜI CẦN ĐẦY DẪY ĐỨC THÁNH LINH.
Mỗi một tín đồ của Chúa Jêsus Christ cần đầy dẫy Đức Thánh Linh. Sự đầy dẫy Đức Thánh Linh dành cho các sứ đồ, các thầy giảng, các bậc cha mẹ, các thanh niên thiếu nữ, các nhân sự. Mỗi người chúng ta cần được đầy dẫy Đức Thánh Linh để cá nhân mình được ích lợi, đồng thời mỗi chúng ta thành một cơ đốc nhân tốt nhất. Nếu không đầy dẫy Đức Thánh Linh, chúng ta không thể đạt được thánh ý Chúa dành cho chúng ta trong đời sống và trong chức vụ. Sự đầy dẫy Đức Thánh Linh là một phước thuộc linh có tính cá nhân. Mỗi người được cứu và được đầy dẫy Đức Thánh Linh một cách cá nhân. Sự đầy dẫy Đức Thánh Linh phải được từng cá nhân tiếp nhận. Tôi phải làm việc Chúa cho riêng phần tôi.
Đức Thánh Linh không thể soi sáng tâm trí chúng ta, làm ấm áp tình cảm chúng ta, tẩy rửa tâm linh chúng ta, khi chúng ta tăng cường năng lực cho ý chí chúng ta cho đến khi chúng ta đầu phục Ngài hoàn toàn và cứ tiếp tục đầu phục Ngài.
IV. HỘI THÁNH CẦN MỖI TÍN ĐỒ ĐẦY DẪY ĐỨC THÁNH LINH.
Đôi khi có những việc thiếu khôn ngoan, quá trớn hoặc kỳ dị được thực hiện bởi danh nghĩa đầy dẫy Đức Thánh Linh. Vì đó nhiều tín đồ xa lánh việc đầy dẫy Đức Thánh Linh. Một số người cho rằng khả năng nói tiếng lạ là bằng cớ của những người đầy dẫy Đức Thánh Linh. Điều nầy sai vì các tiếng lạ là dấu cho người ngoại đạo biết về thực sự của Tin lành thay đổi đời sống (I Cô-rinh-tô 14:22).
Hội thánh cần những người tín đồ đầy dẫy Đức Thánh Linh. Nếu thiếu sự đầy dẫy Đức Thánh Linh, Hội thánh sẽ bị xâm nhập sự vô trật tự tranh chấp, sự bội đạo, sự ghen tuông và sự chia rẽ, bất hòa... Mỗi một thành viên trong hội thánh hãy đầy dẫy Đức Thánh Linh, các mục sư, truyền đạo, các chấp sự, trưởng lão, giáo viên trường Chúa nhật, ban hát lễ, các nhân sự... tất cả đều cần đầy dẫy Đức Thánh Linh.
V. THẾ GIAN TRÔNG ĐỢI CÁC TÍN ĐỒ ĐƯỢC ĐẦY DẪY ĐỨC THÁNH LINH
Đời sống người tín đồ Cơ đốc giáo bước đi theo hai hướng: 1) Hướng về Đức Chúa Trời. 2) Hướng về người khác.
Thế giới mong muốn mỗi người tín đồ phải hoàn hảo. Để sống theo tiêu chuẩn mơ ước của thế gian, mỗi người tín đồ rất cần thiết đầy dẫy Đức Thánh Linh. Chúng ta không thể là chứng nhân có hiệu quả nếu chúng ta không đầy dẫy Đức Thánh Linh. Làm việc Chúa theo năng lực xác thịt chỉ có thể dẫn đến sự thất vọng và thất bại mà thôi.
Người tín đồ đầy dẫy Đức Thánh Linh, sống một đời sống bị đóng đinh đối với thế gian là những cong cụ có hiệu quả trong tay Chúa để thuyết phục và cứu vớt tội nhân.
VI. CÁC ĐIỀU KIỆN ĐỂ ĐƯỢC ĐẦY DẪY ĐỨC THÁNH LINH
1. Được tha tội: Công 2;38 "Hãy ăn năn và chịu Báp-têm... để được tha tội và nhận lãnh Đức Thánh Linh." Thi 66:18 Đức Thánh Linh không thể sống với tội lỗi.
2. Được làm con Chúa: Ga-la-ti 4:6 "Vì anh em là con, Đức Chúa Trời ban Đức Thánh Linh Ngài ở trong lòng anh em."
3. Khao khát: Giăng 7:37-39 "Nếu người nào khát..." xem Ê-sai 44:3.
4. Đức tin: Giăng 7:39 Đức Thánh Linh được ban cho người tin, cũng xem Ga-la-ti 3:13,14.
5. Vâng lời: Công 5:32. Ngài ban Đức Thánh Linh cho người vâng lời Ngài.
6. Chờ đợi: Lu-ca 24:49, Công 1:4 "Hãy chờ đợi lời hứa của Cha" không nên vội vã.
7. Cầu nguyện: Lu-ca 11:13 Đức Thánh Linh được ban cho kẻ kêu xin, xem Công 4:31.
8. Chiếm hữu sự kiện cho mình: Giăng 1:12. Hãy xin và tiếp nhận. Lu-ca 11:9-10. Hãy nhận lấy món quà đầy dẫy Đức Thánh Linh sống và hành động như sự kiện nầy là thật cho riêng mình.
Bí quyết được đầy dẫy Đức Thánh Linh là sự đầu phục, đầu phục ý chí, thân thế, mọi vật sở hữu và mọi khía cạnh trong đời sống ta, cho Đức Thánh Linh kiểm soát.
VII. CÁC KẾT QUẢ CỦA SỰ ĐẦY DẪY ĐỨC THÁNH LINH
1. Quyền năng để làm chứng là một trong các sự bày tỏ mạnh mẽ về đời sống đầy dẫy Đức Thánh Linh (Công 1:8).
2. Quyền năng để sống đời sống Cơ đốc đắc thắng (Công 20:22-24). Phao-lô nói với các tín đồ tại Ê-phê-sô.
3. Sự vinh hiển chắc chắn qui về cho Chúa (Giăng 16:14) đây là công tác chính của Đức Thánh Linh.
KẾT LUẬN :
Chúng ta không phải là cái hồ chứa nhưng là những ống dẫn. Chúng ta phải trào ra, phước hạnh phải tràn trễ ra. Sự quy đạo xảy ra trước hết kế đó là sự đầy dẫy và sự tràn trề. Đây là hình ảnh đẹp đẽ trong Kinh Thánh mô tả.
LỜI GIỚI THIỆU
Đây là một đề tài gây nhiều tranh luận giữa vòng các tín hữu Tin Lành và các nhà thần học và bài học này không chắc là có thể giải quyết vấn đề này.
Tôi mong bài học này sẽ không gây rối trí cho quí vị, nhưng sẽ giúp quí vị giải thích vấn đề hết sức khó khăn và phức tạp này.
Vấn đề này bị Sa-tan lợi dụng để gây chia rẽ giữa các tín hữu trong khi sứ vụ của Chúa Thánh Linh là để kéo các tín hữu Chúa Cứu Thế lại gần nhau.
I. CÁC GIẢI THÍCH KHÁC NHAU VỀ LẼ ĐẠO NÀY
A. Đây là lần đầu tiên một người được đầy dẫy Đức Thánh Linh
Lối giải thích này cho rằng các từ ngữ "Báp-tem bằng Thánh Linh," "Đầy dẫy Thánh Linh," "sự ban cho Thánh Linh," "mặc lấy Thánh Linh," là giống nhau.
Nhưng chúng tôi tin là những từ ngữ đó không giống nhau. Các chữ báp-tem và đầy dẫy có nghĩa trái ngược nhau. Báp-tem là là dìm vào trong một cái gì. Đầy dẫy là đổ gì vào trong một người.
Thuyết này đến từ câu chuyện lễ Ngũ Tuần, chỗ mà các sứ đồ được đổ đầy với Đức Thánh Linh và nói tiếng lạ (Công Vụ 2:4; xem thêm 10:44-46).
Điều này có thể được giải thích bằng sự kiện rằng Lễ Ngũ Tuần là khởi đầu của thời kỳ Chúa Thánh Linh khi mọi việc xảy ra cùng một lúc.
B. Đây là kinh nghiệm nói tiếng lạ. Việc này thật đã xảy ra trong bốn dịp đặc biệt. Việc này xảy ra để công khai đoàn kết các nhóm khác nhau vào trong một thân thể.
Trong Công Vụ 2, tại Lễ Ngũ Tuần, các người nói tiếng lạ al người Do Thái.
Trong Công Vụ 8:17, chúng ta thấy có việc thừa nhận các tín hữu Sa-ma-ri.
Trong Công Vụ 10:44, "người dân ngoại" được công khai tiếp nhận bởi Chúa Thánh Linh.
Nhóm thứ tư là các môn đồ của Giăng Báp-tít, Công Vụ 19:1-7.
Tin Lành phải được giảng ra tại (1) Giê-ru-sa-lem, (2) Giu-đê, (3) Sa-ma-ri và (4) thế giới dân ngoại. Bốn từng trải nói trên phù hợp cách tốt đẹp.
Lễ Ngũ Tuần là giai đoạn chuyển tiếp kéo dài một vài năm từ Giăng Báp-tít đến ít nhất là Công Vụ 19, khi bốn nhóm được chính thức đồng hóa.
Chúng tôi chối bỏ giải thích này ngày nay vì giai đoạn chuyển tiếp đã hoàn tất từ lâu rồi.
C. Đây là công việc thứ nhì của ân sủng nhưng không phải của tiếng lạ.
Quan điểm này dựa chính yếu trên từng trải của những người vĩ đại của Đức Chúa Trời như là Moody, Torrey, Finney, v.v. khi họ có một kinh nghiệm rõ rệt ngoài từng trải trở lại đạo.
Bằng chứng của họ tựa trên các đoạn Kinh Thánh như Công Vụ 8:15-, và có thể được giải thích dễ dàng rằng giai đoạn chuyển tiếp chưa được hoàn thành lúc đó (Công Vụ 19:1-2).
Nhưng, bây giờ giai đoạn chuyển tiếp từ luật pháp qua ân sủng, từ giai đoạn của Con sang giai đoạn Thánh Linh đã hoàn thành, việc này không còn đúng nữa.
Rất nguy hiểm để cố thành lập một tín lý dựa trên kinh nghiệm của người.
D. Việc này chỉ liên quan đến Lễ Ngũ Tuần và không áp dụng cho chúng ta ngày nay.
Đây là thái độ của đại đa số trong hội thánh ngày nay, bởi đó họ phủ nhận giáo lý này và tiếp tục hoàn toàn không để ý đến lẽ đạo này.
Họ phủ nhận các biểu thị bên ngoài như là nói tiếng lạ và đi đến chỗ quá khích là hoàn toàn phủ nhận tín lý này. Làm như thế là hoàn toàn sai lầm.
Các đoạn Kinh Thánh có tính cách tiên tri như Giô-ên 2:28-32; Ma-thi-ơ 3:11; Mác 1:8; Lu-ca 3:16; Giăng 1:33 và Công Vụ 1 đã thật sự được ứng nghiệm tại Lễ Ngũ Tuần.
Nhưng chúng tôi tin rằng qua những câu như I Cô-rinh-tô 12:13 và Ê-phê-sô 4:5, thì điều được mô tả bằng nhóm từ "báp-tem bằng Đức Thánh Linh" cũng phải có sự ứng dụng cho chúng ta ngày nay.
E. Đây là báp tem được Giăng Báp-tít nói đến trong Ma-thi-ơ 3:11 và có ứng dụng cho ngày nay.
Quan điểm này lẫn lộn "sự xức dầu bởi Đức Thánh Linh" với "báp tem bằng Đức Thánh Linh."
Quan điểm này cho rằng trong kinh nghiệm đặc biệt sau khi tin nhận Chúa này thì chính Chúa Jêsus sẽ làm báp tem cho người tín hữu bằng Chúa Thánh Linh.
Quan điểm này dạy rằng báp-tem này sẽ xảy ra khi một người hội đủ các điều kiện trong Thi Thiên 45:7,8, tức là yêu sự công chính và ghét sự gian ác.
Nhưng đoạn Kinh Thánh này nói đến sự xức dầu chứ không phải báp-tem. So sánh Lu-ca 4:18 và I Cô-rinh-tô 12:13.
II. LỜI GIẢI THÍCH CHÂN THẬT VÀ CHÍNH XÁC VỀ LẼ ĐẠO NÀY
Tôi tin rằng câu tuyên bố thần đạo duy nhất về đề tài này là 1 Cô-rinh-tô 12:13, "Vì trong cùng một Thánh Linh mà chúng ta chịu phép báp tem để sát nhập vào một thân thể, người Do Thái cũng như Hi Lạp, kẻ nô lệ cũng như tự do, tất cả chúng ta đều được uống cùng một Thánh Linh."
Năm lời tiên tri trong Ma-thi-ơ 3:11; Mác 1:8; Lu-ca 3:16; Giăng 1:33; Công Vụ 1:5 hướng về Lễ Ngũ Tuần và được hoàn toàn ứng nghiệm "không bao nhiêu ngày" sau đó.
Thì động từ trong 1 Cô-rinh-tô 12:13 là thì quá khứ. Động từ đó chỉ về một kinh nghiệm đã hoàn thành. Kinh nghiệm đó được Đức Thánh Linh thực hiện khi một người tin nhận Chúa.
Sự báp tem bằng Đức Thánh Linh cho chúng ta ngày nay là việc kết hiệp một tân tín hữu vào trong Thân thể vô hình của Chúa Cứu Thế bởi Chúa Thánh Linh khi người đó trở lại tiếp nhận Chúa.
Không có nơi nào trong các Thư Tín khuyên dạy chúng ta tìm kiếm sự báp tem bằng Đức Thánh Linh, vì đó là một từng trải đã hoàn thành. Chúng ta không cần lo lắng hay làm phiền bởi điều đó.
Chúng ta được thúc giục để được "đầy dẫy Đức Thánh Linh," "đừng làm buồn," "đừng dập tắt" Thánh Linh.
Lễ Ngũ Tuần là một kinh nghiệm để đánh dấu một thời ký mới. Công Vụ 2:1-4.
J. O. Sanders chỉ ra bốn sự kiện từ I Cô-rinh-tô 12:13:
(1) Mỗi tín hữu đã được báp tem, "chúng ta CẢ THẢY chịu báp-tem."
(2) Kinh nghiệm này trong thì quá khứ. Đây là một giao dịch đã hoàn tất.
(3) Chức năng của báp tem này là xếp người tín hữu vào "trong một thân."
(4) Báp-tem này kết hiệp các tín hữu lại, hủy bỏ tất cả dị biệt về chủng tộc, màu da hay chính thể.
III. "MỘT BÁP-TEM" TRONG Ê-PHÊ-SÔ 4:5 LÀ GÌ?
"Một Chúa, một đức tin, một báp tem" (Ê-phê-sô 4:5).
Có người tranh luận rằng có ít nhất hai báp tem, nước và Thánh Linh, báp-tem này là báp tem nào?
Trong trí của Đức Chúa Trời, báp tem bằng Thánh Linh hẳn là báp tem thật (1 Cô-rinh-tô 12:13).
Báp-tem bằng nước, một thánh lễ cần thiết trong hội thánh, là một dấu hiệu trên trần gian này để tỏ rằng phép báp tem theo 1 Cô-rinh-tô 12:13 đã xảy ra.
Báp tem chân thật bằng Thánh Linh khiến cho Ê-phê-sô 5:30 được thành hình, "vì chúng ta là các phần của Thân Thể Ngài" (BDM).
IV. DÀN BÀI VỀ BÁP-TEM BẰNG THÁNH LINH DO BÀ E. W. WELLERS BIÊN SOẠN
Đây là một công việc đầu tiên được xảy ra lúc được cứu rỗi.
"Tất cả được báp tem vào trong một thân," 1 Cô-rinh-tô 12:13; 1 Phi-e-rơ 3:20b; Tít 3:5.
Rô-ma 6:3-11 là định nghĩa duy nhất trong Kinh Thánh về báp-tem bằng Đức Thánh Linh.
Trong một hành động đức tin sống động nơi Chúa Cứu Thế, các tín hữu được:
1. Sanh bởi Đức Thánh Linh (sự khởi đầu sự sống đời đời), Giăng 3:3-8.
2. Nhận được sự bảo chứng của Thánh Linh (cam đoan sẽ nhận được tất cả), Ê-phê-sô 1:14; 2 Cô-rinh-tô 1:22; 5:5.
3. Niêm ấn bằng Thánh Linh (đảm bảo được tiếp tục), Ê-phê-sô 1:13; 4:30.
4. Ngự trị bởi Đức Thánh Linh (bảo trì sự sống đời đời trong tâm hồn), Rô-ma 8:9.
5. Báp-tem vào một thân (một hành động liên hệ nối kết Chúa Cứu Thế và các tín hữu), 1 Cô-rinh-tô 12:13.
V. ĐỊNH NGHĨA BÁP-TEM THEO RÔ-MA 6:3-11.
1. Báp-tem vào trong sự chết của Ngài (Rô-ma 6:3). "Tôi đã bị đóng đinh với Đấng Christ" (Ga-la-ti 2:20).
2. Báp-tem vào trong sự chôn của Ngài (Rô-ma 6:4), một sự nhận căn toàn vẹn với thân thể Ngài.
3. Báp-tem vào sự sống lại của Ngài (Rô-ma 6:5), hoàn toàn bước vào thân thể mới của Ngài.
4. Báp-tem vào đời sống phục sinh của Ngài (Rô-ma 6:8), "sống với Ngài," sống trong thân thể Ngài.
Kinh nghiệm của 1 Cô-rinh-tô 12:13 ngụ ý một sự nhận căn toàn vẹn với Đấng Cứu Chuộc.
KẾT LUẬN
Qua báp-tem bằng Đức Thánh Linh chúng ta được đầy trọn trong một thân thể phục sinh mới (Cô-lô-se 2:10-12).
Tại Lễ Ngũ Tuần, ngày Chúa Thánh Linh đến để cư ngụ, các môn đồ được đầy dẫy, báp-tem, và xức dầu với Đức Thánh Linh.
Lễ Ngũ Tuần là một biến lịch sử rõ ràng không bao giờ được lập lại. Đó là ngày Đức Thánh Linh lên ngôi, khi Ngài đảm nhận tất cả các chức vụ khác nhau của Ngài.
Chúng ta được báp-tem bằng Thánh Linh khi chúng ta trở lại tin nhận Chúa. Chúng ta cần được xức dầu với quyền năng để phục vụ (Công Vụ 1:8) và chúng ta cần luôn luôn được tràn ngập với Chúa Thánh Linh.
CÁC CÂU HỎI ÔN:
1. Xin đưa ra năm giải thích về báp tem bằng Thánh Linh.
2. Sự khác biệt giữa đầy dẫy Thánh Linh và báp-tem bằng Thánh Linh là gì?
3. Tại sao nói tiếng lạ không phải là báp tem bằng Thánh Linh?
4. Báp-tem bằng Thánh Linh có xảy ra trong thế hệ ngày nay không? Tại sao?
5. Thi Thiên 45:7-8 có nói rõ các điều kiện để được báp-tem bằng Thánh Linh không?
6. Lời giải thích đúng về báp tem bằng Đức Thánh Linh là gì?
7. Giải thích "một báp tem" trong Ê-phê-sô 4:5.
8. Lời giải thích xuất sắc của bà Weller về báp tem bằng Đức Thánh Linh là gì?
9. Tất cả những nai được bao gồm trong sự "báp tem bằng Thánh Linh" vào trong Chúa Cứu Thế Jêsus?
10. Giải thích Cô-lô-se 2:10-12, trong mối tương quan với báp tem bằng Thánh Linh.
I. TRÁI THÁNH LINH.
1. Các vị của Trái Thánh Linh: Ga-la-ti 5:22,23 liệt kê 9 mùi vị như một đơn vị độc nhất của một trái.
a. Yêu thương: Đây là tình yêu thiên thượng, một đức tánh của Đức Chúa Trời đang ngự trị (I Giăng 4:16, I Cô-rinh-tô 13).
b. Vui mừng: Không phải là thứ hạnh phúc của thế gian, nhưng là sự vui mừng sâu sắc (Phi 4:4).
c. Bình an: Đây là sự bình an của Đức Chúa Trời làm thỏa mãn hoàn toàn mọi linh hồn (Cô-lô-se 3:15).
d. Nhịn nhục: (kiên nhẫn) Con người tự nhiên thì thiếu sự nhịn nhục nhưng người thánh đồ thì trái lại.
e. Nhơn từ (bao dung).
f. Hiền lành (từ thiện).
g. Trung tín (đáng tin cậy).
h. Mềm mại (khiêm nhu) (II Tim 2:25).
i. Tiết độ (tự chế) điều độ trong việc ăn, uống, mặc, sinh hoạt.
Những mùi vị của Trái Thánh Linh hoàn toàn trái ngược với công việc tự nhiên xấu xa của xác thịt. Các mùi vị nầy được trình bày cách đẹp đẽ trong Đấng Christ vì Ngài là Đấng đầy dẫy Đức Thánh Linh.
2. Trái Thánh Linh là bằng cớ của sự chết :
Giăng 12:24 "Nếu hột giống lúa mì kia chẳng chết sau khi gieo xuống đất thì cứ ở một mình, nhưng nếu chết đi thì kết quả được nhiều." Nếu chúng ta không chết, chúng ta sẽ chỉ sản sinh những công việc của xác thịt. Đó là bằng cớ bởi vì bản ngã của người tìm đồ chưa bị đóng đinh. Nhiều người không có kết quả bởi vì bản ngã của họ không được đóng đinh, cho nên họ tiếp tục là một mình không có kết quả. Chỉ có đời sống mới trong Chúa mới có khả năng đem lại bông trái làm vinh hiển Danh Chúa.
3. Trái Thánh Linh là cần thiết:
Giăng 15:2 "Nhánh nào trong Ta mà không kết quả thì Ngài chặt hết."Lu-ca 13:19, có lẽ về sau nó sẽ ra trái bằng không Chúa sẽ đến. Lý do duy nhất cho sự hiện hữu của chúng ta sau khi chúng ta tin Chúa là chúng ta phải kết quả.
Sự không kết quả, không thể vui hưởng lâu dài các đặc quyền của việc có kết quả. Ân phúc Chúa không thể đi đôi mãi với sự vô kết quả. Hãy đã đảo sự vô sinh trong Chúa.
Lu-ca 13:7 "Kìa, dã 3 năm nay Ta (tượng trưng cho Đức Chúa Trời) đến hái trái nơi cây vả nầy mà không thấy." Đức Chúa Trời sẽ không bao giờ hài lòng với điều chi khác hơn là sự kết quả thuộc linh trong đời sống chúng ta.
Gia-cơ 5:7 "Hãy xem người làm ruộng, họ bền lòng chờ đợi sản vật quý báu dưới đất "Chúa Jêsus Christ đang chờ đợi trái thật trong đời sống chúng ta. Ga-la-ti 5:22,23.
4. Trái tỏ ra cây:
a. Ma-thi-ơ 12:13 "vì xem trái thì biết cây." Trong Dân số ký 13:26, các thám tử đi dọ thám mang về trái cây xứ Ca-na-an để chứng minh đó là nơi đất rất tốt.
b. Trong Tân ước các thánh đồ kết trái tốt tỏ ra mình được tái sanh. Hình thức bên ngoài là tốt, nhưng bắng cớ sống động là trái tỏ ra cây, đó là cây xoài hay cây táo, người đó là thánh đồ hay kẻ giả hình. Ma-thi-ơ 7:16-20, cây nho không thể sanh trái vả hay sai gốc. Người thánh đồ không thể sanh ra công việc xác thịt: Ga-la-ti 5:17-21.
c. Thường thường đời sống chúng ta là một sự mâu thuẫn giữa sự rủa sả và phước hạnh, giữa ngọt ngào và cay đắng, giữa cây vả và cây ô-li-ve Gia-cơ 3:9-12, không lạ gì khi thế gian hoang mang bối rối khi nhìn xem chúng ta?
5. Mục đích của trái:
Ma-thi-ơ 21:34 người chủ sai đầy tớ đi đặng thâu hoa lợi vì đến mùa hái trái.
Trái trong đời sống tín đồ là những việc lành mà người khác thấy được và tôn vinh Đức Chúa Trời. Ta chỉ sản xuất trái ngọt cho riêng bản thân mình thì không làm vinh hiển Danh Chúa được, ta còn phải kết quả cho người khác mới làm sáng Danh Chúa.
6. Căn nguyên của trái:
Ô-sê 14:8 "Bởi Ta mà sanh ra hoa trái ngươi" căn nguyên, nguồn cội của trái là Đức Chúa Trời.
Giăng 15:4 "Nhánh nho nếu không dính vào gốc nho thì không tự mình kết quả được, cũng một lẽ ấy, nếu các ngươi chẳng cứ ở trong Ta thì cũng không kết quả được."
Trái thiên nhiên là công việc tự nhiên của xác thịt. Người tín đồ sanh trái tốt nhiều, khi người đó đâm rễ vững nền trong Đấng Christ Ê-phê-sô 3:17,18.
7. Trái là nguồn gốc của sự sanh sôi nẩy nở:
Sáng 1:11 "Đức Chúa Trời phán, đất phải sanh cây cỏ, cỏ kết hột giống, cây trái kết quả." Hột giống là quả, nếu không có quả thì không có hột giống hay sự tái sinh sản. Nếu đời sống chúng ta không có kết quả thuộc linh, thì chúng ta không thể tái sinh sản. Từ đó, thay vì là nguồn phước cho đời, chúng ta trở thành một vật cản trở cho sự phát triển của Tin lành. Cô-lô-se 1:10 "nẩy nở ra đủ các việc lành càng thêm lên..."
Chúng ta có sinh sản không, muốn vậy chúng ta phải kết quả bằng Trái Thánh Linh.
II. CÁC ÂN TỨ THÁNH LINH.
1. Các loại ân tứ :
I Cô-rinh-tô 12:8-10, các ân tứ Thánh Linh như khôn ngoan, tri thức, đức tin, chữa bệnh, làm phép lạ, nói tiên tri, phân biệt các Thần, nói tiếng lạ và giải tiếng lạ.
I Cô-rinh-tô 12:28 các ân tứ phù hợp với các chức vụ của một sứ đồ, tiên tri, giáo sư, người làm phép lạ, người chữa bệnh, người cứu giúp, người nói các thứ tiếng.
Ê-phê-sô 4:11-16 thêm vào các ân tứ khác như ân tứ giảng Tin lành, chăn bầy. Rom 12:6-8 thêm các ân tứ khác nữa như ân tứ khuyên bảo, bố thí, cai trị và ân tứ làm việc thiện. (Có lẽ có khoảng 24 ân tứ khác nhau).
2. Các ân tứ được ban cho theo ý chí cao cả của Đức Chúa Trời:
I Cô-rinh-tô 12:11 mọi việc đó là công việc của đồng một Thánh Linh mà thôi, theo ý muốn Ngài phân phát sự ban cho riêng mỗi người.
Đức Thánh Linh đặt người tân tín hữu vào trong thân thể của Đấng Christ, và ban ơn thích ứng cho người đó trong vị trí đặt biệt của người đó trong thân thể. Ê-phê-sô 2:21,22. Việc lựa chọn chỗ đứng nầy hoàn toàn theo ý riêng Chúa muốn, tùy theo quyền tể trị của Ngài.
Khi Ngài lựa chọn chỗ đứng cho một người, Ngài tiếp tục làm cho tế bào mới nầy thích ứng với cả thân thể.
3. Các ân tứ nhằm đem lại ích lợi chung:
I Cô-rinh-tô 12:7 "Đức Thánh Linh tỏ ra trong mỗi một người cho ai nấy đều được ích lợi chung." Cả thân thể được ích lợi vì ân tứ mới được ban thêm cho một tín hữu. Thân thể con người không thể có các bộ phận không cần thiết, cũng vậy, thân thể Đấng Christ cũng không thể có những bộ phận vô dụng trong đó.
Sự qui đạo và sự Báp-têm vào thân thể của Đấng Christ của chúng ta (I Cô-rinh-tô 12:13) không phải chỉ là để chúng ta thoát khỏi địa ngục, nhưng nó còn là để chúng ta trở thành một người giúp đỡ, đem ơn phước đến cho thân thể.
Thân thể của Đấng Christ tức Hội thánh vô hình, phải được mạnh mẽ hơn bởi bạn đã được đặt vào trong Hội thánh, và bạn trở nên có giá trị nhờ các ân tứ đặc biệt của Đức Thánh Linh.
4. Các ân tứ cần được ao ước :
I Cô-rinh-tô 12:31 "Hãy ước ao cho được sự ban cho lớn hôn hết."Đừng thỏa mãn với chỉ một hay hai ân tứ. Hãy tìm kiếm và cầu xin Chúa ban cho bạn các ân tứ khác,khả dĩ giúp bạn trong chỗ đứng đặc biệt mà Chúa dành cho bạn trong thân thể Đấng Christ.
Phao-lô nhắc rằng ân tứ nói tiên tri là ân tứ được ước ao nhiều nhất I Cô-rinh-tô 14:1-39. Trong Ma-thi-ơ 25:14-30 một số người được ban cho một ta-lâng (ân tứ), một số khác 2 hoặc 5 ta-lâng. Người nhận 5 ta-lâng làm lợi thêm 5 ta-lâng nữa, còn người nhận một ta-lâng đem giấu trong Ma-thi-ơ 25:28, ta-lâng đem giấu nầy cũng bị cất đi giao cho người có 10 ta-lâng và cuối cùng người nầy có 11 ta-lâng hay 11 ân tứ.
Khi tin Chúa chúng ta có thể có một hay hai ân tứ, nhưng ta hãy cứ tiếp tục tìm kiếm thêm nữa để làm vinh hiển Chúa. Riêng bản thân tôi (Alban Donglas) tôi tin rằng khi mới tốt nghiệp trường Kinh thánh tôi chỉ có vài ân tứ, nhưng Chúa đã ban thêm cho tôi các ân tứ khác trong 20 năm qua.
5. Các ân tứ đều thích hợp với người có các ân tứ đó :
I Cô-rinh-tô 7:7 song mỗi người đã được ban cho riêng mình bởi Đức Chúa Trời, người này thể này, kẻ kia thề khác. Mỗi người tín đồ Đấng Christ đều có một ân tứ. Không một cá nhân nào bị bỏ quên. Người quản lý không cần phải có ân tứ giảng đạo. Đức Thánh Linh ban ân tứ riêng cho mỗi người tùy theo nhiệm vụ người đó.
7. Các ân tứ phải được sử dụng :
I Ti-mô-thê 4:14 "Đừng bỏ quên ân tứ Chúa ban trong con." Ân tứ cần phải được thực hành thường xuyên để đem lại ích lợi trong nước Chúa. Chúng ta hãy quan tâm cải tiến luôn các ân tứ Thiên thượng nẩy. Cô-lô-se 1:29.
KẾT LUẬN:
Đây không phải là các tài năng thiên nhiên. Đây là những ân tứ đặc biệt của Đức Thánh Linh ban cho. Chúng ta phải sống kết quả cho Chúa y theo các ân tứ thích hợp Chúa ban cho.
GIỚI THIỆU:
Bài học này là cố gắng bao gồm những sự dạy dỗ khác về Đức Thánh Linh đã được Kinh thánh nhắc đến nhưng không có trong các bài học trước. Bài học nầy cũng không có ý định bao gồm hết tất cả những gì Kinh thánh dạy về đề tài nầy.
I. CÁC BIỂU TƯỢNG CỦA ĐỨC THÁNH LINH: (Theo tấn sĩ C.I. Scofield)
A. Nước: Giăng 3:5, Giăng 7:38,39.
1. Nước làm cho màu mỡ: Người tín đồ đầy dẫy Đức Thánh Linh như cây trồng gần bên dòng nước chảy. Thi 1:3.
2. Nước làm cho tươi mới: Giăng 4:14, Thi 46:4, Ê-sai 41:17, 18.
3. Nước được ban cho nhưng không: Ê-sai 55:1, Giăng 4:14, Khải 22:17.
4. Nước làm cho sạch: Ê-phê-sô 5:26 Hội thánh được rửa sạch và được thánh hóa nhờ Đức Thánh Linh và nhờ Lời Đức Chúa Trời.
5. Nước được ban cho dư dật: Giăng 7:37, 38 không chỉ có nước nhưng có cả sông nước tuôn chảy.
B. Lửa: Ma-thi-ơ 3:11 "Ngài sẽ báp têm cho các ngươi bằng Đức Thánh Linh và bằng lửa."
1. Lửa soi sáng: Giăng 5:35.
2. Lửa nung đốt: Giăng 5:35, Ê-sai 4:4.
3. Lửa tẩy sạch: Ma-thi-ơ 3:2,3.
4. Lửa tìm kiếm: I Cô-rinh-tô 2:10.
C. Gió: Giăng 3:8.
1. Gió là năng lực mạnh mẽ: 1 Vua 9:11, Công 2:2 năng lực Ngài vô hạn.
2. Gió làm sống lại: (phục hưng) Ê-xê-chi-ên 37;9,10, 14 gió Thánh Linh làm sống lại hài cốt khô.
3. Gió độc lập: Giăng 3:8, I Cô-rinh-tô 12:11 Đức Thánh Linh có quyền tể trị.
4. Gió vô hình nhưng có hiệu quả: Giăng 3:8 chúng ta có thể thấy được hiệu quả của công việc Đức Thánh Linh.
D. Dầu: Thi 45:7.
1. Dầu biệt riêng: Ê-xê-chi-ên 29:7, Lu-ca 4:18.
2. Dầu an ủi: Ê-sai 61:3, Hê-bơ-rơ 1:9.
3. Dầu soi sáng: Ma-thi-ơ 25 nữ đồng trinh dại không có mang theo dầu, không thể thắp sáng được.
4. Dầu chữa lành: Lu-ca 10:34, người Sa-ma-ri nhơn lành dùng dầu chỉ về Đức Thánh Linh.
E. Mưa và sương móc: Thi 72:6.
1. Mưa không thể nhận thấy được như sự lớn lên của thực vật Mác 4:26-29.
2. Mưa làm tươi mát: Thi 68:9, Ê-sai 18:4.
3. Mưa dư dật: Thi 133:3, không đo lường được.
4. Mưa làm mầu mỡ: Ê-xê-chi-ên 34:26,37.
F. Chim bồ câu: Ma-thi-ơ 3:16
1. Thánh Linh ngự xuống trên Ngài như chim bồ câu.
2. Bồ câu rất hiền lành,dịu dàng
3. Ma-thi-ơ 10:16 hiền lành như chim bồ câu
4. Ga-la-ti 5:22 Trái hiền lành.
G. Tiếng nói: Ê-sai 6:8.
1. Tiếng nói hướng dẫn ta: Ê-sai 30:21, Giăng 16:13 tiếng Đức Thánh Linh dẫn ta vào Lẽ thật.
2. Tiếng nói phát biểu với ta. Ma-thi-ơ 10:20.
3. Tiếng nói cảnh cáo ta. Hê-bơ-rơ 3:7-11, Giăng 16:7-11 cáo trách về tội lỗi, về sự công bình và về sự phán xét.
H. Cái ấn: Khải 7:2, Ê-phê-sô 4:30. chúng ta được đóng ấn cho đến ngày cứu chuộc.
1. Ấn chủ quyền: Giăng 6:27. II Cô-rinh-tô 1:22 chúng ta được đóng ấn chủ quyền bằng Đức Thánh Linh.
2. Ấn bảo chứng: Ê-phê-sô 1:13,14 là của đặt cọc bảo chứng quyền chuyển nhượng.
II. CUỘC ĐỜI NGƯỜI TÍN ĐỒ ĐƯỢC SỐNG TRONG ĐỨC THÁNH LINH
1. Chúng ta thờ phượng Đức Chúa Trời trong Thánh Linh Giăng 4:24, Phi-líp 3:3 thờ phượng Đức Chúa Trời trong Thánh Linh và trong Lẽ thật.
2. Chúng ta hiểu biết qua Đức Thánh Linh Khải 4:1,2 Giăng hiểu biết qua Đức Thánh Linh.
3. Phao-lô bị ràng buộc trong Đức Thánh Linh Công 20:22-24.
4. Ở trong Đức Thánh Linh là bằng cớ Đức Thánh Linh ở trong chúng ta Rom 8:9.
5. Người tín đồ Cơ Đốc sống trong Đức Thánh Linh Ga-la-ti 5:25.
6. Người tín đồ Cơ Đốc bước đi trong Đức Thánh Linh Ga-la-ti 5:25.
7. Chức vụ người tín đồ được giao phó trong Thánh Linh Công 6:3, I Cô-rinh-tô 2:4.
8. Chúng ta cầu nguyện trong Thánh Linh Ê-phê-sô 6:18.
III. QUYỀN NĂNG CỦA ĐỨC THÁNH LINH: (theo James Smith)
1. Quyền năng Thánh Linh là cần thiết Lu-ca 24:49 tiến hành đời sống Cơ Đốc mà không có quyền năng Thánh Linh là vô ích.
2. Quyền năng Thánh Linh được hứa ban Công 1:8 "Khi Thánh Linh giáng trên các ngươi thì các ngươi sẽ nhận lấy quyền năng."II Ti-mô-thê 1:7.
3. Quyền năng Thánh Linh ban sự sống II Cô-rinh-tô 3:6.
4. Quyền năng Thánh Linh thật đầy đủ I Cô-rinh-tô 2:3,4.
5. Quyền năng Thánh Linh không thể mua được bằng tiền bạc Công 8:18.
6. Quyền năng Thánh Linh không thể bắt chước được.
7. Quyền năng Thánh Linh có thể mất Quan Xét 16:20. Sam-sôn bị mất quyền năng người tín đồ mất quyền năng như muối mất mặn, đáng bị quăng bỏ Ma-thi-ơ 5:13.
IV. ĐỨC THÁNH LINH LÀ GIÁO SƯ LỚN. (theo James Smith).
A. Các đặc tính của vị giáo sư lớn:
1. Người rất cần thiết: I Cô-rinh-tô 2:11, 14, Rom 11:33.
2. Không sai lầm: I Cô-rinh-tô 2:10.
3. Đầy đủ: I Giăng 2:27, Giăng 14:26.
4. Không tự phụ, khiêm tốn Giăng 16:13.
B. Các phương pháp giảng dạy của Ngài :
1. Làm tươi sáng tâm trí: Ê-phê-sô 1:17,18 Ngài mở mắt ta hiểu chân lý.
2. Dẫn ta đến sự thống khổ của Đấng Christ Giăng 16:11, Xa-cha-ri 12:10.
3. Soi sáng sự hiểu biết Ê-sai 11:2,3.
4. So sánh các việc thiêng liêng I Cô-rinh-tô 2:13.
5. Khải thị những điều kín dấu Lu-ca 2:26, Giăng 16:14.
6. Nhắc lại những điều ta quên Giăng 14:26, Thi 119:11.
7. Ngăn trở điều thuộc ý riêng của ta Công 16:6,7, Thánh linh cấm Phao-lô và Si-la không cho họ theo ý riêng nhưng theo ý Chúa.
C. Khi nào Ngài dạy dỗ ta:
1. Khi ta vâng lời: Công 8:26.
2. Khi ta suy gẫm: Công 10:19.
3. Khi ta phục sự; thờ phượng: Công 13:2.
4. Khi ta lắng nghe: Khải 2:7.
V. SỰ XỨC DẦU ĐỨC THÁNH LINH: (theo bà E.W. Weller)
Sự xức dầu là việc ban quyền năng và sự hiểu biết chân lý của Dức Chúa Trời. Chúa chúng ta đã được thường xuyên đầy dẫy Đức Thánh Linh trong suốt 30 năm trước khi Ngài chịu Báp têm. Trong Lu-ca 3:21,22 Chúa Jêsus được Báp têm bằng nước và Đức Thánh Linh ngự xuống trên Ngài. Trong Lu-ca 4:1 Chúa Jêsus được đầy dẫy Đức Thánh Linh và được dẫn ra đồng vắng chịu cám dỗ.
Trong Lu-ca 4:18 Chúa Jêsus nói về việc Ngài được xức dầu, Ngài đọc trong Ê-sai 61:1 "Thần Đức Giê-hô-va ngự trên Ta vì Ngài đã xức dầu cho Ta đặng giảng Tin lành." Lời tiên tri về việc xức dầu nầy tìm thấy ở Thi 45:7,8 "Chúa đã xức dầu cho Chúa bằng dầu vui vẻ trổi hơn đồng loại Chúa." "Các áo xống Ngài bay mùi thơm một dược." Sự xức dầu để ban quyền năng phục vụ nầy, được ban cho sau khi sự gan ác được thiêu đốt bởi lửa trong Ma-thi-ơ 3:11, và sự công bình của Đấng cứu thế được bày tỏ. Sự xức dầu nầy giống như một kết quả trực tiếp của chúng ta khi đầu phục Chúa và đầy dẫy Đức Thánh Linh.
Chỉ có một sự xức dầu Công 1:8, II Cô-rinh-tô 1:21,22, Giăng 2:20, 27, Công 4:31. Sự xức dầu của Đức Thánh Linh chỉ nhận được bằng Đức tin. Giăng 7:37-39, Giăng 4:14.
KẾT LUẬN:
Ngợi khen Đức Chúa Trời về công tác diệu kỳ của Đức Thánh Linh.
LỜI GIỚI THIỆU:
Tác giả của Kinh Thánh là Đức Thánh Linh, nội dung của Kinh Thánh là sự khải thị đầy uy quyền bằng văn tự về bản tính và mục đích của Đức Chúa Trời. Kinh Thánh là sách căn bản để chúng ta biết về Đức Chúa Trời, là sách giáo khoa về các chân lý Thiên thượng, là sách chỉ nam cho sự sống đời đời.
Chữ Kinh Thánh "Bible" được xuất xứ từ tiếng Hy-lạp "biblos" nghĩa là "một cuốn sách." Danh từ Kinh Thánh được diễn tả bằng các từ liệu khác như: sách Thánh, Lời của Đức Chúa Trời. Lu-ca 4:17, II Cô-rinh-tô 3:14, Mác 12:10, Ma-thi-ơ 22:29, Hê-bơ-rơ 4:12. Kinh Thánh là thư viện gồm 66 sách, chia làm hai phần chính: Cựu ước 39 sách và Tân ước gồm 27 sách. Kinh Thánh được viết bởi 36-40 người, trải qua thời gian 1600 năm, vối các thành phần nhân sự khác nhau ở các vùng khác nhau trên thế giới.
Sự hiệp nhất của Kinh Thánh là bằng cớ tốt đẹp nhất về sự linh cảm thiêng liêng của Kinh Thánh. Rất nhiều người viết chung một quyển sách, thế mà không hề mâu thuẫn hau là cả một phép lạ. Phép lạ này chỉ có thể giải thích bằng một bàn tay điều khiển chung của một tác giả bậc thầy cao cả.
Chủ đề của Thánh Linh là Đấng Christ. Cựu ước nguyên văn viết bằng tiếng Hy-bá-lai với một phần sách Đa-ni-ên và E-xơ-ra viết bằng tiếng A-ram, còn Tân ước viết bằng tiếng Hy-lạp.
I. Ý NGHĨA CỦA SỰ LINH CẢM.
"Sự linh cảm có nghĩa là sự kiểm soát siêu nhiên của Đức Chúa Trời trên việc sáng tác Cựu ước và Tân ước." (Robert Lee).
Kinh Thánh được Đức Thánh Linh hà hơi "theo pneustos "2 Ti-mô-thê 3:16 "Cả Kinh-thánh đều là bởi Đức Chúa Trời soi dẫn...."
" Sự linh cảm là sự hà hơi mạnh mẽ có ý thức của Đức Chúa Trời vào con người giúp họ nói ra Lẽ thật. Đó chính là Đức Chúa Trời nói qua con người" (Williams Evans)
2 Phi-e-rơ 1:21 "Vì không có lời tiên tri nào là bởi ý một người nào mà ra, nhưng chính Chúa Thánh Linh đã cảm ứng họ nói ra lời của Thượng Đế." Đức Thánh Linh đã hiện diện cách lạ lùng, bảo đảm sự chính xác của các bản văn. Các thánh nhân của Đức Chúa Trời được Đức Thánh linh che phủ, đã viết theo mạng lịnh của Ngài nhờ đó, họ tránh được các sự sai lầm khi ghi chép lại những điều họ biết hay không biết.
II. CÁC LÝ THUYẾT KHÁC NHAU VỀ SỰ LINH CẢM.
Chúng ta tò mò muốn biết chính xác làm thể nào Thánh Linh Đức Chúa Trời ban Thánh kinh. Một số tác giả ghi chép lại lịch sử mà họ chứng kiến, một số khác ghi chép lại những việc đã xảy ra rất lâu trong quá khứ (Môi-se và sự sáng tạo), một số những người khác viết lời tiên tri.
A. Sự khải thị: Một số người nghĩ rằng các tác giả có sự hiện thấy khi xuất thần và chỉ ghi chép lại từng chữ, từng tiếng phần Thánh kinh mà Chúa đã khải thị cho họ. Chúng ta thừa nhận rằng nhiều tác giả đã viết lời tiên tri, nhưng chúng ta không thừa nhận lý thuyết nầy về sự linh cảm, vì nó không cho phép các người viết quyền lựa chọn các từ ngữ mà họ viết gì cả. Sự học thức và trí óc lý luận của Phao-lô được thấy rõ ràng trong cả sách Rô-ma và sách Ga-la-ti.
B. Sự soi sáng: Đức Thánh Linh soi sáng cho người viết thấy những biến cố trong hình ảnh thuộc linh, và rồi họ viết xuống theo lời văn và cách viết của họ. Chúng ta tin rằng không phải chỉ những tư tưởng được linh cảm mà cả các từ ngữ cũng được linh cảm. Đức Chúa Trời cho cho phép người viết sử dụng kiến thức và từ ngữ riêng, bày tỏ nhân cách riêng của họ. Tuy nhiên, chúng ta không chấp nhận lý thuyết này vì không diễn tả đầy đủ ý nghĩa sự linh cảm của Thánh kinh không chỉ là kết quả những suy tư của con người về Đức Chúa Trời, nhưng chính Đức Chúa Trời còn hà hơi vào con người để họ ghi chép lại các tư tưởng của Đức Chúa Trời nữa.
C. Đọc chính tả: Đức Chúa Trời đọc Kinh thánh cho người ta viết ra giấy, như một viên chức đọc diễn văn cho người thư ký đánh máy. Lý thuyết này giảm thiểu ý nghĩa của sự linh cảm xuống chỉ còn là công việc quá máy móc. Chúng ta không chấp nhận lý thuyết này vì các nhân vật như: Đa-vít, Môi-se và Phi-e-rơ đều biểu hiện cá tính rõ ràng của họ trong bản văn họ viết. Lu-ca là bác sĩ đã dùng các thuật ngữ y khoa trong Lu-ca 8:44 (huyết cầm lại), Đa-vít là người chăn chiên đã viết về các con chiên, các dụng cụ của người chăn chiên cách chính xác. (cây trượng, cây gậy, trành ném đá...).
D. Sự linh cảm tự nhiên: Lý thuyết này ca ngợi thiên tài của con người, và phủ nhận yếu tố siêu nhân, mầu nhiệm và đặc biệt trong sự linh cảm. Điều này giảm giá của Thánh kinh xuống thành các tác phẩm đặc biệt như các tác phẩm của Shakkespeare, Milton, Khổng tử hay Jose Rizal. Sự linh cảm còn hơn thế nữa, đó thực sự là "lời Đức Chúa Trời phán." Chúng ta phủ nhận lý thuyết này vì nó chủ trương "Kinh thánh có chứa lời Đức Chúa Trời" trong khi chúng ta tin Kinh thánh là lời Đức Chúa Trời.
E. Sự linh cảm phổ biến cho các tín hữu: Chúng ta đều là con cái của Đức Chúa Trời, từng hồi từng lúc chúng ta được Chúa cảm ứng viết nên một cuốn sách hay một bài thơ, hoặc cảm ứng làm điều nầy, điều khác. Nếu lý thuyết nầy đúng thì chúng ta có thể trông đợi một cuốn Kinh thánh mới, vào bất kỳ lúc nào. Sự linh cảm Kinh thánh còn hơn thế nữa, đó là sự linh cảm đặc biệt, xác định cho công tác đặc biệt là viết Thánh kinh, sứ điệp của Đức Chúa Trời dành cho loài người mà thôi.
F. Sự linh cảm có tính máy móc: Con người trở thành những cái máy và chép lại dưới sự cảm thúc lạ lùng về những điều mà cả chính họ không hiểu được. Chúng ta chối bỏ lý thuyết này, vì chúng ta thấy rõ bản tính yêu thương của sứ đồ Giăng trong các thơ tín của ông, bản tính nghiêm nghị của Gia-cơ, bản tính nóng nảy của Phi-e-rơ trong các thơ tín của ông.
G. Sự linh cảm tư tưởng: Lý thuyết này nói rằng Đức Chúa Trời ban cho người viết tư tưởng chính, và rồi họ được tự do diễn tả những tư tưởng đó theo ngôn ngữ mà họ nghĩ là tốt nhất. Chúng ta từ khước lý thuyết này, vì chúng ta tin rằng mỗi lời, mỗi chữ đều được phê chuẩn, chấp nhận bởi tác giả tối cao là Đức Chúa Trời.
H. Linh cảm từng lời, từng dấu chấm phết: Lý thuyết này cho rằng mỗi một chữ đều được linh cảm, một số khác còn đi xa hơn cho rằng từ dấu chấm, phết trong Kinh thánh cũng đều được Đức Chúa Trời linh cảm. Rõ ràng việc này không đúng vì trong nguyên văn không có chữ hoa và không có dấu ngắt câu.
I. Linh cảm từng phần: Một số phần trong Kinh thánh được linh cảm, ngụ ý rằng Kinh thánh chứa lời Đức Chúa Trời. Chúng ta khước từ lý thuyết này vì II Ti-mô-thê 3:16 nói rằng "Cả Kinh thánh đều bởi Đức Chúa Trời soi dẫn." Lý thuyết này để cho mọi người được tự do lựa chọn và phê phán "phần nào được linh cảm" phần nào không, khiến cho người đọc hoang mang, bất định và hoàn toàn bối rối, không thể chấp nhận được.
III. SỰ GIẢI THÍCH ĐÚNG ĐẮN: SỰ LINH CẢM ĐẦY TRỌN.
Chúng ta tin rằng cả Kinh thánh đều được linh cảm đầy đủ như nhau, căn cứ trên lời tự chứng của II Ti-mô-thê 3:16, không có phần nào là không được linh cảm. Chúng ta không biết rõ sự linh cảm như thế nào, nhưng chúng ta tin rằng mỗi người viết Kinh thánh đều được tự do sử dụng nhân cách, sự học thức, kinh nghiệm của mình với một số những giới hạn nào đó. Đức Thánh Linh kiểm soát, canh giữ mỗi tư tưởng, mỗi câu,mỗi lời để bảo đảm cho lời Chúa được chính xác, không sai lầm.
IV. KINH THÁNH TỰ CHỨNG LÀ ĐƯỢC LINH CẢM.
1. Cho các người viết: 2 Phi-e-rơ 1:21.
2. Cho các tác phẩm: II Ti-mô-thê 3:16.
3. Cho các lời, các chữ: I Cô-rinh-tô 2:13, 2 Phi-e-rơ 3:2, Giu-đe 17.
V.NHỮNG ĐIỀU CẦN NHỚ LIÊN QUAN ĐẾN SỰ LINH CẢM.
Các bản dịch không được linh cảm. Các bản chép tay có thể sai sót. Không một nguyên bản nào còn lại cho đến ngày nay, nhưng các bản chép tay cổ đã khám phá được thì rất giống nhau.
Kinh thánh ghi lại đúng các sự kiện đã xảy ra: chẳng hạn A-na-nia nói dối, và lời nói dối đó được ghi chép lại: hoặc các thầy thông giáo nói rằng Chúa Jêsus bị quỷ ám, bị điên và lời nói dối nầy cũng được chép lại y như vậy.
KẾT LUẬN:
Chúng ta chấp nhận Kinh thánh là Lời vô ngộ của Đức Chúa Trời, Kinh điển 66 sách là hoàn tất, đầy đủ,chúng ta Không thừa nhận cách ngụy kinh và các sách nào khác được linh cảm.
Kinh thánh nguyên bản sẽ là tiêu biểu phán xét trong ngày cuối cùng Giăng 12:48. Chúng ta hãy đọc Kinh thánh mỗi ngày, và vâng theo sứ điệp Thánh Kinh trong cuộc sống hằng ngày.
Dân sự Chúa phải gìn giữ Kinh Thánh cẩn thận và sử dụng cách kính trọng, vì đây là sách của Đức Chúa Trời dành cho chúng ta. Chúng ta hãy vui mừng phấn khởi vì Đức Chúa Trời đã phán, và chúng ta hãy cố gắng nhờ quyền năng của Đức Thánh Linh, bước đi trong ánh sáng sự khải thị của Kinh thánh.
Ngoài Đấng Christ và Đức Thánh Linh thì Kinh thánh là món quà thứ ba vĩ đại nhất mà Đức Chúa Trời dành cho con người.
Sir Walter Scott, là tác giả của nhiều cuốn sách và là người có cả một thư viện sách đã nói "Chỉ có một cuốn sách là Thánh Kinh."
Kinh thánh là sách cổ nhất tồn tại trên thế giới. Kinh thánh phải dùng đến 16 thế kỷ để viết, người viết đầu tiên đã chết 1450 năm trước khi người viết cuối cùng ra đời. Kinh thánh được dịch ra toàn bộ hay từng sách, từng phần nhiều nhất trên thế giới. (1787 thứ tiếng).
I. BẢY ĐIỀU LẠ LÙNG VỀ KINH THÁNH.
(Theo Mục Sư. Dyson Hague)
1. Kinh thánh lạ lùng trong sự cấu tạo, một sách viết nơi này bằng thứ ngôn ngữ này, một sách khác được viết nhiều thế kỷ sau bằng thứ tiếng khác.
2. Kinh thánh lạ lùng trong sự hiệp nhất: Đây là thư viện gồm 66 sách, nhưng hợp lại chỉ là một sách vì chỉ có một tác giả là Đức Chúa Trời. Không hề có sự mâu thuẫn nhau.
3. Kinh thánh lạ lùng về tuổi tác: Kinh thánh là sách xưa nhất trong tất cả các sách.
4. Kinh thánh lạ lùng trong sự xuất bản: Kinh thánh là sách bán chạy nhất khắp mọi thời đại.
5. Kinh thánh lạ lùng về sự hấp dẫn: Đây là sách duy nhất được mọi người thuộc mọi thành phần nhân loại đọc đến, không phân biệt tuổi tác, trình độ, tầng lớp, dân tộc, phái tính.
6. Kinh thánh lạ lùng về giá trị văn chương: Kinh thánh phần lớn được viết bởi những những người ít học nhưng được xem là tuyệt tác văn chương.
7. Kinh thánh lạ lùng về sự bảo tồn: Kinh thánh bị ghen ghét hơn tất cả mọi sách các vua, các chính phủ nhiều thời đại đã lần lượt đốt Kinh thánh, thủ tiêu Kinh thánh, mãi cho đến ngày nay vẫn còn tồn tại khắp nơi.
II. BẢY BIỂU TƯỢNG CHỈ VỀ LỜI CHÚA.
1. Gươm: Kinh thánh là lời cáo trách đâm thấu lòng người nghe Hê-bơ-rơ 4:12.
2. Búa: Kinh thánh có quyền đập vỡ sự kháng cự của người nghe Giê-rê-mi 23:29.
3. Hạt giống: Kinh thánh là lời sống tái tạo người nghe I Phi-e-rơ 1:23.
4. Tấm gương: Kinh thánh là lời chân thật, phản ảnh, bày tỏ lòng từng cá nhân đọc Kinh thánh Gia-cơ 1:23 -25.
5. Lửa: Kinh thánh là lời thiêu đốt tiêu tan cặn bã người nghe Giê-rê-mi 23:29, 20:9.
6. Đèn: Kinh thánh là ngọn đèn soi sáng hướng dẫn người tin mỗi ngày Thi 119:105.
7. Lương thực: Kinh thánh là thức ăn nuôi linh hồn I Phi-e-rơ 2:2, Hê-bơ-rơ 5:12 -14, I Cô-rinh-tô 3:2, Rô-ma 10:17.
III. BẢY LÝ DO RAO GIẢNG LỜI CHÚA.
Trong Mác 2:2 Chúa Jêsus đối diện đám đông và Ngài đã lựa chọn việc giảng Tin lành cho lời Đức Chúa Trời cho họ. Chúng ta được sai đi không phải để giảng về một Hội thánh mới, nhưng là về Đấng Christ đã được khải thị trong Kinh thánh. Chúng ta cần nhấn mạnh đến việc giảng Kinh thánh, vì Kinh thánh tồn tại cho đến đời đời.
Ê-sai 40:8 "Cỏ khô, hoa rụng nhưng Lời Chúa còn lại đời đời."
1. Sự cáo trách tội lỗi xảy đền qua việc giảng Lời Đức Chúa Trời. Công 2:14 -37 bài giảng vào ngày lễ ngũ tuần của Phi-e-rơ, có 9 câu trong số 23 câu là lời trích từ Thánh kinh cựu ước.
2. Đức tin đến bởi việc nghe lời Chúa, Rom 10:17 "Đức tin đến bởi sự người ta nghe Lời Đức Chúa Trời."
3. Sự tẩy sạch đến từ Lời Chúa II Cô-rinh-tô 7:1.
4. Sự bảo đảm chắc chắn của đức tin nhờ Lời Chúa I Giăng 5:13.
5. Sự an ủi đến từ Lời Chúa I Tê-sa-lô-ni-ca 4:18.
6. Lẽ thật đến từ Lời Chúa Công 17:11.
7. Sự tái sanh đến từ Lời Chúa I Phi-e-rơ 1:23.
IV. BẢY LÝ DO TẠI SAO MỘT SỐ NGƯỜI KHÔNG ĐỌC LỜI CHÚA.
(Giê-rê-mi 15:16)
1. Không biết Lẽ thật, sự thành hình và giá trị của Kinh thánh.
2. Đã ăn nuốt quá nhiều tro tàn (Ê-sai 44:20) về các sách trần gian.
3. Bệnh tật, linh hồn bị bịnh tội lỗi không ham thích Lời Chúa.
4. Ăn vặt quá nhiều giữa các bữa ăn chính, sống trong những điều vô bổ cho cuộc sống.
5. Kinh thánh thiếu mùi vị cho một số người: thương mại, thể thao, giáo dục chiếm hàng đầu.
6. Kinh thánh quá ngọt ngào: Khải 10:8-10, một số người cho rằng Kinh thánh chỉ dành cho người đau, người già, người sắp chết, Kinh thánh quá ngọt ngào, quá yếu đuối, quá ủy mị, cho người khỏe mạnh, thực tế.
7. Kinh thánh quá đắng: Khải 10:8-10 ngay sau khi ăn xong Kinh thánh trở nên đắng trong lòng. Các Lẽ thật về sự phán xét, về địa ngục và tội lỗi đều là những điều cay đắng khiến một số người sợ đọc.
Chúng ta hãy cùng nói với Giê-rê-mi trong 15:16 "Tôi vừa nghe những lời Ngài thì thì đã ăn lấy rồi, lời Ngài là sự vui mừng hớn hở của lòng tôi vậy.
V. BẢY ĐIỂM CẦN NHỚ KHI ĐỌC KINH THÁNH.
1. Đọc cách yêu mến: Kinh thánh là lời của Chúa Cứu Thế nói với tôi Thi 119:11.
2. Đọc cách kỉnh kiền: Kinh thánh là lời Đức Chúa Trời, Đấng Toàn năng, quan án tối cao.
3. Đọc cách cầu nguyện: Kinh thánh là sứ điệp Đức Chúa Trời dành cho tôi.
4. Đọc cách suy gẫm.
5. Đọc cách có hệ thống.
6. Đọc cách vâng phục, làm theo.
7. Đọc cách đều đặn, mỗi ngày.
KẾT LUẬN:
Hãy khiến Kinh thánh thành người hướng dẫn và người bạn trong cuộc đời bạn. Kinh thánh là Lời Đức Chúa Trời, đáng tin. Hãy cầu xin Đức Thánh Linh giúp bạn hiểu sứ điệp của Kinh Thánh. Lời Đức Chúa Trời nếu ta khước từ sẽ thành quan tòa xét xử ta trong ngày cuối cùng Giăng 12:48.
Xin Chúa dạy tôi gìn giữ Lời Chúa, binh vực Lời Chúa khi cần và dạn dĩ giảng rao lời Chúa.
LỜI GIỚI THIỆU:
Kinh thánh không phải có chứa Lời Đức Chúa Trời nhưng Kinh thánh là Lời Đức Chúa Trời.
Nếu Kinh thánh chỉ là cuốn sách thường của loài người, là chúng ta phải mong ước cuốn sách khác ngay. Nếu Kinh thánh chỉ là cuốn sách thường của loài người, tại sao con người thấy khó nắm vững và hiểu biết hết nội dung của Kinh thánh? Lý do con người từ khước sự linh cảm đầy trọn của Kinh thánh là do vấn đề tội lỗi, và do sự giảm thiểu tầm quan trọng cũng như hậu quả và kết cuộc của tội lỗi.
Kinh thánh chứa đựng những Lẽ thật kín giấu cho loài người trải qua nhiều thời đại, và hiện nay đã được phơi bày; Ê-phê-sô 3:5 sự khải thị dành cho các tiên tri hầu như độc lập với trí hiểu của họ; (I Phi-e-rơ 1:10 -12) khi họ rao giảng và ghi chép các sự kiện đã được bày tỏ cho họ không một lời tiên tri nào là do vị tiên tri tự ý nói ra 2 Phi-e-rơ 1:21. Đa-vít tự nhận lời mình nói ra đã được linh cảm 2 Sa-mu-ên 23:2. Các tác phẩm của các sứ đồ và các tiên tri đều là Lời của Đức Chúa Trời, 2 Phi-e-rơ 1:21, cả Kinh thánh đều là vàng ròng không pha II Ti-mô-thê 3:16. Nê-hê-mi chấp nhận lời của các tiên tri như lời của Đức Chúa Trời Nê-hê-mi 9:13,30. Chúa Jêsus trong Ma-thi-ơ 22:31,32 đã trưng dẫn Kinh thánh như là lời thật của Đức Chúa Trời dành cho loài người.
Trong Cựu ước có 2600 lần các tiên tri nhấn mạnh lời của họ là lời của Đức Chúa Trời, trong Tân ước sự xác định tương tự cũng xảy ra 525 lần.
I. UY QUYỀN CỦA KINH THÁNH.
Trong một ít thế hệ trước đây, Kinh thánh được nhấn mạnh như là Lời đầy uy quyền của Đức Chúa Trời. Điều đáng buồn là sự kiện này không còn kéo dài lâu hơn nữa, con người ngày nay cho rằng mình thông minh, văn minh, tiến bộ hơn đến nỗi thách thức uy quyền của Kinh thánh. Chúng ta đang sống trong một thời đại vô luật pháp khi con người chống nghịch lại uy quyền của Kinh thánh trong mọi phương diện của cuộc sống như tôn giáo, chính trị và tri thức. Qua sự sáng tạo con người được dựng nên để thèm khát uy quyền và để thờ phượng Đấng tối cao.
Ngày nay, nhiều người ngưỡng mộ Kinh thánh, cho đó là cuốn sách kỳ diệu, nhưng lại khước từ uy quyền của Kinh thánh. Ngay cả những nhà vô thần cũng ca ngợi Kinh thánh như là tuyệt tác văn chương không thể so sánh được. Một số tín đồ Cơ Đốc thừa nhận Chúa Jêsus là uy quyền tối cao, nhưng lại khước từ uy quyền của Kinh thánh. Lập luận nầy không đứng vững được, vì Đấng Christ mà chúng ta thừa nhận là Đấng uy quyền cũng là Đấng Christ của Kinh thánh.
Những lý do mà một số người không chịu chấp nhận Kinh thánh là uy quyền tối hậu là:
1. Họ nghĩ rằng Kinh thánh và khoa học không phù hợp với nhau. Điều này đúng với một số lý thuyết khoa học chưa được chứng minh là đúng, nhưng những lý thuyết đã được chứng minh là đúng thì luôn luôn hòa hợp với Kinh thánh. (I Ti-mô-thê 6:20)
2. Họ nghĩ rằng Kinh thánh và khoa địa chất không phù hợp nhau. Nhà địa chất học Guyot xác nhận rằng địa chất học chân chính và Kinh thánh phù hợp nhau hoàn toàn.
3. Họ nghĩ rằng Kinh thánh và khoa học phổ thông không phù hợp nhau. Sir G.G. Stokes chủ tịch hội khoa học Hoàng gia (Royal Society) bác bỏ thẳng thừng điều này.
4. Họ nghĩ rằng kinh thánh và khoa vật lý không phù hợp nhau. Nhà vật lý Radar, một nhà khoa học nổi tiếng người Mỹ bác bỏ sai lầm này.
5. Một số nghĩ rằng Kinh thánh và khoa học địa lý không phù hợp nhau. Tấn sĩ Christie một nhà địa lý nổi danh tuyên bố răng không có một sự sai lầm nào về địa lý trong Kinh thánh.
6. Một số người nghĩ rằng Giáo hội là uy quyền tối cao chứ không phải là Kinh thánh. Hội thánh có trước Tân ước chứ không có trước Cựu ước, Lời Đức Chúa Trời vô ngộ có trước và vô cùng chính xác hơn Giáo hội.
7. Có lẽ lý do thực tế là sự hững hờ đối với Kinh thánh giống như thái độ bất cần, không màng đến như thái độ của quan trấn thủ Galion xứ Achai (Công 18:17).
II. SỰ TỐI THƯỢNG CỦA KINH THÁNH.
Đây là sách tối thượng vượt lên cao hơn tất cả các sách được viết ra trên thế gian nầy. Đây là sách duy nhất mà trong giờ thử thách và trong phút lâm chung người ta tìm đến. Đây là sách tối thượng vì nó có câu trả lời cho mọi vấn đề sự sống và sự chết. Đây là sách cổ xưa nhất, ảnh hưởng tốt trên các dân tộc và loài người, không thể tính biết được. Đây là sách trong sáng nhất không hề pha lẫn huyền thoại hay sự tưởng tượng mơ hồ nào. Đây là Lời hằng sống của Đức Chúa Trời dành cho nhân loại.
III. MỘT SỐ ĐIỀU DƯỜNG NHƯ MÂU THUẪN TRONG KINH THÁNH.
1. Giăng 1:8 "Chưa hề có ai thấy Đức Chúa Trời bao giờ" - Xuất 24:10 "và họ thấy Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên." Thật ra, cả hai câu trên đều đúng. Họ không thể thấy Đức Chúa Trời vì Ngài là Thần Linh nhưng họ thấy sự phản chiếu của Ngài. Khi tôi nhìn vào tấm gương, tôi thấy sự phản chiếu gương mặt của tôi, nhưng tôi không bao giờ thấy mặt tôi như người khác thấy.
2. Dân số 25:9 chép 24.000 người chết vì bệnh dịch - I Cô-rinh-tô 10:8 lại chép 23.000 người chết trong một ngày. Câu trả lời là 23.000 người ngã chết trong một ngày, còn 24.000 người là tổng số người chết trong trận dịch.
3. II Sa-mu-ên 24:24 Đa-vít đã trả 50 siếc-lơ bạc để mua sân đạp lúa - 1 Sử 21:25 lại ghi 600 xiếc-lơ vàng. Câu trả lời: Lúc đầu Đa-vít mua sân đạp lúa mất 50 xiếc-lơ bạc và sau đó Vua đã mua hết cả sản nghiệp với giá 600 xiếc-lơ vàng.
4. I Ti-mô-thê 6:16 Đức Chúa Trời ngự trong ánh sáng - 1 Vua 8:12 Đức Chúa Trời ngự trong tối tăm mờ mịt. Câu trả lời: cả hai câu đều đúng vì Đức Chúa Trời là Đấng vô sở bất tại.
5. Ê-sai 40:28 Đức Chúa Trời không bao giờ mệt, không bao giờ cần nghỉ ngơi - Xuất 31:17 Đức Chúa Trời đã dựng nên thế giới trong 6 ngày và Ngài nghĩ lấy sức lại trong ngày thứ 7. Câu này không có ý nói Đức Chúa Trời nghĩ vì Ngài mệt, Đức Chúa Trời không hề mệt mỏi. Đức Chúa Trời nghĩ ngày thứ 7 để đánh giá cao công trình của Ngài.
6. Giăng 13:27 Sa-tan nhập vào Giu-đa Ích-ca-ri-ốt trong lễ tiệc thánh. - Lu-ca 22:3,47 rõ ràng Sa-tan nhập vào Giu-đa trước lễ tiệc thánh. Câu trả lời: Sa-tan nhập vào Giu-đa 2 lần, lần sau hoàn toàn hơn lần trước.
7. Công 1:1-12 Chúa Jêsus thăng thiên từ núi Ô-li-ve - Lu-ca 24:50 -51 Chúa Jêsus, thăng thiên từ Bê-tha-ni. Câu trả lời: cả hai câu đều đúng vì Bê-tha-ni là một nơi bên sườn núi Ô-li-ve.
8. Công 9:7 Các bạn đồng hành của Phao-lô nghe tiếng - Công 22:9, 26:14. Các bạn đồng hành của Phao-lô không nghe tiếng. Câu trả lời: Các bạn đồng hành chỉ nghe một tiếng như tiếng sấm chứ không hiểu tiếng đó nói chi.
9. 1 Vua 6 ghi lại thời kỳ giữa lúc xuất Ai-cập và lúc khởi sự xây cất đền thờ là 480 năm, thực ra theo lịch sử thì đến 573 năm. Câu trả lời: Sự khác nhau của 93 năm là đúng khớp với thời gian lưu đày trong thời kỳ các Quan xét, và không được tính vào trong lịch sử Do-thái. Những năm xa cách Đức Chúa Trời kể như những năm mất, phí và không được Chúa kề đến.
10. I Sa-mu-ên 6:19 nói rằng Đức Chúa Trời giết 50.070 người nhìn vào hòm Giao ước Sử gia Josephus thì nói rằng chỉ có 70 người bị giết mà thôi. Có lẽ là cả hai đều đúng, Đức Chúa Trời có lẽ giết ngay tại chỗ 70 người và thêm 50 ngàn người sau đó, hay là tổng số người bị giết trong biến cố đó là 50070 người.
11. Lu-ca 18:35,43 Jêsus chữa lành một người mù khi họ đến gần Giê-ri-cô - Mác 10:46,52 Jêsus chữa lành một người khi họ ra khỏi Giê-ri-cô - Ma-thi-ơ 20:19 -34 Jêsus đã chữa lành hai người không tên tuổi khoảng cách xa Giê-ri-cô. Đây là 3 trường hợp khác biệt nhau, riêng rẽ chứ không phải 3 bản báo cáo về một câu chuyện.
12. Những điều dường như mâu thuẫn khác đều dễ trả lời vì Kinh thánh không hề sai lầm.
IV. SỰ ĐÁNG TIN CỦA KINH THÁNH.
Làm sao bạn biết Kinh thánh là đáng tin? Làm sao bạn biết các tác giả dự kiến đó thực sự là người chép sách? Kinh thánh có đáng tin không?
Vâng Không một nguyên bản nào của Kinh thánh còn lại cho đến ngày nay Có lẽ Chúa ngăn ngừa không để người ta thờ lạy Kinh thánh. Những bản cổ xưa nhất còn đến ngày nay là:
1) Bản Vatican ở Rô-ma, thế kỷ IV.
2) Bản Sinaitic ở Leningrad Liên-xô, thế kỷ IV.
3) Bản Alexandrian ở Luân-đôn thế kỷ V.
Chúng ta thừa nhận Kinh thánh là đáng tin vì đã được Hội thánh thừa nhận là có uy quyền từ năm 180 SC. Các bằng cớ bên ngoài của sự thừa nhận đó có thể thu thập được từ thời các sứ đồ, các giáo phụ.
Ngay cả những nhà tà giáo, và bội Đạo cũng không buộc lòng phải thừa nhận sự hoàn toàn đáng tin của Kinh thánh. Những nhân vật nổi danh trong số này là Basilides, Caprocate, Celsus, Porphyry và những người khác. Một cuộc khảo xét 4.000 bản Kinh thánh cổ đang còn trên thế giới, đã xác định tính chất đáng tin của Kinh thánh.
Chúng ta tin rằng Kinh thánh hoàn toàn đáng tin.
KẾT LUẬN:
Chúng ta đừng thờ Kinh thánh, nhưng hãy đọc Kinh thánh, tin Kinh thánh, và vâng lời Kinh thánh.
LỜI GIỚI THIỆU:
Chúng ta tin rằng Đức Chúa Trời là Đấng Tạo hóa muôn loài vạn vật.
Một số các giáo sư Thánh Kinh làm sáng tỏ đề tài này, vì sự đấu tranh cay đắng giữa các lý thuyết tiến hóa và cái gọi là Khoa học. I Ti-mô-thê 6:20.
Chúng ta vui mừng nhận lấy chỗ đứng của mình cùng với sứ đồ Giăng trong Khải 4:11 "Lạy Đức Chúa Trời là Chúa chúng tôi, Chúa đáng được vinh hiển, tôn quý và quyền lực, vì Chúa đã dựng nên muôn vật và ấy là ý muốn Chúa mà muôn vật mới có và đã được dựng nên."
Thật vậy, có nhiều điều chúng ta không hiểu hết, nhưng điều đó không ảnh hưởng đến quyết định hay niềm tin chúng ta về Đức Chúa Trời là Đấng tạo hóa.
I. TÁC GIẢ SÁNG THẾ KÝ VÀ CÂU CHUYỆN SÁNG TẠO.
Sáng 1:1 "Ban đầu Đức Chúa Trời dựng nên trời đất." Chúng ta câu đầu và các câu kế tiếp của Kinh thánh như là lời vô ngộ, và được linh cảm của Đức Chúa Trời.
Ai đã viết sách Sáng thế ký? Tác giả có mặt lúc sáng tạo không? Ai cho ông ta những chi tiết đó?
Chúng ta tin rằng Môi-se đã viết sách nầy và thật ra ông đã viết cả 5 sách đầu của Kinh thánh. Sách Sáng thế ký được thừa nhận là Lời của Đức Chúa Trời, và đã được trích dẫn hơn 60 lần trong các sách khác nhau của Tân ước. Trong Ma-thi-ơ 19:4 -6 Chúa Jêsus ngụ ý đến lúc ban đầu và sự sáng tạo nên A-đam, Ê-va.
Trong Ma-thi-ơ 24:37 -39 Chúa Jêsus nhắc đến các chi tiết về nước lụt.
Đức Chúa Trời ban câu chuyện sáng tạo cho Môi-se biết như là sự khải thị về lịch sử đã qua. Khi Dức Chúa Trời có khả năng biết rõ tương lai, Ngài cũng có thể bày tỏ chính xác lịch sử trong quá khứ. (Có lẽ Chúa quay lại cho Môi-se xem hay nghe về cuốn băng quá khứ đó). Chúng ta ngưỡng mộ vẻ đẹp, sự hợp lý và sự đơn giản của câu chuyện sáng tạo, đặc biệt là nó khác hẳn với những câu chuyện hiện có do con người đặt ra.
Đấng Christ phục sinh cũng đã dạy cho các môn đồ trên đường về làng Em-ma-út từ ban đầu và Lu-ca 24:27 nói rằng Ngài đã bắt đầu từ Môi-se, xem Lu-ca 24:44.
II. MỤC ĐÍCH CÂU CHUYỆN SÁNG TẠO TRONG SÁNG THẾ KÝ.
Một số người chỉ thấy khó khăn,sự mâu thuẫn, sự rắc rối về khoa học ở đây. Còn bạn thì thấy gì? Tôi thấy Đức Chúa Trời bày tỏ chính mình Ngài như là Đấng sáng tạo quyền oai. Chúng ta thấy Ngài như là Đức Chúa trời của trật tự, của hợp lý, của lý trí và của kế hoạch.
Mục đích của Sáng thế ký không phải là trả lời tất cả những câu hỏi của loài người. Mục đích của Sáng thế ký cũng không khiến chúng ta trở thành các nhà Thiên văn học hay Địa chất học.
Mục đích của Sáng thế ký là dẫn chúng ta đến sự thờ phượng chính mình Đức Chúa Trời.
III. NGÀY SÁNG TẠO.
Đây là chỗ các cuộc tranh luận nổi lên kịch liệt giữa các nhà giải kinh và các nhà tiến hóa. Các khoa học gia chủ trương từ việc nghiên cứu Địa chất học cho rằng quả đất có từ vài triệu năm rồi, và một số khác cho là chỉ 6.000 năm thôi. Có lẽ cả hai đều đúng và sự hiểu lầm đã nổi lên vì không biết rõ thời gian lâu dài giữa khoảng Sáng 1:1 và Sáng 1:3. Con số 6.000 năm có lẽ là phù hợp với khoảng thời gian hiện diện của con người trên mặt đất. Sáng 1:1 đề cập đến một thời đại rất xa xưa, có lẽ hằng triệu năm về trước, chúng ta không biết rõ lúc khởi đầu sáng tạo của quả đất.
Lý trí đòi hỏi bất cứ việc gì Đức Chúa Trời sáng tạo cũng phải là hoàn hảo (Sáng 1:10,12,18,21,25). Chúng ta cũng biết chắc rằng câu 2 không đề cập đến sự sáng tạo hoàn hảo ban đầu, nhưng là mô tả sự hư hoại của thế gian sau một biến cố địa chất kinh khủng nào đó sau cuộc sáng tạo ban đầu. Sáng 1:2 ám chỉ một việc kinh khủng đã xảy ra, một Thiên tai, một sự hình phạt kinh khủng, làm "vô hình và trống không" sự mờ tối mô tả tình trạng khủng khiếp. Chúng ta tin rằng các biến cố của Ê-xê-chi-ên 28:12 -15 và Ê-sai 14:9 -14 trùng hợp với thời gian này. Các khúc sách này mô tả sự sa ngã của Sa-tan vốn xảy ra trước câu chuyện Sáng 3:1 -7.
Từ Sáng 1:3 chúng ta có câu chuyện về sự tái bắt đầu mới mẻ của thế giới. Giê-rê-mi 4:23-26 mô tả nhiều chi tiết hơn điều kiện trong Sáng 1:2.
IV. CÁC SỰ KIỆN ỦNG HỘ CHO BẢN VĂN KINH THÁNH VỀ SỰ SÁNG TẠO.
1. Bản văn Thánh kinh của tất cả các sách Thánh đều tuyên bố rằng chỉ có một Đức Chúa Trời, là Đấng dùng lời phán sáng tạo nên mọi sự.
2. Hãy để ý kế hoạch lạ lùng trong việc phân chia nước và đất liền, không khí và khoảng không. Nếu nước trong đại dương cao hơn một vài tấc thì phần lớn đất đai trên mặt đất sẽ chìm ngập (chẳng hạn sa mạc Sahara sẽ thành một cái hồ...). Hãy để ý đến nhiệt độ và sự bốc hơi nước có sự quân bình luôn. Không khí luôn luôn có tỷ lệ quân bình giữa Oxigen và Nitrogen (tỷ lệ 21 -79). Không có luật vật lý hay hóa học nào duy trì sự quân bình này được, hoàn toàn là do quyền năng sáng tạo của Đức Chúa Trời. Sự phong phú của các tạo vật, hàng trăm loài chim khác nhau, loài hoa khác nhau, loài thú khác nhau, loài cây cỏ, loài trái, loài cá, loài côn trùng khác nhau. Sự tiến hóa không thể nào tạo nên các tạo vật dường ấy.
3. Một sự nghiên cứu lịch sử về người thượng cổ cho thấy tính dã man và hung ác tự nhiên của loài người như đã nhắc đến trong Sáng thế ký là hậu quả của sự sa ngã. Một số bộ lạc sơ khai mới được khám phá sẽ chứng tỏ tình trạng suy đồi ấy. Các thú vật không hung dữ, tàn ác như con người. Con đực không bao giờ đối xử tàn ác với con cái, con vật không tiếp tục ăn thức ăn có hại cho bản thân nó, đây là dấu hiệu con người bị hư hoại. Sự tàn bạo là dấu hiệu của sự sa ngã.
V. SỰ SÁNG TẠO TIỆM TIẾN HAY LÀ SỰ TÁI XÂY DỰNG.
Kinh thánh nói đến 6 ngày sáng tạo, một số người cho rằng mỗi ngày là 1.000 năm theo 2 Phi-e-rơ 3:8. Tôi tin rằng những ngày này là 24 giờ (hoặc một thời kỳ).
o Ngày thứ I: Ban đêm với sự phân chia sáng tối, ngày đêm. Sáng 1:3 -5.
o Ngày thứ II: Bầu trời, phân chia không trung và nước. Sáng 1:6 -8.
o Ngày thứ III: Đất khô, sự phân chia đất và nước cỏ, cây. Sáng 1:9 -13.
o Ngày thứ IV: Mặt trời, mặt trăng, các ngôi sao, phân chia các vị cai trị ngày đêm Sáng 1:14 -19.
o Ngày thứ V: Sự sống cá, chim Sáng 1:20 -23.
o Ngày thứ VI: Các động vật, thú vật, loài bò sát, thú rừng và cuối cùng là con người. Sáng 1:24 -31.
"Và Đức Chúa Trời thấy việc Ngài làm là tốt lành" trở thành điệp khúc vang vọng mỗi ngày.
VI. CON NGƯỜI ĐƯỢC DỰNG NÊN THEO HÌNH ẢNH ĐỨC CHÚA TRỜI.
Hình ảnh nghĩa là cái bóng hay cái nét tương tự. "Trong sự sáng tạo hai chữ hình ảnh có nghĩa giống nhau." Tấn sĩ Wm. Evans.
I Cô-rinh-tô 11:7 "Đờn ông là hình ảnh và sự vinh hiển của Đức Chúa Trời nhưng đàn bà là sự vinh hiển của đàn ông." Sáng 1:26 "Chúng ta hãy làm nên loài người như hình Ta và theo tượng Ta."
1. Hình ảnh của Đức Chúa Trời không ngụ ý sự giống nhau về hình thể bên ngoài,vì Đức Chúa Trời là Đấng Thần Linh và Thần Linh thì không có các bộ phận và lòng dục như con người.
2. Theo Kinh thánh chúng ta biết rằng hình ảnh đó có nghĩa là sự hiểu biết, sự công bình và sự thánh khiết. Nó hàm ý giống về bản tánh đạo đức hơn là hình thề.Ê-phê-sô 4:24 "Mà phải làm nên mới trong tâm trí mình, và mặc lấy người mới là người đã được dựng nên giống như Đức Chúa Trời trong sự công bình và sự thánh sạch của Lẽ thật. " Cô-lô-se 3:10
"Mặc lấy người mới là người đang đổi ra mới theo hình tượng Đấng dựng nên người ấy."
KẾT LUẬN:
A-đam và Ê-va đã được dựng nên với trí thông minh vì A-đam đã đặt tên cho thú vật. Người chủ trương tiến hóa cho rằng cho rằng con người khởi sự từ chỗ dốt nát và phát triển dần. Con người được dựng nên với các phẩm giá đạo đức và thiêng liêng, có khả năng chống cự Sa-tan. Sự sáng tạo do Đức Chúa Trời mà đến được kể là tốt lành, vì không có điều xấu xa nào ra từ Đức Chúa Trời.
"Ban đầu Đức Chúa Trời dựng nên..." chúng ta hãy để Chúa đứng đầu trong mọi sự khởi đầu của chúng ta.
Chúng ta hãy thừa nhận Đấng tạo hóa của chúng ta về quyền năng, uy lực, trật tự và phương pháp của Ngài. Chúng ta hãy đến gần Chúa trong sự kính sợ và tôn thờ. Gia-cơ 4:8.
LỜI GIỚI THIỆU:
Trong bài học trước chúng ta học câu chuyện Kinh thánh về sự sáng tạo. Tiếc thay, điều nầy không được nhiều viện Đại học ngày nay chấp nhận. Sự tiến hóa không chỉ được dạy dỗ như là một lý thuyết khả dĩ, nhưng đã được dạy như là một sự kiện. Maynard Shipley, đứng đầu Liên đoàn Khoa học Mỹ nói: "Các Khoa học gia trên khắp thế giới chấp nhận lý thuyết tổng quát về sự tiến hóa như là điều chắc chắn và không còn tranh cãi gì nữa, đồng thời xem tiến trình tiến hóa như là một sự kiện."
Linville, Kelley và Cleave trong sách Giáo khoa của họ cuốn "Động vật tổng quát" viết rằng: "Mọi nhà Khoa học ngày nay đều đồng ý sự tiến hóa là một sự kiện."
Là Cơ đốc nhân, chúng ta không nhất thiết phải chạy theo ý kiến đám đông, đám đông thường sai lầm, đám đông đóng đinh Chúa Jêsus, nhưng số ít người là đúng.
Chúng ta tin rằng Kinh thánh là đúng và tiến hóa là lý thuyết sai. Tiến sĩ Arthur I. Brown, nói rằng: "Tiến hóa (như là một lý thuyết) hoàn toàn sụp đổ vì gánh nặng vô lý cố hữu và sự không thể xảy ra được của nó."
I. ĐỊNH NGHĨA SỰ TIẾN HÓA.
Một định nghĩa tóm lược của Herbert Spencer, "Sự tiến hóa luôn luôn căn bản là sự hợp thành một thể thống nhất của vật chất và sự xua tan của chuyển động."
Một định nghĩa dài dòng hơn của tác giả trên là: "Tiến hóa là sự hợp thành một thể thống nhất của vật chất và sự xua tan của chuyển động xảy ra đồng thời, trong đó có vật chuyển động từ tính không rõ ràng mạch lạc đến tính hỗn tạp rõ ràng mạch lạc, và trong đó sự chuyển động vốn có lại trải qua một sự biến thể tương đương."Ông Spencer ngụ ý rằng tiến trình của thiên nhiên luôn luôn là sự đi từ đơn giản đến phức tạp, và từ phức tạp đến phức tạp hơn, ông nói rằng việc nầy là đúng với cả thực vật, động vật và loài người nữa. Tiến trình nầy là từ vật chất vô sinh tiến đến thực vật, động vật và rồi tới con người.
Tóm lại: Tiến hóa là sự phát triển dần đến các hình thức sự sống cao hơn từ các chặng thấp hơn của vật chất sống. Thuyết nầy tìm cách giải thích vũ trụ từ tình trạng mờ mịt ban đầu cho đến thế giới hiện nay.
II. CÁC LUẬN ĐIỆU CỦA TIẾN HÓA THUYẾT.
o Nó không giải thích được căn nguyên của nguyên tử đầu tiên. Nó không thể giải thích được làm thế nào vật chất nguyên thủy đã thay đổi từ cái thuần nhất đến cái chuyển động.
o Nó không giải thích được làm thế nào vũ trụ ngày nay trật tự và không còn sự hỗn loạn.
o Nó không giải thích được tính liên tục của muôn vật thế nào một con ngựa lại sinh ra một con ngựa chứ không tiến hóa thành con khác.
o Nó không thể giải thích được làm sao sự sống lại phát sinh từ nguyên tử vốn không có sự sống.
o Nó không giải thích được sự khai sinh của cảm giác và ý thức của sinh vật.
o Nó không giải thích được bước nhảy vọt từ thế giới thú vật đến thế giới loài người.
o Không giải thích được sự phân phối vật chất hiện có trên vô số các ngôi sao và các hành tinh.
o Không thể giải thích các sự thay đổi từ các lĩnh vực tâm lý, xã hội, đạo đức,và các lĩnh vực thiêng liêng.
IV. TIẾN HÓA HỮU THẦN.
Để trả lời sợi dây xích đầu tiên bị mất đó, người theo thuyết tiến hóa hữu Thần nói rằng: ở một nơi nào đó trong bóng mờ của quá khứ, Đức Chúa Trời đã sáng tạo nên vật chất nguyên thủy và đặt khối vật chất đó vào sự chuyển động. Các nhà Tiến hóa hiện đại càng lúc càng gắn bó hơn vào Thuyết tiến hóa hữu thần. Đây là sự thực của giáo sư Romanes và John Fiske.
Thuyết tiến hóa hữu thần chia thành 2 hình thức:
1) Đức Chúa Trời chỉ sáng tạo những nguyên tử đầu tiên của vật chất.
2) Đức Chúa Trời vẫn tác động vào tiến trình tiến hóa.
V. CÁC THÁI ĐỘ ĐỐI VỚI THUYẾT TIẾN HÓA.
1. Một số người cứ giữ chủ trương nầy bất chấp mọi cuộc tranh luận chống lại thuyết tiến hóa.
2. Một số người nhận thuyết tiến hóa như một giả thuyết có trình độ có thể xảy ra như thế, nhưng đó chưa phải là thuyết đã được xác định.
3. Một số người chấp nhận thuyết tiến hóa trong một hình thức bổ sung, chẳng hạn,Thuyết tiến hóa hữu thần.
4. Các nhà Thần học Tin lành khước từ lý thuyết này và chấp nhận câu chuyện về sự sáng tạo của Đức Chúa Trời trong Kinh thánh.
VI. MỘT SỐ CÁC KHOA HỌC GIA DANH TIẾNG KHÔNG CHẤP NHẬN THUYẾT TIẾN HÓA.
o Tiến sĩ Albert Flesschman, giáo sư môn Động vật học trường Đại học Erlangen, Đức quốc: "Thuyết Darwin về tiến hóa không có một dự kiện nào để xác định trong lĩnh vực thiên nhiên. Đó không phải là kết quả của công trình nghiên cứu Khoa học, nhưng hoàn toàn là sản phẩm tưởng tượng... "
o Sir John Ambrose Fleming, Viện trưởng Học viện Victoria ở Luân-đôn Anh Quốc, đã xuất bản cuốn sách nhan đề: "Tiến hóa hay sáng tạo " trong đó ông kịch liệt tấn công thuyết tiến hóa.
o Douglas Dewar, nhà Tự nhiên học nói tiếng Anh, là tác giả nhiều cuốn sách, là người được thừa nhận có thẩm quyền viết cuốn "Những khó khăn của thuyết tiến hóa" đó là lời tranh luận hoàn hảo và có hiệu quả chống lại thuyết tiến hóa.
o Tấn sĩ Austin H. Clark, Hiệp hội Địa vật lý Hoa-kỳ, một nhà Đại dương học viết trong Tân thuyết tiến hóa Động vật ban đầu "Các nhóm lớn trong đời sống động vật không chuyển từ nhóm này qua nhóm khác. Chúng vốn cố hữu như thế từ ban đầu."
o Tấn sĩ Gerritt Miller nói, "Chúng ta không ngần ngại thú nhận rằng trong chỗ các dây xích giữa loài người và các loài linh trưởng khác,không có gì khác hơn là một số vật hóa thạch quá rời rạc, đến nỗi chúng có thể được giải thích là một thứ gì khác."
o Giáo sư L. J. More ở Viện Đại học Cincinnati trong "Thuyết tiến hóa " đã viết "bất hạnh thay cho danh tiếng tương lai của Darwin... mỗi một lý luận của ông ta đều ngược lại với sự kiện."
o Giáo sư A. C. Scward của Cambridge đã viết: "Một sinh viên lấy công tâm mà hồi tưởng quá khứ sẽ sớm khám phá ra rằng các vật hóa thạch chỉ gây nên nhiều vấn đề hơn là giải quyết vấn đề."
KẾT LUẬN:
Các bằng cớ về thuyết tiến hóa lấy từ Đại dương học, thực vật học, Giải phẫu học, Các cơ quan dư thừa, Khoa phôi thai học, Cổ sinh vật học, v.v. đều tan rã dưới sự khảo sát đúng đắn của Khoa học. Thuyết tiến hóa chỉ là một hệ thống giả thuyết, phần lớn là tưởng tượng.
Tốt hơn là ta chấp nhận Lời Đức Chúa Trời và tin tưởng những gì Khoa học chân chính đã chứng minh. Con người và muôn loài vạn vật đã được Chúa sáng tạo cách hoàn hảo, mỗi loài đều được sáng tạo y như có ngày nay. Trật tự sáng tạo của Chúa là "tùy theo loại " (Sáng 1:24) cho các sinh vật. Trong câu 21 mạng lịnh cho thế giới thực vật là "tùy theo loại của chúng" và luật lệ này cứ được vâng giữ mãi.
LỜI GIỚI THIỆU:
Ngoài Cơ đốc giáo, các tôn giáo khác đều nói đến sự sa ngã của loài người. Những câu chuyện đó của họ thường bị bóp méo, không chính xác nhưng họ đều thừa nhận đó là một sự kiện xấu xa, đáng sợ. Thuyết tiến hóa chỉ gây thêm vấn đề rắc rối hơn là giải quyết vấn đề. Nếu sách Sáng thế ký không đúng sự thật thì làm sao giải thích tình trạng hư hoại đạo đức và tội lỗi của loài người?
Các tôn giáo khác không có quan niệm cao cả về Đức Chúa Trời như chúng ta, vì thế khoảng xa cách giữa tội nhân và Đức Chúa Trời càng lớn lao hơn chúng ta rất nhiều. Đối với một số người thì một Đấng Thượng Đế vô tội, thánh thiện cho phép tội lỗi và Sa-tan vào vườn Ê-đen là việc không thích hợp chút nào. Câu trả lời cho câu hỏi nầy được khóa chặt vào các việc mầu nhiệm của Đức Chúa Trời. Sáng thế ký 3 đã đưa ra toàn bộ câu chuyện về sự thất bại bi đát nầy trong lịch sử nhân loại. Câu chuyện nầy không phải kể lại sự xuất hiện của tội lỗi trong thế gian, vũ trụ vì lúc bây giờ Sa-tan đã phạm tội rồi và đã bị ném khỏi Thiên Đàng. Ê-xê-chi-ên 28:12-15, Ê-sai 14:9-14. Câu chuyện nầy kể lại thế nào tội lỗi xâm nhập vào vòng nhân loại và khiến chúng ta phạm tội.
Một số người xem câu chuyện nầy như một chuyện ngụ ngôn, thật ra, câu chuyện không đơn giản như thế đâu. Một số người xem đó như là một huyền thoại, chúng ta tin Kinh Thánh là Lời vô ngộ của Đức Chúa Trời, nên chúng ta tin câu chuyện nầy là thật, và dĩ nhiên đây là thực tế rất phù hợp với hiện trạng của nhân loại. Cây cỏ, gai góc đầy dẫy và mồ hôi ướt đẫm trên trán của người lao động, nhắc nhở chúng ta nhớ, biết câu chuyện nầy là thật.
I. TÁC NHÂN CỦA SỰ SA NGÃ. Sáng 3:1.
Sa-tan hành động qua con rắn. Đây là một sự kiện đáng để ý vì các con rắn đã và sẽ còn là đối tượng sợ hãi của mọi người, và con người cũng làm cho rắn sợ hãi nữa.
II. SỰ QUỈ QUYỆT CỦA SA TAN.
Sa-tan không xuất hiện trong hình dạng cá nhân của nó, nó đã xuất hiện như một con rắn đẹp. Một số người như Josephus nói rằng con rắn là con vật duy nhất có khả năng nói ngoài con người. Nếu điều nầy là đúng, Ê-va có lẽ nghĩ rằng chính con rắn đang nói với bà. Sa-tan đã khởi sự tấn công khi A-đam và Ê-va ở xa nhau. (sự hiệp một, đoàn kết có sức mạnh mà ma quỷ cũng phải sợ). Sa-tan tấn công phái yếu và nó nắm lấy cơ hội khi Ê-va ở gần cây cấm. Sa-tan đã cám dỗ qua những sở thích hợp lý, những ước muốn về thức ăn và sự hiểu biết. Sa-tan bắt đầu tấn công bằng việc gieo sự hoài nghi về Lời của Đức Chúa Trời: "Nầy, Đức Chúa Trời há có phán?."Sa-tan nói rằng cây cấm sẽ khiến loài người biết điều thiện và điều ác, nhưng nó không hề nói với bà là bà sẽ đánh mất khả năng làm điều thiện.
III. SỰ THỬ NGHIỆM ĐỨC CHÚA TRỜI ĐẶT RA CHO A-ĐAM VÀ Ê-VA. Sáng 2:16 -17.
IV. NHỮNG BƯỚC DẪN ĐẾN SA NGÃ.
Ê-va đến quá gần cây cấm, đáng ra bà phải xa lánh nơi cám dỗ. Có lẽ bà đứng gần chiêm ngưỡng vẻ đẹp của cây cấm, ngưỡng mộ điều cấm chẳng bao lâu sẽ dẫn đến việc tham muốn sở hữu hoặc hưởng thụ điều cấm. Bà đã tranh luận, đàm phán, thương lượng với ma quỷ. Đừng bao giờ tiếp chuyện hay tranh luận với ma quỷ, ta chỉ nên trưng dẫn Kinh Thánh cho nó để chống cự nó mà thôi. Bà đã sửa đổi, và bỏ bớt ý nghĩa của chữ "tự do" trong mạng lịnh nguyên thủy của Chúa. Bà giảm thiểu tầm quan trọng của lời Chúa. Đức Chúa Trời phán: "Ngươi chắc sẽ chết" còn Ê-va thì nói: "e sẽ chết chăng."
Sáng 3:6: "Người nữ thấy trái cây đó bộ ăn ngon lại đẹp mắt và quí vì để mở trí khôn, bèn hái ăn rồi trao cho chồng đứng gần mình, chồng cũng ăn nữa."
V. HẬU QUẢ TRỰC TIẾP.
Những hậu quả trực tiếp ngay sau sự sa ngã là:
1. Họ trở nên tội nhân. Sự sống thuộc linh của họ đã chết. Ê-phê-sô 2:1.
2. Mắt họ mở ra và họ biết mình lõa lồ.
3. Họ lấy lá vả che thân.
4. Họ đi trốn khỏi sự hiện diện của Đức Chúa Trời. Tội lỗi đã chia rẽ con người khỏi Đức Chúa Trời.
VI. ĐỨC CHÚA TRỜI CÔNG BỐ ÁN PHẠT. Sáng 3:14 -19.
1. Tên con rắn: Bị rủa sả hơn cả các thú đồng và các động vật. Nó phải bò bằng bụng và ăn bụi đất.
2. Trên người đàn bà: Đau đớn khi sinh nở, phục quyền của chồng.
3. Trên người đàn ông: Đất bị rủa sả sanh gai góc, cỏ hoang. Đời sống người buồn thảm, phải đổ mồ hôi mới có ăn. Bị chết và trở về với cát bụi.
VII. HẬU QUẢ LÂU DÀI CỦA SỰ SA NGÃ.
1. Mọi người không phân biệt ai đều trở thành tội nhân trước mặt Đức Chúa Trời. Rô-ma 3: 10, 23; 5:12. Có thể khác nhau trong mức độ, nhưng không khác nhau trong sự kiện tội lỗi.
2. Cả thế giới nằm dưới án phạt thạnh nộ, rủa sả. Rô-ma 3:19; Ga-la-ti 3:10, Ê-phê-sô 2:3.
3. Những người không được tái sanh đều được xem như là con cái ma quỷ chớ không phải con cái của Đức Chúa Trời. Giăng 8:44. Bằng sự tái sanh chúng ta mới trở nên con cái của Đức Chúa Trời. Giăng 1:12.
4. Cả thảy nhân loại đều bị Sa-tan bắt giữ làm nô lệ. II Cô-rinh-tô 4:4.
5. Toàn thể bản tính con người, cả về trí tuệ, đạo đức, thuộc linh, thuộc thể đều bị ảnh hưởng bởi tội lỗi.
- Trí khôn bị tối tăm Ê-phê-sô 4:18, I Cô-rinh-tô 2:14.
- Lòng bị lừa dối và gian ác Giê-rê-mi 17:9, 10.
- Tâm trí và lương tâm bị ô uế Sáng 6:5, Tít 1:15.
- Thể xác và tâm linh bị ô uế II Cô-rinh-tô 7:5.
- Ý chí bị yếu đuối Rô-ma 7:18.
- Chúng ta hoàn toàn đánh mất mọi phẩm giá giống như Đức Chúa Trời Rom 7:18.
KẾT LUẬN:
Con người sinh ra đã là tội nhân, thù nghịch với Đức Chúa Trời. Khi con người sa ngã, Đức Chúa Trời đã hứa ban Đấng Cứu Chuộc và kế hoạch cứu rỗi. Lời tiên tri nầy (Sáng 3:15) Đức Chúa Trời đã làm ứng nghiệm 4.000 năm sau trên thập tự giá. Đức Chúa Trời thay quần áo lá vả của A-đam bằng áo da chiên. Đây là hình ảnh sự cứu chuộc bằng máu, cần thiết cho sự cứu rỗi tội nhân.
LỜI GIỚI THIỆU:
Trong bài trước chúng ta học về sự sa ngã của loài người, vì cớ tội lỗi của A-đam. Ngày nay người ta chế giễu tội lỗi và xem đó chỉ là một sự yếu đuối hay chỉ là khuynh hướng của con người. Khi con người nhận biết tội lỗi của mình, họ sẽ quay về xin Chúa thương xót. Cho đến khi chúng ta hiểu hết sự khủng khiếp của tội lỗi, chúng ta mới hiểu được ý nghĩa đầy đủ của Thập tự giá, và chỉ khi chúng ta hiểu rõ ý nghĩa của thập giá, chúng ta sẽ thấy được tính chất của tội lỗi là thế nào trước mặt Đức Chúa Trời thánh khiết, công bình.
I. ĐỊNH NGHĨA TỘI LỖI.
Từ điển gọi tội lỗi là sự quá phạm, sự xấu xa, vi phạm nguyên tắc đạo đức, Tôn giáo hay xã hội đã được thừa nhận.
"Tội lỗi là sự thiếu hụt tiêu chuẩn đạo đức của Đức Chúa Trời hoặc bằng hành động hay bằng bản chất."
"Tội lỗi là chứng bịnh nan y bất trị của linh hồn" (bịnh phung hoặc ung thư).
"Tội lỗi là tình chất người cũ thể hiện trong ta." I Giăng 3:4 "Tội lỗi là sự vi phạm luật pháp."
1. Tội lỗi là một hành động phạm pháp.
2. Tội lỗi là một tình trạng sa ngã bất nghĩa.
3. Tội lỗi là một bản tính, bản tính sa ngã của con người thù nghịch với Đức Chúa Trời.
II. CĂN NGUYÊN CỦA TỘI LỖI.
1. Tội lỗi phát xuất từ Sa-tan, Ê-sai 14:12 -14, điều nầy được giải thích trong Gia-cơ 1:14,15.
2. Tội lỗi xâm nhập vào thế gian qua A-đam Rô-ma 5:12.
3. Sự kiện sa ngã của con người. Sáng 3:1-6.
- Nghe lời vu khống Đức Chúa Trời.
- Nghi ngờ tình yêu và lời nói của Đức Chúa Trời.
- Nhìn xem điều Đức Chúa Trời ngăn cấm.
- Tham muốn điều Đức Chúa Trời cấm.
- Bất tuân hoàn toàn mạng lịnh Đức Chúa Trời.
III. CÁC SỰ BIỂU HIỆN CỦA TỘI LỖI.
1. Vi phạm luật pháp. Thi 51:1.
2. Hành động sai trái, làm điều cấm.
3. Sai lầm, không làm đúng. Thi 51:9
4. Sai trật mục tiêu thiêng liêng I Giăng 5:17, Rom 3:23.
5. Vô đạo, bất tuân I Ti-mô-thê 1:9.
6. Nghi ngờ, thất bại trong nhiệm vụ, bỏ qua điều cần làm, sai sót.
7. Tự cao, tự đại, sự thâm nhập của ý riêng vào lãnh vực uy quyền của Đức Chúa Trời.
8. Vô tín, xúc phạm đến sự chân thật của Đức Chúa Trời. Hê-bơ-rơ 3:12.
IV. DANH SÁCH CÁC TỘI LỖI.
1. Xuất 20:3 -17 (Mười điều răn): Thờ hình tượng, rủa sả, bỏ nhóm hợp, bất hiếu, tà dâm, giết người, ăn cắp, nói dối, tham lam. (9 tội)
2. I Cô-rinh-tô 6:9-10: Ngoại tình, làm dáng yểu điệu, đắm nam sắc, hà tiện, say sưa, chưởi rủa, chắt bóp.
3. Rom 1:29 -31: Không công bình, độc ác, hung dữ, ghen, ghét, cãi lẫy, dối trá, giận dữ, hay mách, gièm chê, chẳng tin kính, xấc xược, kiêu ngạo, khoe khoang, khôn khéo về sự làm dữ, dại dột, trái lời giao ước.
4. I Ti-mô-thê 1:9 -11: Trái luật pháp, bạn nghịch, vô đạo, nói phạm thánh thần, tà dâm, bắt cóc người, thề dối.
5. Cô-lô-se 3:5 -8: Tình dục ô uế, ham muốn xấu xa, thạnh nộ, buồn giận và hung ác, nói hành.
6. Ga-la-ti 5:19 -21: Luông tuồng,phù phép, thù oán, tranh đấu, ghen ghét, cãi lẫy, bất bình, bè đảng, ganh gỗ, say sưa, mê ăn uống.
7. Mác 7:20 -23: Ác tưởng, con mắt ganh đố, điên cuồng.
Toàn bộ hơn 50 thứ tội với nhiều chi tiết khác nhau.
V. TỘI LỖI KHÔNG THỂ CHE DẤU.
Dân số ký 32:23 "Còn nếu không làm như vậy, nầy các ngươi sẽ phạm tội cùng Đức Giê-hô-va, và phải biết rằng tội chắc chắn sẽ đổ lại trên các ngươi."
Châm 28:13: "Người nào giấu tội lỗi mình sẽ không được may mắn, nhưng ai xưng nó ra và lìa bỏ nó sẽ được thương xót."
Không chỉ tội lỗi bị phát hiện mà tội nhân cũng bị khám phá nữa. Đức Chúa Trời đã thấy và phát hiện tội lỗi giấu kín của A-đam, Ca-in, A-na-nia và Sa-phi-ra, là những kẻ đã cố che dấu tội mình nhưng đã bị phát hiện.
VI. CÁC HẬU QUẢ CỦA TỘI LỖI.
1. Sự chết, chỉ về sự chia lìa Rom 6:25.
2. Sự hư mất, con người mất Chúa, mất thiên đàng Lu-ca 15:24.
3. Sự rủa sả, đây là danh từ tòa án chỉ vế sự phán xét của Đức Chúa Trời Giăng 3:18.
4. Mặc cảm phạm tội, lương tâm bị cắn rứt Sáng 26:10.
5. Hư hoại, I Ti-mô-thê 6:9.
6. Bị hình phạt Ma-thi-ơ 25:46.
7. Lửa đời đời, thời gian hình phạt lâu dài Giu-đe 7.
8. Địa ngục, nơi ở của quỷ và kẻ theo nó Ma-thi-ơ 25:1.
9. Hồ lửa, sự chết thứ 2 Khải 20:14.
VII. SỰ CHUỘC TỘI.
Sự chuộc tội duy nhất là do sự chết đền tội và sự phục sinh của Chúa Jêsus.
- Giăng 1:29: Kìa chiên con của Đức Chúa Trời là Đấng cất tội lỗi thế gian đi.
- Không ai có thể tự mình gội sạch tội lỗi. Gióp 9:30,31, Giê-rê-mi 2:22.
- Sự chuộc tội là sự tha thứ tội lỗi qua huyết báu của Chúa Jêsus.Ê-phê-sô 1:? ; I Giăng 1:7.
- không ai là vô tội nên ai nấy cần Đấng cứu thế Ga-la-ti 3:22, Rom 3:23.
KẾT LUẬN:
Đấng Christ là Chúa cứu thế mà nhân loại cấn có, vì chỉ một mình Ngài là Đấng vô tội. II Cô-rinh-tô 5:21, Hê-bơ-rơ 4:15, I Giăng 3:5, 1 Phi-e-rơ 2:22.
Đức Chúa Trời quá thánh khiết không nhìn xem tội lỗi Hê-bơ-rơ 1:13.
Lời cầu nguyện: Lạy Chúa, xin dạy con thấy sự kinh khủng của tội lỗi (Rô-ma 7:13) và dạy con ghét tội (Thi-thiên 7:10), xin dạy con biết xưng tội (I Giăng 1: 9), xin dạy con biết từ bỏ tội lỗi (Châm 28:13).
GIỚI THIỆU:
Con người gồm 3 phần kết hợp nhau: thể xác, hồn và linh. Có hai khúc Kinh thánh dạy rõ ràng con người gồm có 3 phần.
o I Tê-sa-lô-ni-ca 5:23 "Nguyền xin chính Đức Chúa Trời bình an khiến anh em nên thánh trọn vẹn, và nguyền xin tâm thần, linh hồn và thân thể của anh em đều được giữ vẹn, không thể trách được khi Chúa Jêsus Christ chúng ta đến." Câu nầy rõ ràng cho chúng ta thấy con người có 3 phần khác nhau, sự khác biệt có thể nhẹ nhàng nhưng có thực.
o Hê-bơ-rơ 4:12 "Vì Lời Đức Chúa Trời là lời sống và linh nghiệm sắc hơn gươm hai lưỡi thấu vào đến nỗi chia hồn, linh, cốt tủy phân biệt tư tưởng và ý định trong lòng."
Một số người dạy rằng hồn và linh là hai chữ khác nhau nhưng cùng một nghĩa câu Kinh thánh này rõ ràng đã phân chia ra hai chữ. Thật ra trong nhiều khúc Kinh Thánh chữ hồn và linh được dùng không thay đổi, nhưng ở chỗ khác thì phân biệt ra.
Chúng ta hãy nghiên cứu xem Kinh thánh trả lời như thế nào, nói chung ta có sự khác biệt sau đây:
1. Linh giúp con người ý thức về Thượng đế, là khả năng tương giao với Thượng đế.
2. Hồn giúp con người tự ý thức về mình, là khả năng làm một người có nhân cách.
3. Thân thể giúp con người ý thức về thế giới, là khả năng giúp con người hiểu biết qua các giác quan.
I. NGUỒN GỐC CON NGƯỜI.
Sáng 1:1 cho ta thấy Đức Chúa Trời tự hữu từ ban đầu. Ngài là Đấng vĩnh cửu hằng hữu. Sáng 1:26,27 Ký thuật theo thứ tự niên đại cho biết con người được tạo nên vào ngày thứ 6. Sáng 2:7 cho ta chi tiết thể nào việc dựng nên con người được thành tựu." Đức Chúa Trời lấy bụi đất nắn nên hình người, hà sinh khí vào lỗ mũi thì người trở nên loài có sanh linh." Trong câu nầy ngụ ý đến 3 phần trong con người:
1. Thể xác con người: xác thịt, xương, máu của chúng ta đều tạo thành từ bụi đất.
2. Linh được Đức Chúa Trời hà hơi vào lỗ mũi con người.
3. "Và người trở nên loài có sanh linh" đây là sự kết hiệp giữa hai phần trên. Đây là phần của con người ở trên thể xác và ở dưới linh, hành động như một trung gian giữa hai phần đó. (Baxson)
II. THỂ XÁC CON NGƯỜI.
Đây là phần quen thuộc của con người, phần thuộc thể. Thi 139:14 "Tôi ngợi khen Chúa vì Ngài đã dựng nên tôi cách đáng sợ lạ lùng."Kinh thánh kể cho chúng ta biết rằng thể xác con người được hình thành từ bụi đất. Bụi đất được phân tích ra gồm 96 nguyên tố về con người cụng chứa 96 nguyên tố y như thế. Đây là một bằng cớ kỳ diệu về sự sáng tạo.
Một số nguyên tố đó là: Calcium, carbon, chlorine, fluorine, hydrogen, iodine, sắt, magnesium, nitrogen, oxigen, phosphorus, potassium, silicon, sodium.
" Ngươi phải làm đổ mồ hôi trán mới có mà ăn, cho đến ngày ngươi trở về với cát bụi là nơi sinh ngươi ra, vì ngươi là bụi, ngươi phải trở về với cát bụi."
Thân thể con người gồm có 5 giác quan: thính giác, thị giác, xúc giác, khứu giác và vị giác. Mọi cảm giác sảng khoái, đau khổ, buồn bã hay các khả năng khác đều được biểu lộ trong và qua cơ thể. Sau khi sa ngã, thể xác con người trở nên một thể xác bị sự chết hủy hoại.Hê-bơ-rơ 9:27 "Theo như đã định cho loài người phải chết một lần... "Từ khi tội lỗi nhập vào vườn Ê-đen, con người sinh ra với một định luật phải chết.
III. LINH CON NGƯỜI.
Tâm linh giúp con người ý thức về Đức Chúa Trời, khả năng tương giao với Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời hà sanh khí vào A-đam ban cho ông Linh (gió, hơi thở). Có người nói rằng con người là bụi đất được Thượng đế hà hơi. (cô R.Paxson). "Tâm linh tiếp nhận những xúc cảm bên ngoài và những sự việc vật chất qua linh hồn và thể xác, nhưng nó thuộc về một mức độ cao hơn và có khả năng hiểu biết trực tiếp về Đức Chúa Trời nhờ mối liên hệ với những khả năng và giác quan cao hơn của nó. Linh là thủ đô của nhân cách con người." (A.T.Pierson)
Đức Chúa Trời là Linh - Giăng 4:24 - và linh con người là phần giống Đức Chúa Trời nhất. Điều nầy được thể hiện trong sự bảo đảm về sự cứu rỗi của chúng ta. Rom 8:16 "Chính Đức Thánh Linh làm chứng trong Linh chúng ta rằng chúng ta là con cái Đức Chúa Trời."
Truyền đạo 12:7 dạy rằng thể xác trở về với cát bụi và thần linh trở về với Đức Chúa Trời. Truyền đạo 3:27 "Ai biết linh của con người đi lên hay là linh con thú đi xuống đất." Linh con người khi chết được lên cùng Đức Chúa Trời còn linh con thú đi xuống đất. Lu-ca 12:20 "Nhưng Đức Chúa Trời phán, hỡi kẻ dại dột kia, đêm nay linh hồn ngươi sẽ bị đòi lại."
Linh hồn của con người ăn mày lên tới lòng Áp-ra-ham, Lu-ca 16:22, linh hồn người nhà giàu xuống địa ngục Lu-ca 16:23.
IV. HỒN CON NGƯỜI.
Hồn là sự tự ý thức, nó chỉ về đời sống cá nhân.
Kinh thánh nói về một linh hồn đói, một linh hồn mệt mỏi, Giê-rê-mi 31:5, một linh hồn khát Thi 42:2, một linh hồn buồn rầu Gióp 30:25, một linh hồn yêu thương, Nhã ca 1:7.
Hồn dường như là phần con người ở giữa xác và linh, nhưng không phải là hai phần đó trộn lại, dầu đôi khi dường như nó có các tính chất của nhau. Hồn gắn liền hai thế giới thuộc thể và thuộc linh. Công việc của hồn là hiệp tác những hoạt động của hai phần khác nhau. Hồn giữ thể xác khi phần thấp nhất đầu phục, linh là phẩn cao nhất. "Đức Chúa Trời hoạch định linh con người được Đức Thánh Linh ngự và cai trị, để giữ con người tiếp xúc liên tục với chính mình Ngài và duy trì mọi sự trong tính ưu việt của nó, khi cai trị hồn và thể xác." (A.T. Pierson)
Chính hồn của Chúa Jêsus đã chết để đền tội trên Thập giá. Hê-bơ-rơ 10:39.
o Gia-cơ 1:21.
o Thi 49:8.
o Lu-ca 16:23.
o Khải 18:11,12.
Con người buôn linh hồn mình để mua lấy những phút giây khoái lạc.
KẾT LUẬN:
Đức Chúa Trời đã dựng nên con người gồm 3 phần để yêu mến Đức Chúa Trời và vui hưởng cuộc sống cùng thiên nhiên. Con người được dựng nên với khả năng hiểu biết, yêu thương và quyết định. Ê-sai 1:18. Con người được dựng nên cho Đức Chúa Trời, linh con người được dựng nên để tiếp xúc với Đức Chúa Trời. "Và họ nghe tiếng Đức Chúa Trời bước đi trong vườn vào buổi chiều mát."Sáng 3:8. đây là hình ảnh đẹp đẽ của mối tương giao nầy.
Bạn phải chuẩn bị cho ngày phục sinh khi các phần khác nhau của bạn sẽ tái hợp và đứng trước tòa án của cả địa cầu. Đức Chúa Jêsus đã chịu chết trên thập giá để cứu vớt mọi linh hồn khỏi sự khốn khổ của địa ngục.
GIỚI THIỆU:
Ngày nay người ta ít quan tâm tới giáo lý này vì họ xem đó như là việc không giá trị, các thiên sứ chỉ còn xuất hiện trong những câu chuyện trong giấc mơ. Tuy nhiên, chúng ta không nên đánh giá thấp chức vụ của các thiên sứ, đặc biệt là các thiên sứ bảo vệ, chắc chắn chúng ta không biết chúng ta mắc nợ họ biết bao nhiêu.
Một giáo sĩ kể lại, có một lần ông buộc lòng phải ngủ ngoài trời vào một đêm kia. Bọn cướp đã dự tính cướp bóc vị giáo sĩ, nhưng chúng sợ hãi không dám tấn công, vì lúc ấy có sự hiện diện của 16 người lính cầm gươm. Vị giáo sĩ bật cười về câu chuyện như thế.
Nhưng về sau, trong một cuộc nghĩ phép ông được biết có 16 người đã cầu nguyện cho trong đêm đặc biệt đó. Cảm tạ Đức Chúa Trời về chức vụ của các thiên sứ.
I. SỰ HIỆN HỮU CỦA CÁC THIÊN SỨ.
Từ liệu thiên sứ lần đầu tiên xuất hiện ở Sáng 16:7, ở đây thiên sứ của Đức Chúa Trời phục vụ nàng A-ga sau khi bà Sa-ra đuổi nàng đi (1913 T.C).
Các thiên sứ được Đức Chúa Trời dựng nên, nhưng ta không biết khi nào. Cô-lô-se 1:16 "Vì muôn vật đã được dựng nên trong Ngài, bất luận trên trời, dưới đất, vật thấy được, vật không thấy được."
Ma-thi-ơ 4:11 các thiên sứ đến hầu việc Chúa Jêsus khi Ngài bị cám dỗ. Trong Ma-thi-ơ 18:10 Chúa Jêsus nói về các thiên sứ bảo vệ." Hãy giữ mình, đừng khinh dể một đứa nào trong những đứa trẻ nầy, vỉ Ta bảo các ngươi, các thiên sứ của chúng nó trên trời thường thấy mặt Cha Ta là Đấng ở trên trời."Chúa Jêsus tin các thiên sứ và Phao-lô cũng tin các thiên sứ. Cô-lô-se 2:18, 2 Tê-sa-lô-ni-ca 1:7.
II. BẢN TÍNH CỦA CÁC THIÊN SỨ.
Các thiên sứ là các hữu thể thiêng liêng Hê-bơ-rơ 1:14 "Các thiên sứ há chẳng phải đều là thần hầu việc Đức Chúa Trời, đã được sai xuống để giúp những người sẽ hưởng cơ nghiệp cứu rỗi hay sao? " Thi 104:4 "Ngài dùng gió làm sứ Ngài, ngọn lửa làm tôi tớ Ngài."
Là hữu thể thiêng liêng, các thiên sứ không bị lệ thuộc vào luật thiên nhiên, các thiên sứ có thể vào nhà tù khóa kín Công 12:7, mở cửa nhà tù Công 5:19, lên trời trong ngọn lửa Quan xét 13:19,20. Các thiên sứ có thể đi rất nhanh trong một khoảng cách rất lớn(từ trời xuống đất cách xa nhiều năm ánh sáng). Xem Đa-ni-ên 10:12,13 thiên sứ xin lỗi vì bị trễ 21 ngày.
Các thiên sứ khôn ngoan hơn loài người II Sa-mu-ên 14:20 Chúa tôi là khôn ngoan như thiên sứ của Đức Chúa Trời, hiểu rõ mọi việc đã xảy ra trên đất. Các thiên sứ rất mạnh khỏe Thi 103:20.
a. Một thiên sứ giết 185.000 binh sĩ A-si-ri chỉ trong một đêm 2 Vua 19:35.
b. Một thiên sứ giết chết 70.000 Y-sơ-ra-ên vì cớ tội lỗi của Đa-vít II Sa-mu-ên 24:15,16.
c. Một thiên sứ chế ngự quyền lực của lính La-mã, phá bỏ niêm phong và lăn tảng đá khỏi mộ chôn Chúa Ma-thi-ơ 28:2,4.
d. Một thiên sứ vào một ngày kia sẽ trói ma quỷ và bỏ tù nó 1.000.
Có những cấp bậc và trật tự khác nhau của thiên sứ. Mi-chên được gọi là thiên sứ trưởng Giu-đe 9. Kinh thánh có nói đến thiên sứ trưởng, các thiên sứ chủ quyền, thế lực, các ngôi. Cô-lô-se 1:16, Đa-ni-ên 10:12 -21, I Tê-sa-lô-ni-ca 4:16, I Phi-e-rơ 3:22. Các thiên sứ bất tử, Lu-ca 20:35,36, không có thân thể vật chất, không bị hư hoại và không chết, nếu Chúa Jêsus đã trở thành một thiên sứ Ngài sẽ không thể chết. Các thiên sứ không cưới gả và không có tình dục như con người Ma-thi-ơ 22:30, Lu-ca 20:35,36.
III. CON SỐ CÁC THIÊN SỨ.
Các thiên sứ được kể là vô số. Khải 5:11 "Có tiếng của vô số thiên sứ, hàng muôn, hàng ngàn."Hê-bơ-rơ 12:22 "Gần thành của Đức Chúa Trời hằng sống tức là Giê-ru-sa-lem trên trời, gần muôn vàn thiên sứ nhóm lại."Ma-thi-ơ 26:53 Chúa Jêsus phán Ngài có thể kêu gọi 12 đạo thiên sứ. (mỗi đạo có từ 3.000 đến 6.000 thiên sứ). 2 Vua 6:17 đầy tớ của Ê-li-sê đã thấy trên núi đầy xe lửa chung quanh ông và đây rõ ràng là các thiên sứ.
IV. SỰ SA NGÃ CỦA CÁC THIÊN SỨ.
Các thiên sứ được Chúa mô tả là thánh (vô tội, trong sạch). Mác 8:38 "Khi Ngài đến trong sự vinh hiển của Cha Ngài với muôn vàn thiên sứ thánh." Các thiên sứ là vật thọ tạo được dựng nên cách thánh sạch Lu-ca 9:26, 2 Phi-e-rơ 2:4, Giu-đe 6.
Căn cứ trên I Ti-mô-thê 5:21 (Các thiên sứ được chọn được xác định là thánh), chúng ta tin rằng Đức Chúa Trời đã đặt các thiên sứ vào sự thử thách trong một thời gian. Khi được thử thách một số đã bội nghịch, một số vẫn giữ lòng trung thành, trong trắng và được xác định là tốt lành Thi 89:7.
2 Phi-e-rơ 2:4 nói về sự sa ngã của các thiên sứ"... các thiên sứ phạm tội." Sự thử nghiệm và thời gian sa ngã của các thiên sứ thì không nói rõ, tuy nhiên các lý thuyết đưa ra có sự suy diễn:
1. Họ đã phản loạn khi Sa-tan cố gắng trở thành Đức Chúa Trời Ê-sai 14, Ê-xê-chi-ên 28, Khải huyền 12:7.
2. Họ đã phạm tội Kiêu ngạo và bất tuân.
3. Họ đã phạm tội tà dâm với những người đàn bà trên đất Sáng 6:1 -4.
Căn cứ trên Ma-thi-ơ 25:41 "ma quỷ và các sứ giả của nó " tôi tin rằng lý do một là hợp lý
nhất.
Hậu quả
Sự sa ngã của các thiên sứ là họ đang chờ đợi sự phán xét Giu-đe 6.
V. CÔNG VIỆC CỦA CÁC THIÊN SỨ.
1. Trên thiên đàng: Tôn vinh, thờ phượng và hầu việc Đức Chúa Trời Khải 5:11-12; 8:3,4.
2. Trên đất: Tay sai của Đức Chúa Trời.
a. Chỉ cho A-ga suối nước.
b. Xuất hiện trước Giô-suê với lưỡi gươm trần.
c. Tháo tung xiềng cho Phi-e-rơ.
d. Mở cửa tù ngục.
e. Nuôi nấng, thêm sức và binh vực con cái Đức Chúa Trời.v. v.
3. Thi hành sự phán xét và các mục đích của Đức Chúa Trời.
a. Ngăn đường của Ba-la-am Dân 22:22.
b. Giết vua Hê-rốt Công 12:23.
c. Thu thập tội lỗi và đốt cháy trong ngày phán xét cuối cùng Ma-thi-ơ 13:41.
4. Hướng dẫn các tín đồ: Một thiên sứ hướng đạo cho Phi-líp gặp hoạn quan Ê-thi-ô-pi. Công 8:26.
5. Yểm trợ, bảo vệ và thêm sức các thánh đồ:
a. Ê-li trong 1 Vua 19.
b. Đa-ni-ên trong hang sư tử Đa-ni-ên 6:22.
c. Jêsus trong Ma-thi-ơ 4:11, Lu-ca 22:43.
6. Tháp tùng với Chúa Jêsus khi Ngài tái lâm Ma-thi-ơ 25:31, 2 Tê-sa-lô-ni-ca 1:7,8.
7. Đưa tín đồ khi chết lên thiên đàng Lu-ca 16:22.
8. Các thiên sứ dự phần trong việc ban luật pháp Hê-bơ-rơ 2:2, Công 7:53, Ga-la-ti 3:19.
VI. NƠI Ở CỦA CÁC THIÊN SỨ.
Nơi ở hiện tại của các thiên sứ là thiên đàng Ma-thi-ơ 22:30, xem thêm Ê-phê-sô 3:10, Giăng 1:51, Lu-ca 2:13,15.
VII. CON NGƯỜI CAO THƯỢNG HƠN THIÊN SỨ.
Các thiên sứ và tổ phụ đầu tiên của loài người chúng ta đều được dựng nên cách trọn lành, các thiên sứ lá thần linh còn A-đam và Ê-va là người xác thịt. Tuy nhiên, ngày nay chúng ta cao trọng hơn các thiên sứ vì nhiều lẽ:
1. Các thiên sứ không được quyền giảng tin lành chức vụ nầy dành cho chúng ta. "Khi tôi hát bài ca cứu chuộc, các thiên sứ sẽ vỗ cánh vui mừng, vì họ không hề biết sự vinh hiển của sự cứu rỗi đem lại cho tôi."
2. Con người một ngày kia sẽ xét đoán cả các thiên sứ I Cô-rinh-tô 6:3. Có lẽ chúng ta sẽ xét đoán các thiên sứ sa ngã đề cập trong Giu-đe 6. Vinh dự lớn lao nầy thực là vinh hiển, nhưng cũng là tư tưởng khiêm nhường cho người được chuộc. Dù chúng ta sa vào tội lỗi, nhưng Đức Chúa Trời đã nâng chúng ta cao hơn các thiên sứ nhờ Chúa Jêsus, Chúa chúng ta.
KẾT LUẬN:
Khi các thiên sứ sa ngã, Đức Chúa Trời không cung ứng cho họ Đấng cứu thế nào. Kỳ diệu dường nào khi Ngài bằng lòng chết thay cho mỗi chúng ta. Chúng ta hãy cảm tạ Chúa vì sự bảo vệ tận tụy, tận trung, không mệt mỏi của các thiên sứ đối với chúng ta. Ma-thi-ơ 18:10 ngụ ý nói các thiên sứ theo hộ mạng cho các thiếu nhi. Chúng ta không thờ lạy thiên sứ. Khải 22:8,9. Các thiên sứ có thể hiện hình ăn như người Lu-ca 2:9, Sáng 32:1,2; 18:5.
LỜI GIỚI THIỆU:
Đời sống tín đồ Cơ đốc là một cuộc chiến tranh lớn lao chống lại kẻ thù nguy hiểm là Sa-tan. Do bị sa ngã, loài người trở thành kẻ bị trị của Sa-tan, nằm trong móng vuốt của nó. Chúng ta chia sẻ số phận cùng với nó là bị Đức Chúa Trời rủa sả, và bị quăng vào địa ngục. Khi chúng ta tiếp nhận Chúa Jêsus Christ làm cứu Chúa của mình thì mối quan hệ giữa Sa-tan và tội nhân bị gãy đổ. Nhưng Sa-tan không chịu để chúng ta yên, nó chiến đấu không khoang nhượng để giành giựt chúng ta trở lại trong bàn tay của nó. Kinh thánh dạy chúng ta phải chống cự Sa-tan, đấu tranh với nó không nhường một bước nào trong đời sống chúng ta cho nó.
I. NGUỒN GỐC CỦA SA TAN.
Sa-tan là một tạo vật được Chúa dựng nên theo Cô-lô-se 1:16, không biết thời gian nào.
Sa-tan được mô tả trong Ê-xê-chi-ên 28:12 -29.
- Câu 12: Sa-tan đầy khôn ngoan và có vẻ đẹp trọn vẹn.
- Câu 13: Sa-tan được bao phủ đầy mình bằng các thứ ngọc quý: ngọc mã não, ngọc vàng lợt, kim cương, ngọc thủy thương, ngọc sắc biếc, ngọc bích, ngọc sắc chàm,ngọc sắc xanh, ngọc thống hành cùng vàng. Sa-tan cũng có khả năng sử dụng trống cơm, ống sáo như một nhạc sĩ.
- Câu 14: Sa-tan vốn là Chê-ru-bin được xức dầu, có lẽ là thiên sứ chính cao cấp số 1.
- Câu 17: Sa-tan kiêu ngạo về vẻ đẹp và sự khôn ngoan của mình.
- Câu 15: Sa-tan được dựng nên trọn vẹn cho đến khi tội lỗi xuất hiện trong lòng Sa-tan.
- Câu 16: Tội lỗi và sự hung dữ được khám phá trong Sa-tan.
- Câu 16 -18: Sa-tan bị đuổi khỏi sự hiện diện của Đức Chúa Trời ở thiên đàng. Sa-tan cũng được mô tả trong Ê-sai 14:12 -17.
- Câu 12: Sa-tan được gọi là Lucifer con trai của sáng sớm.
- Câu 13,14: Sự kiêu ngạo của Sa-tan dẫn nó đến việc muốn trở nên như Đức Chúa Trời chí cao.
- Câu 15: Số phận của Sa-tan được nhắc đến là phải xuống âm phủ, sa vào nơi vực thẳm. Vì Sa-tan bị ném khỏi thiên đàng nên hiện nay nó sống ở trên không trung. Ê-phê-sô 2:2. Sa-tan vẫn còn được đến thiên đàng trong giới hạn nào đó để tố cáo tìm đồ của Chúa Gióp 1:6-12, Xa-cha-ri 3:1. Quyền lực nầy vẫn còn tiếp tục cho đến khi ứng nghiệm Khải 12:10.
II. BẢN THÂN CỦA SA TAN.
Ngày nay nhiều người không tin nơi thân vị của Sa-tan, họ chỉ nhận là các khuynh hướng xấu của xác thịt, hay của tình dục là sự yếu đuối của con người.
Khi nói với đám người Do-thái không tin ở Giăng 8:44 Chúa Jêsus phán: "Các ngươi bởi cha mình là ma quỷ mà sanh ra, các ngươi muốn làm nên sự ưa muốn của cha mình" chữ "cha" đây rõ ràng là nói đến một nhân vị.
Trong Gióp 1:6:12 Sa-tan nói chuyện với Đức Chúa Trời để tố cáo Gióp, một ảnh hưởng không thể đối thoại được. Câu chuyện Chúa Jêsus bị cám dỗ ở Ma-thi-ơ 4:1-11: Chúa Jêsus đương đầu với một kẻ thù gian ngoa thật sự.
Sa-tan là một nhân vật thật, có sự sống, sự khôn ngoan, có sức mạnh của ý chí và các cảm xúc. Tuy nhiên Sa-tan là một hữu thể linh thiêng nên không có một thể xác như con người. (Dĩ nhiên là không đuôi, không sừng như người ta tưởng tượng).
III. BẢN CHẤT CỦA SA TAN.
1. Nó là tên ăn trộm Ma-thi-ơ 13:19, Sa-tan ăn cắp lời Đức Chúa Trời khỏi lòng người nghe đạo.
2. Đầy mưu chước II Cô-rinh-tô 11:3 "Xưa Ê-va bị cám dỗ bởi mưu chước con rắn kia."
3. Tên giết người Giăng 8:44.
4. Kẻ nói dối, cha của sự nói dối Giăng 8:44.
5. Tay lừa dối, dỗ dành Khải 12:9.
IV. DANH HIỆU CỦA SA TAN.
1. Thiên sứ sáng láng - II Cô-rinh-tô 2:13 -15.
2. Sư tử rống - I Phi-e-rơ 5:8.
3. Vua cầm quyền chốn không trung - Ê-phê-sô 2:2.
4. Quyền lực tối tăm - Cô-lô-se 1:13.
5. Con rồng lớn, con rắn, quỷ Sa-tan - Khải 12:9.
6. Vua chúa của thế gian này - Giăng 14:70.
7. Thần, Chúa đời này II Cô-rinh-tô 4:4.
8. Sứ giả vực, tiếng Hê-bơ-rơ gọi là A-ba-đôn - Khải 9:11.
V. CÔNG VIỆC CỦA SA TAN.
1. Tìm kiếm người nào nó có thể nuốt được - I Phi-e-rơ 5:8.
2. Gieo rắc cỏ lùng và giáo lý xấu - Ma-thi-ơ 13:25-30.
3. Làm mù tâm trí con người - II Cô-rinh-tô 4:4.
4. Kiện cáo tín đồ - Khải 12:10.
5. Sàng sảy thử thách tín đồ - Lu-ca 22:31.
6. Phá hủy xác thịt sự sống của người I Giăng 5:5.
VI. CÁC TAY SAI LỆ THUỘC SA TAN.
1. Các thiên sứ của Sa-tan, các tà linh. ma quỷ dơ dáy - 2 Phi-e-rơ 2:4, Giu-đe 6.
2. Chủ quyền, thế lực, vua chúa thế gian, thần dữ - Ê-phê-sô 6:12.
3. Các tội nhân làm theo sự ưa muốn của cha mình là ma quỷ - Giăng 8:44.
4. Các thánh đồ đôi khi vô tình để cho Sa-tan sử dụng mình như Phi-e-rơ đã làm ghi ở Ma-thi-ơ 16:22,23. Chúa Jêsus nhìn Phi-e-rơ nhưng rủa sả Sa-tan là kẻ nói qua miệng.
VII. SỐ PHẬN CỦA SA TAN.
1. Vào một ngày tương lai Sa-tan bị đuổi khỏi thiên đàng - Khải 12:7 - Ngày nay, Sa-tan có phép lên thiên đàng.
2. Rồi Sa-tan sẽ bắt đầu xúi giục người ta chống nghịch Đức Chúa Trời - Khải 12:12.
3. Sa-tan sẽ bị một thiên sứ đem xiềng - Khải 20:1 -3.
4. Sa-tan sẽ bị ném xuống vực sâu không đáy trong 1.000 năm Khải 20:3.
5. Sau 1.000 năm Sa-tan sẽ đi ra dỗ dành, xui giục người ta nổi dậy chống nghịch Đức Chúa Trời. Khải 20:7,8.
6. Sa-tan bị đánh bại và bị ném xuống hồ lửa đời đời - Khải 20:7-10.
KẾT LUẬN:
Sa-tan có quyền năng, nhưng Đức Chúa trời là Đấng toàn năng. Sa-tan vĩnh viễn bị đánh bại ở thập giá. Chúng ta hãy thường xuyên tuyên bố chiến thắng trên Sa-tan qua huyết báu nơi Gô-gô-tha - Khải 12:11.
LỜI GIỚI THIỆU:
Niềm tin nơi sự hiện hữu của các tà linh được phổ biến giữa vòng các dân tộc từ thời kỳ sơ khai của nhân loại. Giữa những dân tộc bán khai, những tà linh được người ta tin là do các linh hồn người chết trở về khuấy rối người sống.
Những người xưng rằng đã thấy ma quỷ thì cho rằng chúng hiện hình về như hình người, hình thú vật, hay ma lai các loại, nhưng thường thường tà linh là các linh không thấy được. Chúa Jêsus nhìn nhận sự thực hữu của ma quỷ, và sách tin lành Mác kể lại nhiều câu chuyện Chúa Jêsus đuổi quỷ. Ngày nay có ma quỷ không? Đây là câu hỏi nhiều người muốn biết, và tôi tin là có.
I. NGUỒN GỐC MA QUỶ.
Kinh thánh không nói rõ về vấn đề này, nhưng câu trả lời ngày nay được thừa nhận chung là lý thuyết sau đây:
1. Khi Sa-tan phạm tội chống nghịch Đức Chúa trời trong Ê-sai 14:12-20, Ê-xê-chi-ên 28:11-19, một số người nói rằng nó không phạm tội một mình, nhưng nó là lãnh tụ một nhóm thiên sứ. Khi Sa-tan sa ngã, nó và các thiên sứ của nó bị đuổi ra ngoài và những thiên sứ này trở thành quỷ sứ. Trong Ma-thi-ơ 12:26 Sa-tan được trình bày như là vua của các quỷ nhỏ hơn.
2. Một số thấy trong Sáng 6:1 -6 có các thiên sứ xuống trần gian và lấy những người đàn bà mà họ ưa thích. Con cái của những cuộc tình này là những người khổng lồ và sau khi chết họ trở thành quỷ sứ. Những người khác giải thích khúc Kinh thánh này là cuộc hôn nhân của dòng dõi kính sợ Chúa của Sết và dòng dõi bất kính Ca-in. Nếu điều này là đúng thì điều gì đã khiến con cái họ trở thành người khổng lồ, những siêu nhân Sáng 6:4. Từ ngữ "các con trai của Đức Chúa Trời" ở đây và trong Gióp 1:6 "các con trai của Đức Chúa Trời" đến trình ở trước mặt Đức Chúa trời lá một. Các con trai của Sết chắc chắn không thể đến hầu Đức Chúa trời ở thiên đàng, điều này ngụ ý "con trai Đức Chúa trời" là các thiên sứ.
3. Lời giải thích thứ 3: các quỷ sứ vốn là các linh của một dòng giống thời tiên A-đam đã bị hư mất giữa hai câu đầu Sáng 1, và được mô ta trong Giê-rê-mi 4:23-26:"...chẳng còn một người..." , ngụ ý trước đó đã có người ở.
II. SỰ HIỆN HỮU CỦA MA QUỶ NGÀY NAY.
Kinh thánh cho thấy rõ trong thời Chúa Jêsus tại thế, có rất nhiều ma quỷ. Ngày nay, con người tự hào về thời đại văn minh tiên tiến, khước từ lời chứng của Kinh thánh, xem đó là sự mê tín còn sót lại của thời kỳ trung cổ hay chỉ là một trò đùa.
Các tác giả Tân ước tin chắc nơi sự hiện hữu của ma quỷ, và Giăng trong Khải 9:20 nói về một thời kỳ trong tương lai (thời đại nạn) con người sẽ tiếp tục thờ lạy ma quỷ. Ngày nay, nhiều dân tộc kém văn minh đang là những kẻ thờ ma lạy quỷ rất nhiệt tình. Hiện nay, ở nhiều nơi vẫn có người bị quỷ ám và ma quỷ đã sử dụng miệng lưỡi của những nạn nhân này.
III. BẢN CHẤT CỦA MA QUỶ.
Ma quỷ là các hữu thể thần linh. Trong Ma-thi-ơ 8:16, Chúa Jêsus đã đuổi các tà linh. Trong Mác 1:23 ma quỷ được gọi là tà ma. Ma quỷ và các tà linh cũng là một. Phao-lô nói rằng chúng ta chiến đấu chẳng phải cùng "thịt và huyết "Ê-phê-sô 6:12, nhưng cùng quyền lực phi vật chất, vô hình chốn không trung.
Ma quỷ dầu là linh, nhưng có thân vị và những hữu thế thông minh. Mác 5:10 Lu-ca 4:34, Sáng 3:1, II Cô-rinh-tô 11:14. Bởi vì sự hiểu biết siêu nhiên của chúng nó con người đã cố gắng tìm biết trước những biến cố tương lai qua chúng nó, người ta thường suy đoán số mệnh qua các tà linh.
Chúng nó còn được xem như là những tà linh vô đạo đức, không thánh sạch Ma-thi-ơ 10:1, Mác 1:27, Rom 6:13, Lu-ca 8:28.
Chúng có sức mạnh siêu nhiên đòi hỏi một số người mạnh sức mới giữ người bị quỷ ám được. Chúng gây ra sự điếc, mù, dơ dáy, tự tử...
IV. CÁC HOẠT ĐỘNG CỦA MA QUỶ.
1. Chúng chống lại Đức Chúa trời và tìm cách đánh bại ý của Ngài. Sa-tan là kẻ kiện cáo anh em. Sa-tan bị giới hạn ở một nơi, nhưng các tôi tớ của nó là ma quỷ là các lực lượng tích cực thâu thập các tin tức cho nó. Khải 12:10, 2:13.
2. Chúng áp bức con người và tìm cách ngăn trở công việc của họ. Gióp 1:12. Lu-ca 13:16 người đàn bà đã bị Sa-tan áp bức 18 năm. (Đó là Sa-tan hay tôi tớ quỷ sứ của nó). Sa-tan không phải là vô sở bất tại, vô sở bất năng hay vô sở bất tri, cho nên phần lớn các nơi trong lãnh thố hoạt động của nó phải có các sứ giả nó là ma quỷ. Ma quỷ làm cho người đau buồn bằng cách làm đau thân xác và làm loạn trí của con người. Mác 1:25-27, 5:1-20.
3. Tuy nhiên, ma quỷ làm thành mục đích của Đức Chúa trời. Đức Chúa trời dùng một linh nói dối để hành phạt vua gian ác là A-háp 1 Vua 22:23, Khải 16:13-16 ma quỷ sẽ dụ dỗ đám quân chống nghịch Đức Chúa trời đến A-ma-ghê-đôn.
V. TỔ CHỨC CỦA MA QUỶ.
Sa-tan có mặt ở khắp nơi, dường như nó có mặt ở khắp nơi cùng một lúc, nhưng thật ra nó bị giới hạn ở một lãnh thổ địa lý nào đó vào một thời điểm nhất định. Ngài của Sa-tan ở Pergamos Khải 2:13, nhưng từ đó dường như nó đi chuyến nhiều lần và có lẽ ngày nay ở Hollywood hoặc Moscow. Sa-tan điều hành một đám đông quỷ sứ được tổ chức kỷ lưỡng. Đa-ni-ên 7:19-20, Khải 12:4-7. Vương quốc của Sa-tan không phải là một nhóm rời rạc, Ma-thi-ơ 12:26, nhưng được mô tả như là một vương quốc gian ác tổ chức cách quy củ, có hệ thống. Sa-tan cai trị loài người Sa ngã bằng sự kiêu ngạo, tham vọng, ích kỷ, quyền lực, tham muốn và thú vui. Giăng 14:30, 18:36, Ê-phê-sô 2:2, 6:12, I Giăng 2:5-17. Sa-tan cũng cai trị các linh sa ngã như là một vương quốc gian ác được tổ chức kỹ. Một số các thiên sứ sa ngã cho đến ngày nay vẫn còn bị xiềng trong nơi tối tăm.
VI. NGÀY TẬN CỦA MA QUỶ.
Ngày tàn của các quỷ cũng như của Sa-tan đã được Đấng Christ đóng ấn ở thập giá. Vực sâu không đáy là nơi hình phạt trung gian cho ma quỷ Khải 9:11. Ma quỷ biết ngày tàn của nó không còn bao lâu, Ma-thi-ơ 8:29 "Hỡi Jêsus, con Đức Chúa trời chúng tôi với Ngài có can dự gì chăng? Ngài đến làm khó chúng tôi trước thời hạn sao?"
Sự hư mất đời đời của ma quỷ cũng như của Sa-tan là trong hồ lửa đời đời. "...lửa đời đời dành cho ma quỷ và các sứ của nó" (Ma-thi-ơ 5:41).
VII. CÁC HÌNH THỨC HÀNH ĐỘNG CỦA MA QUỶ.
1. Bói toán: Khả năng tiên đoán đúng về tương lai, Lê-vi ký 20:27 người hành nghề bói khoa bị xử tử.
2. Đồng bóng: là khả năng tiếp xúc, liên lạc với người chết, như Sau-lơ tiếp xúc Sa-mu-ên. I Sa-mu-ên 28:8. Đức Chúa trời ghét tội nầy 2 Sử ký 33:6, Lê-vi ký 10:6.
3. Sự tiên đoán: Điều này được ra thí dụ trong Ê-xê-chi-ên 21:21 bao gồm bói toán, các hình tượng, xem bộ lòng các chim thú.
4. Thuật số: Đây là một khoa học lớn của Ai-cập, Sáng 41:8, kế thừa sự pha trộn giữa khoa học (thiên văn học, chiêm tinh học) với các tà linh quen thuộc. Ngày nay, điều nầy được thực hành bằng thôi miên học, chữa trị bệnh thần kinh và đoán số tử vi. Chúng ta không nên tìm sự chữa bệnh theo các thần bí.
5. Phép phù thủy: Việc này liên hệ đến các câu thần chú về thiên văn học, hóa học và các tà linh quen thuộc, Ê-sai 47:9 -13, nó được nhắn đến trong Công 19:18,19 và tất cả đều bị đốt.
6. Ma thuật: Là sự thông đồng có ý thức với các tà linh. Tội này được lên án trong Ga-la-ti 5:20. Đây chính là sự thờ lạy ma quỷ và bị kể là sự phản nghịch I Sa-mu-ên 15:23.
Muốn hiểu thêm đề tài nầy, tìm xem cuốn "Giữa Đấng Christ và Sa-tan " Của Kurt Koch, là chuyên gia về đề tài nầy.
Kết luận:
Có 4 sự thử nghiệm giúp trong việc nhận biết người nào bị quỷ ám hay người nào bị ma quỷ ảnh hưởng.
1. Những người liên hệ với các tà linh luôn luôn làm việc trong bóng tối.
2. Các linh không chịu nhỉnh nhận Sa-tan là hữu thể xấu xa.
3. Chúng ghét danh Chúa Jêsus Christ và câu "huyết của Đấng Christ".
4. Chúng từ chối không nhận Chúa Jêsus Christ đến trong xác thịt I Giăng 4:3.
Một số đề nghị giúp việc đuổi quỷ.
1. Chống lại Sa-tan nhơn danh Chúa Jêsus Christ, tốt nhất là sử dụng trọn cả danh hiệu của Chúa Jêsus Christ.
2. Lấy đức tin cầu nguyện và mời càng nhiều người cùng tham gia cầu nguyện với bạn, không nên hành động một mình bao giờ trừ trường hợp quá khẩn cấp.
3. Nếu quỷ cứng đầu hãy kiêng ăn cầu nguyện Mác 9:29.
4. Nói và hát nhiều về huyết Chúa Jêsus Christ Khải 12:11 "thắng nhờ huyết của chiên con."
5. Trích dẫn và đọc Kinh thánh những đoạn chứng tỏ Đấng Christ đã chiến thắng cả các quyền lực của ma quỷ.
LỜI GIỚI THIỆU:
Bài học nầy trích từ quyển "Làm thế nào chống cự ma quỷ " của F. J. Perryman.
Trong bài học trước chúng ta biết rằng Sa-tan là kẻ thủ có thực, sống động.
I Phi-e-rơ 5:8,9 "Hãy tiết độ và tĩnh thức, kẻ thù nghịch anh em là ma quỷ như sư tử rống." Ê-phê-sô 4:27, nếu chúng ta không chống cự ma quỷ, mọi sự sẽ sai lạc cả vì chúng ta không vâng lời Đức Chúa Trời. Không nên nhường chỗ cho ma quỷ.
Sa-tan tấn công mọi con cái thật của Đức Chúa Trời, bạn và tôi không thoát ra khỏi quy luật này.
" Hãy chống cự " nghĩa là đứng vững, kiên định chống trả và chiến đấu chống lại nếu cần. "Hãy tiết độ " nghĩa là cảnh giác, tự chế cách sáng suốt. "Hãy tỉnh thức " nghĩa là thức canh như người lính canh, luôn luôn tỉnh thức nhìn và lắng nghe sự xuất hiện của kẻ thù.
Sa-tan là tên nói dối, giết người, chia rẽ, giả mạo, sư tử rống hay thiên sứ sáng láng. Nhiều người cố gắng chống cự cuộc chiến tranh thụ động nói rằng "Tôi chỉ tin cậy Chúa và không để ý gì đến Sa-tan. " Đức Chúa Trời phán "Hãy mạnh mẽ đứng lên, rút gươm ra,chống cự đứng vững và chiến thắng."Không phải chỉ các anh hùng đức tin mới chiến tranh với Sa-tan, nhưng mỗi người tín đồ đều phải đương đầu với nó. Cuộc chiến tranh giữa Đức Chúa Trời và Sa-tan đã bắt đầu trong Ê-sai 14 và Ê-xê-chi-ên 28, còn tiếp tục cho đến ngày nay. Sáng 3:15 nói đến sự thù nghịch liên tục giữa Sa-tan và loài người. "Tôi được tái sanh thiên thượng không phải để chiến bại, nhưng là để chiến thắng." - Perryman -
I. CÁC CÁCH SA TAN TẤN CÔNG NGƯỜI CƠ ĐỐC. II Cô-rinh-tô 2:11.
1. Sa-tan khiến chúng ta lười biếng, một tinh thần nặng nề chán nản xâm chiếm ta, trí óc trở nên tối tăm, mệt mỏi u mê và không còn tham vọng. Có lẽ chúng ta kết tội cho sự mất ngủ, thời tiết, việc ăn uống hay áp lực của bổn phận. Hãy xét lại từng điều một: Tôi có ngủ đầy đủ không? Thời tiết bây giờ có nóng hơn trước không? Bữa ăn của tôi có đủ chất bổ không? tôi có bận rộn quá hay Không? Nếu những câu trả lời đều là không thì chúng ta có thể nhận biết đó là sự tấn công của Sa-tan và chúng ta hãy quở trách nó trong danh Chúa Jêsus Christ, Sa-tan bắt buộc phải xa cách ta Gia-cơ 4:7 Hãy chống cự ma quỷ thì nó sẽ lánh xa anh em."
2. Sự mất ngủ: Nếu Sa-tan thành công trong việc bắt chúng ta thao thức mất ngủ, các giác quan của ta trở nên tồi tệ, hoạt động yếu ớt, sinh hoạt bình thường sẽ trở nên uể oải.
3. Áp lực của nhiệm vụ: Việc này khiến ta mệt mỏi, chóng bị ngợp và dễ cáu kỉnh, nếu chúng ta quá bận rộn, quá tích cực, sự trễ nải có thể làm ta thất bại và ma quỷ sẽ thắng thế trên chúng ta. Sa-tan có thể gây ra nạn kẹt xe để làm trễ nải công kiệt của chúng ta nhằm cố gắng làm cho chúng ta điên lên. Hãy cẩn thận trong những lúc có người quấy rầy và trẻ con làm phiền ta.
4. Căng thẳng tinh thần: Sa-tan cố gắng tấn công thể xác và gây cho ta căng thẳng thần kinh hoặc sụp đổ tinh thần. Nếu nó thành công trong việc này thì trong vị trí yếu kém của mình, chúng ta dễ phạm tội.
5. Sa-tan làm hỏng tâm trí: II Cô-rinh-tô 4:4 Sa-tan đã một lần làm mù tâm trí người chưa được cứu. Ngày nay Sa-tan đang xung trận chiến tâm trí và cố gắng nắm quyền kiểm soát. Sa-tan cố gắng thâm nhập vào các tâm trí qua một tư tưởng xấu, một ý xấu hoặc một cảm tưởng xấu. Kinh thánh dạy người nghĩ trong lòng thế nào thì người như thế ấy. Sa-tan có thể xâm nhập vào tâm trí ta qua một nguồn gốc cay đắng, sự thù hằn, một thất bại (trong tình yêu, nhà trường, công việc), hoặc sự kiêu ngạo.
6. Bằng sự chết: Sa-tan là tay giết người, và tìm các tai nạn để đòi mạng sống con người. Đức Chúa trời nắm chìa khóa của sự sống và sự chết, nhưng đôi khi Đức Chúa trời gia quyền này cho Sa-tan. Trong Gióp 1:12, Đức Chúa trời cho Sa-tan quyền phá hoại gia đình ông Gióp, hậu quả là 7 con trai và 3 con gái ông cùng chết một ngày. Gióp 1:18,19
7. Bằng sự tự tử: Sa-tan cố dụ Chúa Jêsus tự tử bằng cách nhảy từ tháp chuông đền thờ xuống đất trong cơn cám dỗ Ma-thi-ơ 4:6. Perryman kể câu chuyện về một người đàn ông kia không thể tự mình cạo râu được vì ông bị cám dỗ rất mạnh phải lấy dao cắt cổ mình. Không nghi ngờ gì, đây là câu giải thích cho hầu hết các trường hợp tự tử, Sa-tan đã bước vào ngưỡng cửa.
8. Bằng các cảm giác, các tâm trạng: Hãy coi chừng các tâm trạng của mình cách chặt chẽ, và tìm kiếm sự chiến thắng của Đấng Christ trên các tâm trạng đó nhanh chóng và thường xuyên.
9. Thái độ tiêu tiền: Câu chuyện kể về một người đàn bà sống trong 16 căn hộ trong vòng 10 năm và mỗi nhà đòi phải sắm toàn đồ mới, thật là phí thì giờ và tiền bạc. Sa-tan thường lợi dụng điều tốt khiến chúng ta phạm tội vì quá lạm dụng.
10. Thói quen chạy theo mốt: Đức Chúa trời dạy người đàn bà hãy ăn mạc khiêm tốn, nhiều sai lầm trong việc ăn, lo chạy theo mốt bất chấp hậu quả có thể gây ra cho người khác phái. Một số người đàn ông đã phạm tội ô uế nhất và sau đó tự thú "Tôi không có ý định làm điều đó, nhưng ao cách ăn mặc của cô ấy tôi không thể cưỡng lại được."
11. Sự cám dỗ trong việc nói năng không xứng đáng mở cửa cho các tà linh: Một số người tìm cách thiền định, làm trong sạch chính mình bằng các câu thần chú và Sa-tan rất vui thích trong việc nói thêm vào.
12. Tìm biết ý chỉ của Đức Chúa trời: Sứ điệp của Đức Chúa trời thì ràng và đặc biệt. Sa-tan đến với những linh hồn đang tìm kiếm với nhiều gợi ý, nó gây ra sương mù trong tâm trí bằng cách tạo ra nhiều nghi ngờ, bất định. Hãy nhận biết sự khác biệt: tiếng nói của Đức Chúa trời thì rõ ràng, dứt khoát còn tiếng nói của Sa-tan thì bất định, mù mờ.
13. Chiêm bao ban ngày: Đây là một trong những lãnh vực rất kết quả của ma quỷ. Có những giấc chiêm bao ban ngày tốt và xấu, hãy cảnh giác về việc thụ động thiếu kiểm soát các hoạt động tâm trí. Tội trắng trợn thường là sự vận động các giấc mơ ban ngày được thực hiện.
14. Những cảm tưởng: Điều này giống như các tư tưởng, cảm giác cần phải được cảnh giác, đừng cưu mang ấp ủ các lời nói: "Tôi không hiểu anh ta có nói thế để sỉ nhục tôi không?", "Tại sao anh ta lại nói như thế?." Chúng ta hãy sống trong đức tin của con Đức Chúa trời, đừng nên sống bằng những cảm tưởng.
15. Sự phê bình: Chúng ta phải sẵn sàng tiếp nhận nó, chúng ta có thể bị hiểu lầm bị giải thích sai. Điều này có thể chế ngự ta và đến chỗ chán nản thất vọng.
16. Tuổi già: Bạn đã hầu việc Chúa cách trung tín, Sa-tan nói: "Bây giờ anh đã quá già không chống cự được đâu, hãy nghỉ ngơi đi, vui hưởng sự an nhàn." Đây là lời nói dối của ma quỷ.
17. Bất mãn: là một trong những vũ khí chính mà ma quỷ thường dùng.
18. Các mục sư, thầy giảng Tin lành gặp rất nhiều sự cám dỗ nên chúng ta hãy cầu nguyện cho họ.
a. Sa-tan cám dỗ ta thường dùng câu nói đùa vô bổ trước lời kêu gọi tội nhân và thế là Thánh linh từ giã ta.
b. Sự cám dỗ kiêu ngạo thuộc linh: - Thật là lời cầu nguyện hay - Bài giảng hay quá.
c. Khải tượng và kết quả lớn lao: - Tôi - trung tâm của cơn đại phục hưng, đông người dự quá, hàng trăm người tin Chúa.
19. Giáo sĩ hoạt động trong lãnh thổ của Sa-tan: - Hoàn cảnh phức tạp - Nhiều tranh chấp, thất vọng - Bất mãn - Suy sụp tinh thần - Lạc hướng, mất thanh danh và hậu quả là vị giáo sĩ dường như bị bao phủ trong bóng tối.
II. LÀM SAO CHỐNG CỰ MA QUỶ.
1. Nhìn nhận rằng những việc đó là sự tấn công của ma quỷ Gia-cơ 4:7.
2. Chống cự, chiến đấu, rút gươm ra Ê-phê-sô 6:11.
3. Sử dụng các vũ khí được trang bị cho thánh đồ được liệt kê ở Ê-phê-sô 6:10-18.
a. Thắt lưng bằng Lẽ thật. (câu 14), ngực được bảo vệ bằng áo giáp công bình.
b. Chân mang giày sẵn sàng của Tin lành bình an (câu 15)
c. Thuẫn đức tin (câu 16) để bảo vệ thân thế.
d. Mão trụ cứu rỗi đội đầu (câu 17), tiến công bằng gươm Thánh linh là lời Đức Chúa Trời.
4. Mặc lấy Đấng Christ: Rô-ma 13:14 - Hãy mặc lấy Chúa Jêsus Christ, chớ chăm về xác thịt mà làm cho phỉ lòng dục nó - Đấng Christ trong tôi phải là Đấng chiến thắng.
5. Sử dụng lời Chúa: Đấng Christ trong cuộc cám dỗ lớn ở Ma-thi-ơ 4:1 -11, đã không cầu nguyện hay kêu xin các thiên sứ hộ vệ Ngài, nhưng đã 3 lần Ngài trưng dẫn Kinh thánh cho Sa-tan, câu 4,7,10.
6. Hãy tiến công-tỏ ra đời sống đắc thắng.
7. Sử dụng ý chí hay sức mạnh của ý chí bằng cách nói rằng: "Tôi quyết sẽ không phạm ội - Tôi quyết tâm chiến thắng tội lỗi nhờ sự ngự trị của Đấng Christ và ân điển Ngài."
8. Tìm kiếm sự dẫn dắt của Đức Thánh Linh, Đức Thánh Linh sẽ hướng dẫn chúng ta, cho chúng ta biết đó có phải là sự cám dỗ của ma quỷ hay không?
9. Cầu nguyện: Ê-phê-sô 6:18 "Hãy nhờ Đức Thánh Linh, thường thường làm đủ mọi thứ cầu nguyện và nài xin... "
10. Nài xin huyết Chúa bao phủ bạn. Sa-tan luôn luôn chạy trốn khỏi huyết của Chúa Jêsus Christ. Khải 12:11.
KẾT LUẬN:
Nếu bạn phạm tội, hãy lập tức ăn năn và nhìn nhận sự tha thứ theo I Giăng 1:9 "Còn nếu chúng ta xưng tội mình...." Hãy trỗi dậy, rút gươm ra và quyết tâm chiến thắng Sa-tan trong cuộc chiến thuộc linh.
LỜI GIỚI THIỆU:
Một trong những sai lầm hiện nay là cho sự xưng nghĩa và sự tha thứ chỉ là một. Thật ra, sự xưng nghĩa còn hơn cả sự tha thứ, xưng nghĩa là "tuyên bố là công nghĩa." Vấn đề của Đức Chúa Trời trong sự cứu chuộc nhân loại là xưng tội nhân là công nghĩa mà không thể bỏ qua tội lỗi của họ được. Đức Chúa Trời không thể thỏa hiệp trong sự phán xét và nhẹ tay đối với tội lỗi. Luật pháp và luật công bình đòi hỏi án chết cho mọi tội lỗi. Ê-xê-chi-ên 18:4 "Linh hồn nào phạm tội thì sẽ chết "Ê-xê-chi-ên 18:20. Sự thương xót của Đức Chúa Trời thôi thúc Ngài giải cứu kẻ phạm tội vì Ngài yêu họ.
Trong một tòa án của loài người, vị quan tòa tuyên bố trắng án cho người vô tội và kết án người có tội. Phục truyền 25:1 "Phải định công bình cho người công bình và lên án kẻ có tội "Đức Chúa Trời từ chối tuyên bố vô tội cho người có tội " Xuất 23:7 Ta không kể kẻ có tội là vô tội, Đức Chúa Trời tuyên án những quan tòa làm sai luật công bình. Ê-sai 5:22,23...
Lu-ca 16:15 Chúa Jêsus lên án người PHA-RI-SI vì họ đã tự xưng công bình trước mặt Đức Chúa Trời. Rom 2:13 "Kẻ làm theo luật pháp được xưng là công bình." Vấn đề đối với Đức Chúa Trời là con người có thể làm trọn luật pháp được không?
Rom 3:23 "Vì mọi người đều đã phạm tội... ." Vấn đề trở nên quá phức tạp và tế nhị đến nỗi chỉ có sự khôn ngoan vô hạn và ân điển của Đức Chúa Trời mới có đủ khả năng giải quyết. Đức Chúa Trời giải quyết vấn đề như thế này: Chúa Jêsus đã tình nguyện làm người để sống một đời trọn vẹn theo luật pháp, đạt được sự công nghĩa, rồi ban sự công nghĩa cho người tin Ngài như một món quà, một tặng phẩm.
I. ĐỊNH NGHĨA. (Sự xưng nghĩa là gì?)
Sự xưng nghĩa là sự được kể là công nghĩa trước mặt Đức Chúa Trời khi tội nhân được đặt vào sự công nghĩa của Chúa Jêsus Christ, và Đức Chúa Trời nhìn thấy người ấy trọn vẹn trong Đấng Christ.
Vì vậy Đức Chúa Trời nhìn nhận tội nhân là vô tội, là công nghĩa trong Chúa cứu thế, được che giấu trong thân vị kỳ diệu của Ngài. Sự xưng nghĩa là hành động pháp lý của Đức Chúa Trời khi mà những người đặt đức tin nơi Đấng Christ được tuyên bố là công nghĩa trước mặt Ngài, được trắng án và khỏi bị hình phạt.
Rom 4:3 "Áp-ra-ham tin Đức Chúa Trời và điều đó được kể là công bình của ông"
Rom 4:5 "Nhưng ai không làm chi hết... "
II. NỘI DUNG CỦA SỰ XƯNG NGHĨA.
1. Sự tha tội và sự xóa bỏ án phạt: Đối với Đức Chúa Trời thánh khiết và công nghĩa thì sự tha tội không phải là việc nhỏ mọn, nhưng thực ra Đức Chúa Trời thích tha thứ và tẩy sạch tội lỗi. Mi-chê 7:18,19"... Ngài ném mọi tội lỗi của họ xuống biển sâu." Trong sự xưng nghĩa, mọi tội lỗi chúng ta được tha thứ và án phạt chúng ta cũng được xóa bỏ. Công 13:38,39 "Lại nhờ Ngài hễ ai tin thì được xưng công bình...."
2. Sự công bình của Đấng Christ được kể cho người tin Chúa: Sự tha một tội nhân không giống một tù nhân đã thi hành án xong không còn bị phạt mà lại không có quyền công dân. Trong Đấng Christ, tội nhân được đầy đủ quyền công dân.Rom 3:22 "Sự công bình của Đức Chúa Trời, bởi sự tin đến Đức Chúa Jêsus...."Sự công bình trọn vẹn của Đức Chúa Jêsus Christ được kể cho tội nhân tin cậy Chúa.
III. ĐIỀU KIỆN CỦA SỰ THA THỨ Đức tin -
TỘI NHÂN kêu gào: "Làm thế nào tội nhân được món quà công nghĩa nầy?"
Câu trả lời là do "TIN " Chúa Jêsus làm Chúa Cứu Thế và Chúa của mình. Trong Ga-la-ti 2:16 "...chính chúng tôi đã tin Đức Chúa Jêsus Christ để được xưng công bình bởi đức tin trong Đấng Christ..." Rom 3:26 "Ngài tỏ ra mình công bình và xưng công bình kẻ nào tin đến Đức Chúa Jêsus."Rom 4:5"... đức tin kẻ ấy được kể là công bình cho mình."
Người thánh thiện nhất của loài người cần được cứu rỗi bởi đức tin nơi Đức Chúa Jêsus Christ, và một tội nhân gian ác cũng được xưng nghĩa cùng một phương cách y như vậy.
IV. CÁC PHƯƠNG TIỆN XƯNG NGHĨA.
1. Nhờ Đức Chúa Trời: Đức Chúa Trời là tác giả và là người thực hiện sự xưng nghĩa, Rom 8:33 "Ai sẽ lên án kẻ lựa chọn của Đức Chúa Trời? Đức Chúa Trời là Đấng xưng công bình cho những kẻ ấy." Sự xưng nghĩa là hành động pháp lý được chính Đức Chúa Trời toàn năng tuyên bố. Ngài tuyên bố một tội nhân là trắng án, là vô tội căn cứ trên sự vô tội của Chúa Jêsus.
2. Nhờ ân điển: Ân điển là nền tảng hay là nguồn của sự xưng nghĩa Rom 3:24, Tít 3:7.
3. Nhờ huyết: Huyết cũng là nền tảng của sự xưng nghĩa Rô 5:9.
4. Nhờ sự phục sinh: Sự phục sinh là sự thừa nhận hay sự công bố của sự xưng nghĩa. Rô 4:25 "Ngài đã sống lại để xưng công bình cho chúng ta."
V. CHỨNG CỚ CỦA SỰ XƯNG NGHĨA. (Các việc làm)
Người thực sự được xưng nghĩa sẽ thề hiện sự kiện này ra trong các việc lành Gia-cơ 2:21-23. Khúc Kinh thánh này tỏ ra mối liên hệ chính đáng giữa đức tin và việc lành. Bởi đức tin chúng ta được xưng nghĩa, nhưng sau đó chúng ta sẽ sống một đời sống công nghĩa, thể hiện ra các việc lành.
VI. KẾT QUẢ CỦA SỰ XƯNG NGHĨA.
1. Bình an: Rom 5:1 Chúng ta đã được xưng công bình bởi đức tin thì hòa thuận lại với Đức Chúa Trời. (tức là được sự bình an)
- Bình an trong lương tâm qua sự thương xót của Đức Chúa Trời.
- Bình an trong lòng qua tình yêu của Đức Chúa Trời.
- Bình an trong tâm trí qua Lẽ thật của Đức Chúa Trời.
- Bình an trong linh hồn qua sự hiện diện của Đức Chúa Trời.
2. Bước vào sự hiện diện của Đức Chúa Trời qua sự thờ phượng, ngợi khen, kêu cầu: Rom 5:2 Chúng ta cậy đức tin vào trong ơn nầy. Bước vào ơn điển của Đức Chúa Trời là địa vị mới qua sự xưng nghĩa.
3. Sự hoạn nạn: Mục sư Sa-mu-ên Matthew ở Madras, Ấn độ, rất cẩn thận chỉ ra điều mà ông cho là 2 hậu quả lớn của sự xưng nghĩa: Đó là sự hòa thuận với Đức Chúa Trời và sự bị bắt bớ trong thế gian nầy. Rom 5:3, II Ti-mô-thê 3:12.
KẾT LUẬN :
Chúng ta được Đức Chúa Trời tuyên bố trắng án. Rom 8:33 Chúng ta được xưng nghĩa nhờ công lao của Chúa Jêsus. Ê-sai 53:11 "Tôi tớ Công bình Ta sẽ lấy sự thông biết về mình làm cho nhiều người được xưng công bình... "
Chúng ta được xưng nghĩa qua trung gian đức tin Rom 5:1. Bằng cớ của sự xưng nghĩa là việc làm của chúng ta Gia-cơ 2:14. Chúa Jêsus phán trong Lu-ca 8:13,14. khi tội nhân cầu nguyện "Lạy Đức Chúa Trời xin thương xót tôi" thì "Trở về nhà được xưng công bình."
LỜI GIỚI THIỆU:
Sự qui đạo và sự tái sanh là hai việc khác nhau, sự qui đạo là hành động từ bỏ tội lỗi quay về với Đấng Christ, còn sự tái lâm là được tái tạo trở thành một tân tạo vật (người mới), nhờ quyền năng của Chúa Thánh Linh.
Sự tái sanh là công tác đưa chúng ta vào trong gia đình của Đức Chúa Trời. Con đường duy nhất để trở nên một tín đồ Đấng Christ là được tái sanh, sanh ra bởi quyền phép của Chúa Thánh Linh.
Sự tái sanh là cửa vào sự cứu rỗi và cuối cùng là vào thiên đàng.
I. ĐỊNH NGHĨA: Sự tái sanh là gì?
Sự tái sanh có nghĩa là sự tái tạo, sự sanh mới, sanh lần thứ hai, sự tạo dựng mới. Sự tái sanh là sự sáng tạo một đời sống mới gọi là "người mới " do quyền năng của Chúa Thánh Linh. Giống như sự sanh ra phần xác, đó là một biến cố chớ không phải là một tiến trình, mặc dầu từ lúc cảm xúc ăn năn về tội lỗi lần đầu cho đến lúc được tái sanh có thể trải qua nhiều ngày, nhiều tuần, nhiều tháng, thậm chí nhiều năm. Tuy nhiên, sự tái sanh thực sự xảy ra trong giây lát khi một người vượt khỏi sự chết mà đến sự sống. Người tín đồ có một ngày sinh nhật thứ hai và bắt đầu một cuộc sống mới.
II. SỰ CẦN THIẾT CỦA SỰ TÁI SANH :
Sự cần tái sanh? Có phải chỉ những người rất tốt lành như ông Ni-cô-đem không? Có phải chỉ những kẻ rất xấu xa như ông Phao-lô bắt bớ Hội thánh không? Đó có phải là vấn đề của ý kiến riêng và sự lựa chọn hay không?
Kinh thánh dạy rõ ràng rằng tất cả mọi người đều cần được tái sanh, Lời Chúa Jêsus như một mạng lịnh.
- Giăng 3:3 "Quả thật, quả thật ta nói cùng các ngươi, nếu một người chẳng sanh lại thì không thể thấy nước Đức Chúa Trời." Giăng 3:7 "Ngươi phải sanh lại." Không có một trường hợp ngoại lệ nào cho con người, không phân biệt phái tính, tuổi tác, địa vị hay trình độ, ai ai cũng cần được tái sanh. Không có gì có thể thay thế cho sự tái sanh, không được tái sanh là bị hư mất.
- Ga-la-ti 6:15 "Vì trong Chúa Jêsus vấn đề không phải là chịu cắt bì hay không chịu cắt bì, nhưng là trở nên người mới." Trở nên người mới là được tái sanh.
- Giê 13:23 "Người Ê-thi-ô-pi có thể thay đổi da mình, con beo có thay da rằn nó được không? Nếu được thì kẻ làm dữ quen rồi có thể làm lành được."Không tái sanh thì không làm gì tốt lành được.
- Giê 17:9 "Lòng người ta là dối trá hơn mọi vật và rất là xấu xa ai có thể biết được." Chỉ có Đức Chúa Trời mới có thể ban cho con người một tấm lòng mới, trong sạch: Đây là sự tái sanh.
Tình trạng tội lỗi chung của nhân loại đòi hỏi một sự thay đổi, sự sanh lại cho sự cứu rỗi. Sự thánh khiết của Đức Chúa Trời đòi hỏi con người phải tái sanh. Hê-bơ-rơ 12:14 "Hãy cầu sự bình an với mọi người cùng tìm theo sự thánh, vì nếu không nên thánh thì chẳng ai được thấy Đức Chúa Trời." Sự thánh khiết là xa lạ với con người tự nhiên, và sự thánh khiết nầy chỉ có thể nhận được qua sự tái sanh. để sống sự sống của Đức Chúa Trời, chúng ta phải có bản tánh của Đức Chúa Trời - Bản tánh thánh khiết của Đức Chúa Trời.
III. TÁNH CHẤT CỦA SỰ TÁI SANH.
1. Không phải do Báp têm: Báp têm là một nghi thức của Hội thánh ngụ ý rằng một người chịu báp têm là một Cơ đốc nhân đã đồng chết với Đấng Christ, đồng chôn và đồng sống lại và bây giờ đang sống hằng ngày với Đấng Christ. Đây không phải là sự cải tạo: Sự cải tạo là một hành động của bản tính cũ chuyển khỏi một số sự xấu xa nào đó trong khi sự tái sanh là một hành động siêu nhiên của Đức Chúa Trời, đó là một biến động thuộc linh, đó là cuộc cách mạng tâm linh.
2. Sự tái sanh là sự sống lại thuộc linh, một sự sống mới, một người mới. " Từ ngày sáng tạo đầu tiên mọi vật đều sanh sản tùy theo loại. Tội nhân sản sanh tội nhân." Chúng ta không thể thay đổi bản tính cũ hay cải tạo nó nhưng chúng ta cần sự sanh lại, cần sự truyền đạt một "loại " sự sống khác là bản tính thánh khiết của Đức Chúa Trời.
- II Cô-rinh-tô 5:17 "Nhưng nếu ai ở trong Đấng Christ thì nầy là người dựng nên mới, những sự cũ qua đi, nầy mọi sự đều trở nên mới."
- Ê-phê-sô 2:1 "Còn anh em đã chết vì lầm lỗi và tội ác mình." Một sự thay đổi từ chết qua sống, không phải là sự cải cách,đây là sự sống lại thuộc linh. Chúng ta được sanh ra lần thứ nhứt một cách thuộc thể và sanh ra lần thứ hai bằng sự tái sanh thuộc linh.
IV. NHỮNG NHÂN TỐ ĐƯỢC DÙNG TRONG SỰ TÁI SANH.
1. Lời của Đức Chúa Trời:
- Gia-cơ 1:18 "Chính Ngài theo ý muốn mình đã dùng lời chân thật sanh chúng ta."
- I Phi-e-rơ 1:23 "Anh em đã được lại sanh, chẳng phải bởi giống hay hư nát, nhưng bởi giống chẳng hư nát, là bởi Lời Hằng Sống và bền vững của Đức Chúa Trời." Một trong những lý do có ít người được tái sanh ngày nay qua sự rao giảng là không có đủ Lời của Đức Chúa Trời trong các bài giảng hiện tại.
- Ga-la-ti 3:2 "Ấy là cậy các việc luật pháp hay là bởi nghe và tin mà anh em đã nhận được Đức Thánh Linh? Đức tin được sanh ra do sự nghe Lời Đức Chúa Trời.
2. Đức Thánh Linh.
- Giăng 3:5 "Nếu một người chẳng nhờ nước và Thánh Linh mà sanh thì không được vào nước Đức chúa Trời."
- Giăng 3:6 Hễ chi sanh bởi xác thịt là xác thịt, hễ chi sanh bởi Thánh Linh là Thần. Sự sống thuộc linh phải sanh bởi Đức Thánh Linh.
- Giăng 3:8"...Hễ người nào sanh bởi Thánh Linh thì cũng như vậy. Chức vụ của Đức Thánh Linh Là trước hết cáo trách tội nhân và sau đó biến cải tội nhân tức là làm công việc thực sự đưa họ vào nước của Đức Chúa Trời.
V. PHƯƠNG PHÁP CỦA SỰ TÁI SANH.
1. Phương diện của Chúa:
- Giăng 1:13 "Là kẻ chẳng sanh bởi khí huyết, hoặc bởi tình dục hoặc bởi ý người, nhưng sanh bởi Đức Chúa Trời vậy."
- Chúng ta được sanh bởi ý chỉ của Đức Chúa Trời. Gia-cơ 1:18. Sự tái sanh là một hành động sáng tạo về phần của Đức Chúa Trời, đó không phải là sự cải cách bởi con người.
2. Phương diện con người:
- Giăng 1:12 "Nhưng hễ ai đã nhận Ngài thì Ngài ban cho quyền phép trở nên con cái Đức Chúa Trời, tức là ban cho những kẻ tin Danh Ngài." Phần con người là phải tin và tiếp nhận Chúa Jêsus Christ làm Chúa Cứu thế cho riêng bản thân mình.
- I Cô-rinh-tô 4:15"...Vì tôi đã dùng Tin lành mà sanh anh em ra trong Đức Chúa Jêsus Christ." Tin Lành là quyền phép của Đức Chúa Trời. (Rô-ma 1:16) có khả năng biến đổi đời sống con người.
Muốn được tái sanh, ta hãy tin và tiếp nhận Tin lành, Lời của Đức Chúa Trời. I Phi-e-rơ 1:25 "Lời đó là Tin lành đã giảng ra cho anh em."
Tác giả của sự tái sanh là Đức Chúa Trời. Nguồn của sự tái sanh là Đấng Christ, thực hành sự tái sanh là Đức Thánh Linh, trung gian của sự tái sanh là qua việc tiếp nhận Đấng Christ do tin Lời của Đức Chúa Trời.
VI. BẰNG CỚ CỦA SỰ TÁI SANH.
1. Người tái sanh sống đời sống công chính:
- I Giăng 2:29"... Người nào làm theo sự công Bình, ấy là kẻ bởi Ngài sanh ra."
2. Người tái sanh không sống đời sống tội lỗi:
- I Giăng 3:9 "Ai sanh bởi Đức Chúa Trời thì chẳng phạm tội." Bản tính mới của Đức Chúa Trời trong chúng ta không thể phạm tội.
- I Giăng 5:18 "Chúng ta biết rằng ai sanh bởi Đức Chúa Trời thì hẳn chẳng phạm tội."
3. Người tái sanh sẽ làm trọn mạng lịnh yêu thương :
- Lu-ca 10:27; I Giăng 4:7: "Kẻ nào yêu thì sanh bởi Đức Chúa Trời và nhìn biết Đức Chúa Trời."
4. Người tái sanh sẽ sống một sống đắc thắng:
- I Giăng 5:4 "Ví hễ sự gì sanh bởi Đức Chúa Trời thì thắng hơn thế gian."
5. Người tái sanh là người tin rằng tin rằng Jêsus là Đấng Christ. I Giăng 5:1 "Ai tin Đức Chúa Jêsus là Đấng Christ thì sanh bởi Đức Chúa Trời."
VII. CÁC KẾT QUẢ CỦA SỰ TÁI SANH.
o Tấm lòng được thay đổi.
o Tội lỗi bị ghét bỏ.
o Đấng Christ được yêu thương.
o Đời sống được thay đổi.
o Những ước muốn mới và thánh trào ra giống như một giếng nước Hằng sống. Giăng 4:14. Sự sống mới trào ra tình yêu và việc lành cho người khác.
o Giăng 7:38 "Kẻ nào tin thì sông nước Hằng Sống sẽ chảy từ trong lòng mình, y như Kinh thánh đã chép vậy."
KẾT LUẬN:
Sự tái sanh là hành động quyền năng của Đức Thánh Linh và vì "Thánh Linh như gió muốn thổi đâu thì thổi."
Sự tái sanh là một việc bí mật, mầu nhiệm vì con người "chẳng biết." Giăng 3:8. Nhưng sau đó có những bằng chứng và tự thể hiện ra bằng nhiều cách cho người chung quanh.
Chúng ta hãy cầu nguyện để mỗi một chúng ta sẽ bày tỏ những bằng cớ nầy hằng ngày trong cuộc sống của chúng ta.
LỜI GIỚI THIỆU:
Sự tái sanh bắt đầu đời sống mới trong linh hồn khi một người được sanh lại bởi Đức Thánh Linh.
Sự xưng nghĩa liên hệ đến thái độ mới của Đức Chúa Trời đối với linh hồn đó.
Sự nhận làm con nhận một người vào gia đình của Đức Chúa Trời với niềm vui cha con đối với Đức Chúa Trời là Cha của chúng ta.
Sự tái sanh là sự thay đổi bản tính, sự xưng nghĩa là sự thay đổi thế đứng, sự nên thánh là sự thay đổi tính nết, trong khi sự nhận làm con là sự thay đổi địa vị.
Trong sự tái sanh, người tính đồ trở nên một con cái của Đức Chúa Trời, và trong sự nhận làm con, người con đó nhận lấy địa vị của một người con trưởng thành, em bé trở thành người lớn.
- Ga-la-ti 4:7 "Dường ấy ngươi không phải là tôi mọi nữa, bèn là con và nếu ngươi là con thì cũng là kẻ kế tự bởi ơn của Đức Chúa Trời "
- Ga-la-ti 4:5 "Để chuộc những kẻ ở dưới luật pháp và cho chúng ta được làm con nuôi
Ngài "
Sự nhận làm con là sự lớn lên của chúng ta trong Đấng Christ và giữ lấy địa vị mới của chúng ta. Đây là 2 câu hỏi cho mỗi chúng ta suy nghĩ:
1. Có phải địa vị nầy tự động đạt được đồng thời với sự ăn năn tin Chúa hay không?
2. Một người được nhận làm Con Chúa có thể không được thừa hưởng cơ nghiệp và bị từ bỏ như là đứa con hoang đàng hay không?
I. Ý NGHĨA CỦA SỰ NHẬN LÀM CON :
Sự nhận làm con (adoption) là một từ ngữ Hy lạp có nghĩa là "địa vị của một người con."
- Rô-ma 8:15 "Nhưng anh em đã nhận lấy thần trí của sự làm con nuôi, nhờ đó chúng ta kêu rằng: A-ba "Cha "
- Ê-phê-sô 1:5 "Bởi sự thương yêu của Ngài đã định trước cho chúng ta được trở nên con nuôi của Ngài bởi Đức Chúa Jêsus Christ "
Trong thời Kinh Thánh Tân ước, chữ nầy có 2 nghĩa:
1. Hành động riêng của việc nhận một người lạ làm con vào trong gia đình.
2. Hành động công khai, hợp pháp của việc thừa nhận một người con làm kẻ kế tự.
Cho đến khi lễ nầy được cử hành, người con đó không khác bao nhiêu với người đầy tớ trong gia đình. Chữ nầy không đề cập đến mối liên hệ của chúng ta với Đức Chúa Trời là địa vị của chúng ta trước mặt Ngài. Sự nhận làm con là hành động của Đức Chúa Trời khi Ngài đặt người tín đồ đã được xưng nghĩa vào địa vị một người con trưởng thành và thừa hưởng những đặc quyền và trách nhiệm của địa vị đó.
Trong Xuất 2, Môi-se trở nên con nuôi của công chúa Pha-ra-ôn với tất cả quyền lợi và đặc quyền của địa vị đó khi ông đến tuổi thành nhân.
Trong Hê-bơ-rơ 11:24, Môi-se đã khước từ địa vị Ai cập của mình,vì "Bởi đức tin, Môi-se đến tuổi khôn lớn, bỏ danh hiệu mình là con con trai công chúa Pha-ra-ôn."
II. ĐIỀU KIỆN CỦA SỰ NHẬN LÀM CON.
Sự nhận làm con chỉ có một điều kiện duy nhất là cứ ở trong Đấng Christ liên hợp với Ngài.
- Ga-la-ti 3:26 "Vì chưng anh em bởi tin Đức Chúa Jêsus Christ, nên hết thảy đều là con trai của Đức Chúa Trời." Chúng ta không cần phải chờ đợi cho đến khi chúng ta đã thành ông thánh trong một năm hay mười năm, nhưng lập tức chúng ta bước vào mọi ơn phước của một người con thừa kế được thừa nhận đầy đủ của Đức Chúa Trời.
III. THỜI GIAN NHẬN LÀM CON :
1. Việc nầy xảy ra từ trước buổi sáng thế:
- Rô-ma 9:11"... hầu cho được giữ vững ý chí Đức Chúa Trời, là ý định sẵn bởi sự kén chọn tự do của Ngài, chẳng cứ việc làm, nhưng cứ Đấng kêu gọi."
Sự nhận làm con là một hành động ân điển về phần Đức Chúa Trời hoàn toàn do lòng thương xót của Ngài, chúng ta không xứng đáng hay làm bất cứ công đức nào để đạt được ơn thương xót nầy từ một Đức Chúa Trời thánh khiết được.
2. Việc nầy thực sự xảy ra vào giây phút một người tin nhận Chúa Jêsus Christ :
- I Giăng 3:2 "Hỡi anh em, bây giờ chúng ta là con cái của Đức Chúa Trời... ."
Quyền làm con là sự sở hữu hiện tại. Chúng ta có thể quả quyết: "Tôi là con của vua Trời" không phải là nô lệ nhưng là con kế tự của Ngài. Chúng ta không phải là con còn ở dưới quyền giám hộ nhưng đã là con trưởng thành trong gia đình.
3. Sự nhận làm con sẽ hoàn tất vào ngày sống lại, khi chúng ta bước vào sự hiện diện của Chúa.
- Rô-ma 8:23 "... đang khi trông đợi sự làm con nuôi tức là sự cứu chuộc thân thể chúng ta vậy."
Thường khi còn trong thế gian nầy chúng ta chưa được người ta thừa nhận như là con cái của Đức Chúa Trời. Vào ngày đó, chúng ta sẽ chiếm hữu địa vị chính đáng của chúng ta. Ngày nay, chúng ta bị xem như cặn bã của xã hội, đến ngày đó chúng ta sẽ là những người đồng trị với Vua trên muôn vua, Chúa trên muôn Chúa. Lúc đó, chúng ta sẽ bỏ bộ áo tầm thường của thân xác nầy để mặc lấy một thân thể mới vinh hiển giống như Chúa vậy.
IV. DẤU HIỆU CỦA SỰ NHẬN LÀM CON :
Dấu hiệu của một người được nhận làm con Chúa là người đó được Thánh Linh dắt dẫn. Rô-ma 8:14. Sự hướng dẫn bởi Chúa Thánh Linh là con đường đi đến địa vị làm con Chúa và cũng là bằng cớ của quyền làm con đó.
Đức Thánh Linh dẫn dắt người tín đồ vào lẽ thật của Đức Chúa Trời. Giăng 16:13 "Khi Ngài là Thần Lẽ thật sẽ đến, Ngài sẽ dẫn dắt các ngươi vào mọi lẽ thật."
- Ga-la-ti 5:18 "Nhưng nếu chúng ta được Đức Thánh Linh dẫn dắt, chúng ta không còn ở dưới luật pháp" nghĩa là chúng ta được thoát khỏi quyền của người giám hộ hay của vị giáo sư luật pháp, chúng ta là người tự do.
V. TIẾNG KÊU CỦA SỰ NHẬN LÀM CON: "ABBA, CHA "
- Rô-ma 8:15 "Nhưng đã nhận lấy thần trí của sự làm con nuôi, và nhờ đó chúng ta kêu rằng: Abba, Cha."
- Ga-la-ti 4:6 "Lại vì anh em là con nên Đức Chúa Trời đã sai Thánh Linh của con Ngài vào lòng chúng ta, kêu rằng: "Abba: Cha "
- Mác 14:36 "Chúa Jêsus trong vườn Ghết-sê-ma-nê cầu nguyện: Abba.
Đây là danh từ đặc biệt thân mật, một quan hệ phụ tử rất gần gũi "abba " là tiếng A-ram, ngôn ngữ mẹ đẻ Chúa Jêsus dùng khi còn nhỏ. "Cha " là tiếng Hy lạp, ngôn ngữ của người trí thức sử dụng đương thời.
Một người nô lệ không bao giờ được phép xưng ông chủ của mình là Abba, Cha cả. Chỉ có những người con thực sự mới gọi Cha mình là "Abba: Cha."
VI. NHỮNG PHƯỚC HẠNH CỦA SỰ NHẬN LÀM CON.
1. Họ trở thành đối tượng yêu thương đặc biệt của Đức Chúa Trời.
- Giăng 17:23"... Cha đã yêu thương họ cũng như Cha đã yêu thương Con." Đây là tình yêu thân thiết của tình phụ tử.
2. Họ trở thành đối tượng chăm sóc đặc biệt của Cha:
- Lu-ca 12:27-33 "Đức Chúa Trời là Cha chăm sóc cuộc sống con cái Ngài tùy theo nhu cầu ăn, mặc, nghề nghiệp và sức khỏe.
3. Họ có một tên của gia đình. I Giăng 3:1 "gọi là con cái Đức Chúa Trời."
4. Họ có sự giống nhau của gia đình. Rô-ma 8:29 "theo hình ảnh Con Ngài."
5. Họ có tình thương của gia đình. I Giăng 3:14 "Chúng ta biết rằng mình đã vượt khỏi sự chết qua sự sống vì chúng ta yêu anh em mình (và họ cũng yêu ta nữa).
6. Họ có tình phụ tử. Rô-ma 8:15 "Abba, Cha." Quan hệ mật thiết giữa cha với con và con với cha.
7. Họ có sự đoàn tụ gia đình. Giăng 14:23 "Chúng ta sẽ đến với Ngài."
8. Họ nhận lãnh sự sửa dạy của Cha. Hê-bơ-rơ 12:5 -11. Chứng tỏ chúng ta là con cái thật của Đức Chúa Trời.
9. Họ nhận lãnh sự an ủi của Cha. 2 Cô-rinh-tô 1:4 "Ngài an ủi chúng ta trong mọi sự hoạn nạn của chúng ta."
10. Họ nhận lãnh cơ nghiệp kế thừa của Cha. 1 Phi-e-rơ 1:4 "là cơ nghiệp không hư đi, không ô uế, không suy tàn."
VII. TRÁCH NHIỆM CỦA SỰ NHẬN LÀM CON :
Các thành viên của Hoàng gia Thiên quốc phải cư xử cách cẩn thận nghiêm túc. Chúng ta phải bước đi xứng đáng với địa vị vinh dự nầy để giữ gìn địa vị chúng ta. Chúng ta phải yêu thương và phục vụ lẫn nhau như anh chị em trong cùng một gia đình.
- Giăng 13:14 "Vậy nếu ta là Chúa, là Thầy còn rửa chân cho các con, các con cũng phải rửa chân lẫn cho nhau."
- Giăng 15:17 "Đây là điều răn của Ta, các con hãy yêu nhau "
KẾT LUẬN:
Như một người con tự do chạy nhảy trong nhà và có quyền đến gần cha, bất cứ lúc nào. Chúng ta là tín đồ, là con cái Chúa cũng đến gần sự hiện diện của Chúa cách tự do thể ấy. Nhũng người được nhận làm con Chúa được Đức Thánh Linh dắt dẫn. Tôi có đang được Đức Thánh Linh dắt dẫn không? tôi có lòng tin cậy của người con đối với Cha Thiên thượng không? Tôi có sẵn sàng sử dụng quyền tự do đến gần Chúa không? tôi có yêu anh em trong gia đình Đức Chúa Trời như tôi phải yêu không? Tôi có vâng lời các mạng lịnh Chúa truyền cho tôi không?
Chúng ta hãy từ bỏ tình trạng con trẻ thuộc linh để đạt đến địa vị làm người thành nhân trong Đấng Christ. Chúng ta phải sở hữu cơ nghiệp của chúng ta và sống như những người con của Đức Chúa Trời những kẻ kế nghiệp của Ngài. Đôi lúc, khi các cha mẹ nhận em bé nào làm con nuôi, họ thường giữ kín việc nầy để nó không biết, e rằng nó có mặc cảm là không có quyền trọn vẹn của người con trai, con gái trong gia đình.
Có câu chuyện kể về một em bé, biết rằng mình là con nuôi và khi bị một em bé khác chế giễu "mày chỉ là đứa con nuôi." Tuy nhiên, em bé đó tự hào mình là con nuôi và đã trả lời: "Vâng, tôi được nhận làm con con nuôi. Cha mẹ nuôi tôi đã lựa chọn tôi giữa bao nhiêu đứa trẻ khác và đã nhận tôi làm con ruột của ông bà. Còn cha mẹ anh phải nhận lãnh đứa con họ sanh ra chớ không có quyền lựa chọn đứa nào cả "
Thực sự, chúng ta đã được Đức Chúa Trời chọn lựa và nhận làm con của Ngài. Cảm tạ Đức Chúa Trời.
LỜI GIỚI THIỆU:
Đức tin là tin lý căn bản của Cơ đốc nhân trong niềm tin và trong thái độ sống vì chúng ta được cứu bởi đức tin. Ê-phê-sô 2:8. Khi Đấng Christ nói chuyện với dân chúng và chữa lành bệnh tật cho họ, Ngài nhìn thấy trong mỗi một người yếu tố đức tin của bản thân họ.
1. Người đàn bà Syrophoenician đã tỏ ra đức tin kiên trì. Mác 7:26.
2. Người đội trưởng thể hiện một đức tin khiêm tốn. Ma-thi-ơ 8:8 -10.
3. Người mù tỏ ra một đức tin sốt sắng. Mác 10:51.
4. Đa-ni-ên thể hiện một đức tin táo bạo trong sách Đa-ni-ên. Đa-ni-ên 6:10 -23.
Đức tin là sự tin cậy Đức Chúa Trời dẫn chúng ta đến việc tin Lời của Ngài là Kinh Thánh.
Bởi đức tin, chúng ta tiếp nhận Chúa Jêsus Christ làm Cứu Chúa và tuyên xưng Ngài với thế gian.
I. Định nghĩa đức tin:
Từ điển: Đức tin là tin tưởng, tin cậy, lòng trung thành, hay sự trung tín với một tín điều hay một tôn giáo.
Kinh thánh: Hê-bơ-rơ 11:1 "Đức tin là thực thể của những điều mình đang trông mong, là bằng cớ của những điều mình chẳng xem thấy."
Chúng ta ngồi nghỉ ngơi, không cần nhìn xuống, đặt toàn bộ thân mình trên một chiếc ghế, đức tin nói rằng chúng ta sẽ không ngã xuống đất, Đức tin đối với một đứa trẻ thật là đơn sơ để đạt đến, nhưng lại quá cao thượng cho người lớn để nhận thức cách thật đầy đủ và giải thích cách thỏa đáng.
Đức tin không phải là hành động đui mù của linh hồn,đức tin trong Đức Chúa Trời dựa trên bằng chứng tốt nhất là Lời vô ngộ của Đức Chúa Trời.
Đức tin là tin cậy nơi Đức Chúa Trời của Kinh thánh và nơi Đức Chúa Jêsus Christ là Đấng mà Ngài đã sai đến đồng thời tiếp nhận Ngài làm Chúa Cứu thế và làm Chúa thể hiện trong sự vâng lời và những việc lành.
Đức tin cứu rỗi là sự tin cậy cá nhân nơi Cứu Chúa Jêsus Christ.
II. SỰ CẦN THIẾT CỦA ĐỨC TIN :
Hê-bơ-rơ 11:6 "Vả, không có đức tin thì không thể nào ở cho đẹp ý Ngài vì kẻ đến gần Đức Chúa Trời phải tin rằng có Đức Chúa Trời và Ngài là Đấng hay thưởng cho kẻ tìm kiếm Ngài."
Không thể nào liên hệ được với Đức Chúa Trời vô hình nếu không có đức tin nơi sự thực hữu của Ngài. Chúng ta phải tin rằng Ngài hiện hữu, rằng Ngài ban thưởng cho người tìm kiếm Ngài. Sự tin cậy đó được gọi là đức tin.
Đức tin là cần thiết cho sự cứu rỗi. Công vụ 16:31. "Hãy tin... sẽ được cứu."
III. BẢN CHẤT CỦA ĐỨC TIN :
Có hai loại đức tin liên hệ đến sự cứu rỗi:
1. Đức tin đầu óc: Một trí thức về Đấng Christ trong lịch sử và sự thừa nhận chung về Kinh thánh.
2. Đức tin tấm lòng: Một đức tin phát xuất từ thâm tâm khiến một người hành động theo đức tin của mình.
Công vụ 16:31 "Hãy tin nơi Chúa Jêsus Christ." Chẳng hạn, một người đau có một chai thuốc, nếu tin vào thuốc thì hành động tự nhiên sẽ là uống thuốc.
Lưu ý: Chúng ta phải căn cứ đức tin của chúng ta nơi Đấng Christ chứ không phải tin vào đức tin của chúng ta.
Đức tin thật trong Đấng Christ là tin đến cả việc tiếp nhận Đấng Christ. Giăng 1:12, Cô-lô-se 2:6.
Sự hiểu biết hay sự tán thành cũng chưa phải là đức tin thật, đức tin thật liên quan đến sự chiếm hữu.
Đức tin là linh hồn nhảy tới ôm lấy Đấng Christ là Đấng mà mình tin cậy.
IV. NGUỒN GỐC CỦA ĐỨC TIN:
1. Phương diện Đức Chúa Trời: Đức tin là công việc của Ba Ngôi Đức Chúa Trời.
a. Đức Cha: Rô-ma 12:3"... Theo lượng đức tin mà Đức Chúa Trời đã phú cho từng người." Như vậy, mỗi người đều có khả năng của đức tin nội tâm.
b. Đức Con: Hê-bơ-rơ 12:2 "Hãy nhìn xem Đức Chúa Jêsus là cội rễ và cuối cùng của đức tin chúng ta." - Lu-ca 17:5 "Các sứ đồ thưa cùng Chúa: xin thêm đức tin cho chúng tôi." Chúng ta ai nấy đều có đức tin nhưng khi chúng ta thực hành đức tin và cầu nguyện, đức tin chúng ta sẽ trưởng thành và gia tăng.
c. Đức Thánh Linh: Ga-la-ti 5:22 "nhưng trái của Thánh Linh là sự yêu thương, vui mừng,... đức tin." 1 Cô-rinh-tô 12:9 "Bởi một Đức Thánh Linh, cho người nầy được đức tin. Một số người có đức tin nhiều hơn người khác vì đức tin là một trong những ân tứ của Đức Thánh Linh.
2. Phương diện con người :
- Rô-ma 10:17 "Đức tin đến bởi sự người ta nghe, mà khi người ta nghe là khi Lời của Đấng Christ được rao giảng." Khi chúng ta đọc các câu chuyện và Lời Chúa trong Kinh thánh đức tin chúng ta sẽ ngày càng lớn lên. Khi chúng ta nghe giảng Lời Chúa, đức tin chúng ta sẽ càng ngày càng mạnh mẽ.
- Công vụ 4:4 "Dân chúng nghe Đạo (Lời giảng đạo) và tin.
- Mác 9:24 "Lạy Chúa, tôi tin, xin giúp cho sự không tin của tôi." Xin điều nầy sẽ là lời xưng tội thường xuyên và là lời cầu nguyện của chúng ta.
- Lu-ca 17:5 "Các môn đồ cầu nguyện: Xin thêm đức tin cho chúng tôi."
- Ma-thi-ơ 17:19 -21. Chúa Jêsus dạy các môn đồ của Ngài rằng một số quỉ chỉ có thể đuổi được bằng sự kiêng ăn cầu nguyện,kèm theo một đời sống có đức tin sống động đặt nơi Chúa.
V. ĐỐI TƯỢNG CỦA ĐỨC TIN :
1. Lời Chúa: Đức tin không phải là thứ tín ngưỡng u mê được gọi là "niền tin." Đức tin đó phải là đức tin nơi Lời của Đức Chúa Trời. Đức tin chấp nhận sự tuyên bố của Kinh thánh như là Lời khải thị của Đức Chúa Trời, là chính Lời của Đức Chúa Trời chân thật.
2. Thân vị của Đấng Christ: Đức tin tự nó không phải là Cứu Chúa. Đó là đức tin đặt vào một thân vị Thần Nhân gọi là Jêsus Christ. Đức tin tự nó không phải là một công đức, nhưng là thứ môi giới nhờ đó ta tiếp nhận Chúa Jêsus Christ là Cứu Chúa và là Chúa của chúng ta.
VI. YẾU TỐ CƠ BẢN CỦA ĐỨC TIN :
Yếu tố cơ bản của đức tin cũng giống như niềm tin mà chúng ta hành động trong cuộc sống hằng ngày. Chúng ta mua một lon sữa ở tiệm tạp hóa và cầm lấy lon sữa mà không cần nhìn vào bên trong lon sữa để xem có sữa bên trong hay không. Chúng ta tin nơi nhãn hiệu của lon sữa và mang về dùng.
Mọi công việc được tiến hành nhờ yếu tố cơ bản của đức tin và sự tin tưởng nơi người khác dựa vào lời chứng của họ.
Người tài xế taxi, trước khi chờ bạn đi, ông ta không cần lấy tiền trước, bởi đức tin ông tin rằng bạn có tiền và sẽ trả cho ông khi đến nơi đến chốn.
Đức tin nơi Đức Chúa Trời là đặt lòng tin cậy nơi Ngài và nơi Lời của Ngài.
VII. CÁC HIỆU QUẢ CỦA ĐỨC TIN :
1. Chúng ta được cứu bởi đức tin: Sáng 15:6 Áp-ra-ham tin Đức Chúa Trời và điều đó kể là công bình cho người." So sánh Rô-ma 4:3.
2. Chúng ta tiếp nhận Đấng Christ bởi đức tin: Giăng 1:12"... là ban cho những kẻ tin danh Danh Ngài."
3. Chúng ta được xưng nghĩa bởi đức tin: Rô-ma 5:1 "được xưng nghĩa bởi đức tin."
4. Chúng ta được gìn giữ bởi đức tin: I Phi-e-rơ 1:5 "Kẻ bởi đức tin nhờ quyền phép của Đức Chúa Trời giữ cho."
5. Chúng ta trở nên con cái Đức Chúa Trời bởi đức tin: Ga-la-ti 3:26 "Vì chúng ta tất cả là con cái Đức Chúa Trời bởi đức tin nơi Jêsus Christ."
6. Chúng ta được thánh hóa bởi đức tin: Công vụ 26:18"... được nên thánh bởi đức tin."
7. Đức tin đem lại sự yên nghỉ: Hê-bơ-rơ 4:3 "Chúng ta là kẻ đã tin thì vào sự yên nghỉ "
8. Tất cả những thành tích chói lọi được chép trong Hê-bơ-rơ 11 là do những người có đức tin.
9. Số phận đời đời của chúng ta được quyết định bởi đức tin của chúng ta hoặc là sự vô tín của chúng ta.
Bởi đức tin chúng ta có thể được cứu và hưởng phước đời đời nơi thiên quốc với Chúa chúng ta. Do sự vô tín, chúng ta vẫn còn ở trong tội lỗi và cuối cùng bị ném vào hỏa ngục đời đời.
KẾT LUẬN:
- Ma-thi-ơ 17:20 "Chúa Jêsus phán: Nếu các ngươi có đức tin bằng hột cải....." Chúa Jêsus dành cho đức tin một sức mạnh vạn năng, các môn đồ có đức tin có thể thực hiện những việc to lớn hơn Thầy của mình, đây là thác Niagara quyền năng cho bạn và tôi.
- Hê-bơ-rơ 4:2 "Vì Tin lành nầy đã rao truyền cho chúng ta cũng như cho họ, những lời họ đã nghe không ích chi hết, vì trong khi nghe chẳng lấy đức tin nhận lời đó thuộc về mình."
Cầu xin Chúa cho chúng ta trong khi nghe Lời Chúa qua Kinh Thánh, các bài học Trường Chúa nhựt, các bài giảng, lấy đức tin nhận Lời đó thuộc về mình. Xin Đức Chúa Trời ban cho chúng ta có đức tin đó.
Câu hỏi lớn cho người tín đồ cần trả lời không phải "tôi có thể làm gì?" nhưng "Đức tin tôi lớn tới đâu? " và "Tôi có thể tin bao nhiêu?"
Mác 9:23 "Chúa Jêsus phán: Mọi sự khả năng cho người tin." Lạy Chúa, con muốn tin, xin giúp cho sự vô tín của con và tăng trưởng đức tin con. Amen.
LỜI GIỚI THIỆU:
Dưới thời Cựu ước, con người sống theo luật pháp, mỗi khi phạm tội người ta xưng ta mình đồng thời dâng một tế lễ và rồi thường là tái phạm những tội lỗi đó.
Sự ăn năn của Tin lành là sự xây bỏ khỏi tội lỗi và quay về với Đức Chúa Trời. Công vụ 20:21 "Giảng cho người Giu-đa như cho người Gờ- réc về sự ăn năn đối với Đức Chúa Trời và đức trong Đức Chúa Jêsus Christ là Chúa chúng ta."
Sự ăn năn nầy được gọi là "Sự ăn năn để được sự sống." Bởi vì tâm trí mới không chỉ lìa khỏi điều xấu, nhưng còn nhận được sự sống mới trong Đấng Christ.
- Công 11:18 "Vậy Đức Chúa Trời cũng ban sự ăn năn cho người ngoại để họ được sự sống." Sự ăn năn nầy cũng được gọi là sự ăn năn để được cứu rỗi vốn là mục đích của sự ăn năn.
- 2 Cô-rinh-tô 7:10 "Vì sự buồn rầu theo ý Đức Chúa Trời sanh ra sự hối cải dẫn đến sự cứu rỗi linh hồn." Khi một ăn năn tội có nghĩa là người đó thay đổi thái độ đối với tội, không quay về với tội mà quay về với Thượng đế.
I. ĐỊNH NGHĨA SỰ ĂN NĂN :
1. Tiêu cực: Sự ăn năn không chỉ là đau buồn về tội lỗi, có nhiều người khóc lóc về tội lỗi nhưng không hề ăn năn vì lập tức sau đó lại phạm tội y như cũ (ví dụ: người say rượu). Làm việc công đức, đền tội không phải là ăn năn vì nó khiến cho người có tội tưởng rằng nhờ công đức để họ hưởng được sự cứu rỗi và điều đó thường ngăn cản sự ăn năn thật. Giu-đa Ích-ca-ri-ốt và Ê-sau tỏ ra đau buồn về tội lỗi nhưng không ăn năn. Hê-bơ-rơ 12:17 "Người muốn cha mình chúc phước cho thì lại bĩ bỏ vì dầu người khóc lóc cầu xin, cũng chẳng đổi được ý cha mình đã định rồi. Đau buồn, khóc lóc thường đi kèm sự ăn năn thống hối, nhưng tự thân nó không phải là sự ăn năn.
2. Tích cực: Đó là sự thay đổi tâm trí dẫn đến sự thay đổi thái độ. Ma-thi-ơ 21:28-32, cậu con trai lúc đầu không chịu đi vào vườn nho, nhưng về sau ăn năn, đổi ý và ra đi làm việc trong vườn nho.
II. SỰ CẦN THIẾT CỦA SỰ ĂN NĂN :
1. Mọi người cần ăn năn vì mọi người đều phạm tội trước mặt Đức Chúa Trời. Bài giảng đầu tiên của Chúa Jêsus sau khi chịu báp-têm và cám dỗ là sự ăn năn. Ma-thi-ơ 4:17 "Hãy ăn năn vì Nước Trời đã gần." Lu-ca 13:3 "Chúa Jêsus dạy: Nếu không ăn năn thì hết thảy sẽ hư mất như vậy."
2. Sự ăn năn đến trước sự tin: Mác 1:15 "Hãy ăn năn và tin đạo Tin lành."
3. Sự ăn năn đến trước sự tha thứ: Lu-ca 24:47 "và người ta đã nhơn danh Ngài mà rao giảng cho dân các nước sử ăn năn để được tha tội."
4. Sự ăn năn đến trước sự qui đạo: Công 3:19 "Các ngươi hãy ăn năn và trở lại, đặng cho tội lỗi mình được xóa đi."
5. Đức Chúa Trời truyền lịnh về sự ăn năn: Công vụ 17:30 "Vậy thì Đức Chúa Trời đã bỏ qua các đời ngu muội đó mà nay biểu hết thảy các người trong mọi nơi đều phải ăn năn."
III. TẦM QUAN TRỌNG CỦA SỰ ĂN NĂN :
Sự ăn năn là đề tài nổi bật trong Kinh thánh, được nhắc đến hơn 100 lần trong Kinh thánh. Sự ăn năn là chủ đề giảng dạy của Giăng Báp-tít. Ma-thi-ơ 3:1,2 "Hãy ăn năn... "
Khi Chúa Jêsus sai các môn đồ ra đi giảng đạo, Ngài truyền cho họ phải giảng về sự ăn năn. Mác 6:12. Sau Lễ Ngũ tuần,các môn đồ đã rao giảng về sự ăn năn. Công vụ 2:38 "Hãy hối cải, ai nấy phải nhơn danh đức Chúa Jêsus chịu báp-têm để được tha tội mình rồi sẽ được lãnh sự ban cho Đức Thánh Linh. Đây cũng là sứ điệp của Phao-lô. Công vụ 20:21. Gánh nặng trong lòng Đức Chúa Trời là mọi người đều phải ăn năn. II Phi 3:9 "Ngài không muốn cho mọi người chết mất song muốn cho mọi người đều ăn năn." Không chịu vâng lời Đức Chúa Trời trong sự ăn năn sẽ dẫn đến sự hư mất. Lu-ca 13:3 "Nếu các ngươi không ăn năn, thì hết thảy sẽ bị hư mất như vậy."
IV. TÍNH CHẤT CỦA SỰ ĂN NĂN :
1. Đụng đến tư duy: Ma-thi-ơ 21:29 "Tôi không đi, nhưng sau ăn năn rồi đi." Cậu bé đó đã đổi ý, thay đổi tư tưởng và quan điểm. Sự ăn năn là cuộc cách mạng đụng đến thái độ và quan điểm của ta đối với tội lỗi và sự công bình. Sự ăn năn ạy ta phải ghét tội và học biết yêu sự thánh khiết, công bình. Đứa con trai hoang đàng đã ăn năn, anh ta đã đổi ý về cuộc sống tha phương và đã quyết định quay về nhà cha, xin làm người đầy tớ. Khi Phi-e-rơ kêu gọi người Do thái nhân dịp Lễ Ngũ tuần. Ông kêu gọi họ ăn năn nghĩa là họ phải thay đổi tâm trí của họ về Đấng Christ. Từ chỗ cho Ngài chỉ là một người bình thường, một tay phạm thượng hoặc một tay lừa đảo đến việc thừa nhận Ngài làm con Đức Chúa Trời, Đấng Cứu rỗi thế gian.
2. Đụng đến cảm tình: 2 Cô-rinh-tô 7:9 "mừng và sự buồn rầu làm cho anh em sanh lòng hối cải." Thường thường, tình cảm giữ một vai trò quan trọng trong sự ăn năn, ăn năn là cuộc chiến khó khăn.
- Lu-ca 10:13 "Hai thành ấy (Ty-rơ và Si-đôn) đã mặc áo gai và đội tro mà ăn năn từ lâu."
- Lu-ca 7:44 "nhưng người đã lấy nước mắt thấm ướt chân ta, rồi lấy tóc mình mà chùi" (tỏ ra sự ăn năn).
- Người thâu thuế trong Lu-ca 18:13 đấm ngực biểu lộ ăn năn.
- Từ ngữ Hy lạp nói về sự ăn năn có nghĩa là rất mực quan tâm.
- Tiếng Hê-bơ-rơ nói về sự ăn năn có nghĩa là thổn thức bồi hồi, than khóc (diễn tả nỗi buồn).
- Thi 38:18 "Tôi sẽ xưng gian ác tôi ra, tôi buồn rầu vì tội lỗi tôi."
3. Đụng đến ý chí: Tiếng Hê-bơ-rơ chỉ về sự ăn năn cũng có nghĩa là quay lại. Lu-ca 15:18, 20 đứa con hoang đàng nói: "Ta sẽ trỗi dậy...... và anh ta đã trỗi dậy." Sự ăn năn là một biến cố kèm theo một kinh nghiệm thay đổi về quan điểm. Phao-lô dạy về sự ăn năn như là một kinh nghiệm hơn là một hành động đơn thuần (trỗi dậy và ra đi). Sự ăn năn là một hành động có hai chiều: 1) Quay khỏi tội lỗi và 2) Quay về với Chúa. Quay khỏi tội lỗi mà không quay về với Đức chúa Trời là sự cải cách chứ không phải là sự tái tạo. I Tê-sa-lô-ni-ca 1:9 "thế nào đã trở lại cùng Đức Chúa Trời, bỏ hình tượng đặng thờ Đức Chúa Trời." Công vụ 26:18"... từ quyền lực của quỉ Sa-tan mà đến Đức Chúa Trời."
V. SỰ ĂN NĂN ĐƯỢC TẠO THÀNH NHƯ THẾ NÀO :
Đây căn bản chính là một món quà của Đức Chúa Trời :
- Công vụ 11:18 "Vậy Đức Chúa Trời cũng đã ban sự ăn năn cho người ngoại để họ được sống."
- 2 Ti-mô-thê 2:25 "mong rằng Đức Chúa Trời ban cho họ sự ăn năn để nhìn biết lẽ thật." Sự ăn năn là một đặc ân mà Đức Chúa Trời là Cha ban cho chúng ta. Khi người ta nghe nói sứ điệp của Tin lành thì Đức Thánh Linh cáo trách tội lỗi của họ và kết quả là mỗi cá nhân có một niềm mơ ước lớn lao là ăn năn tội lỗi của mình. Giô-na đã rao giảng sự ăn năn cho dân thành Ni-ni-ve, họ đã tin sứ điệp đó và quay trở về với Đức Chúa Trời.
- Rô-ma 2:4 "mà không nhận biết lòng nhân từ của Đức Chúa Trời đem người đến sự ăn năn sao? ."
- Khải 3:19 "Phàm những kẻ ta yêu thì ta quở trách sửa phạt vậy hãy có lòng sốt sắng và ăn năn đi."
Đức Chúa Trời thường dùng sự sửa phạt và quở trách để khiến chúng ta ăn năn tội lỗi.
VI. NHỮNG KẾT QUẢ CỦA SỰ ĂN NĂN:
1. Cả thiên đàng đều vui mừng:
- Lu-ca 15:10 "Ta nói cùng các ngươi, trước mặt thiên sứ của Đức chúa Trời cũng vậy, sẽ mừng rỡ cho một kẻ có tội ăn năn."
2. Đem lại sự tha thứ tội:
- Ê-sai 55:7 "Kẻ ác khá bỏ đường mình, người bất nghĩa khá bỏ các ý tưởng, hãy trở lại cùng Đức Giê-hô-va, Ngài sẽ thương xót cho, hãy đến cùng Đức Chúa Trời chúng ta, vì Ngài tha thứ dồi dào."
- Công vụ 3:19 "Vậy các ngươi hãy ăn năn và trở lại, đặng cho tội lỗi mình được xóa đi."
Sự ăn năn không phải tạo nên cho người có tội một công đức để được tha thứ, nhưng đó chính là một điều kiện để được tha thứ.
Sự ăn năn sửa soạn cho một người sự tha thứ, nhưng sau khi ăn năn rồi, chúng ta vẫn còn không xứng đáng với tình yêu thương và sự tha thứ của Đức Chúa Trời.
3. Đức Thánh Linh được đổ ra trên người ăn năn:
- Công vụ 2:38 "Hãy ăn năn... và các ngươi sẽ nhận lãnh ân tứ của Đức Thánh Linh."
KẾT LUẬN:
Dầu đã là con cái Chúa, ta cũng không bao giờ ngừng ăn năn.
LỜI GIỚI THIỆU:
Do hậu quả của sự sa ngã, mọi người đều trở nên tội nhân. Tội lỗi là điều duy nhất ngăn trở người ta vào thiên đàng, thiên đàng là một nơi thánh và không một tội lỗi nào có thể xâm nhập thiên đàng được.
Chìa khóa để vào thiên đàng là sự tha thứ tội. Nếu Đức Chúa Trời đã tha thứ tội cho chúng ta thì không một ai có thể ngăn chúng ta bước vào thiên đàng được. Đối với một tội nhân thì sự tha tội là vấn đề quan hệ nhất trong đời sống của người đó. Trong Cựu ước, có ba từ liệu chỉ về sự tha tội: Một nghĩa là "che phủ" hai là "cất đi " và chữ thứ ba là "ném đi."
Trong Tân ước, sự tha tội là sự phân rẽ tội nhân khỏi tội lỗi của họ qua sự hy sinh của Đấng Christ và trên nền tảng của ân điển tinh tuyển."
I. TÁC GIẢ CỦA SỰ THA TỘI: Chỉ một mình Đức Chúa Trời.
Vì tội nhân đã phá bỏ luật pháp của Đức Chúa Trời, nên chỉ có Đức Chúa Trời mới tha tội cho họ được.
Nếu bạn ăn cắp cái búa của tôi, tội có thể tha thứ cho bạn, nhưng nếu bạn vi phạm bộ luật hình sự của Tổ quốc,tôi không thể tha cho bạn sự vi phạm đó được.
Khi bạn phá bỏ luật pháp của Đức Chúa Trời thì không một ai trên đất có thể tha thứ cho bạn, duy chỉ có một mình Đức Chúa Trời mới tha thứ tội cho bạn khi bạn phạm luật của Ngài thôi.
- Lu-ca 7:49 "Các người ngồi bàn với Ngài nghĩ thầm rằng: Người nầy là ai mà cũng tha tội?"
- Mác 2:7 "Người nói phạm thượng đó: Ngoài một mình Đức Chúa Trời còn có ai tha tội được chăng? ."
Trong cả hai trường hợp trên, người Do thái đều nói đúng vì chỉ có một mình Đức Chúa Trời mới có thể tha thứ tội mà thôi. Đừng bao giờ tìm sự tha thứ nơi một người nào, khi bạn đã vi phạm luật pháp Chúa. Bạn hãy trực tiếp đến gần Đức Chúa Trời.
Đừng bao giờ đến với một người trung gian để tìm sự tha tội, bạn hãy đến với Đấng mà bạn phạm tội.
- I Giăng 1:9 "Còn nếu chúng ta xưng tội mình, thì Ngài là thành tín công bình tha tội cho chúng ta." Đức Chúa Trời là Đấng Thánh, Đấng ban luật pháp rất sẵn lòng để tha thứ tội cho mọi tội nhân.
Vì Đức Chúa Jêsus vốn là Đức Chúa Trời, nên Ngài co quyền tha tội. Công vụ 5:31
" Đức Chúa Trời đã đem Đấng ấy lên bên hữu Ngài, làm Vua và Cứu Chúa, để ban lòng ăn năn và sự tha tội cho dân Y-sơ-ra-ên.
II. ỐNG DẪN CỦA SỰ THA TỘI Đức Chúa Jêsus Christ.
Công vụ 13:38 "Vậy? Hỡi anh em, khá biết rằng nhờ Đấng đó mà sự tha tội được rao truyền cho anh em." Đây là sứ điệp kỳ diệu của sự cứu rỗi cho những linh hồn nặng gánh tội lỗi.
Trong Lu-ca 7:48 "Chính Chúa Cứu thế đã tha tội cho người đàn bà: Hỡi con gái ta,
tội lỗi con đã được tha."
Trong Mác 2:9, Chúa Jêsus đã tha tội cho người bại: "Tội lỗi con đã được tha."
Dầu Đức Chúa Jêsus không có mặt ở đây bằng thân xác, nhưng Ngài vẫn ở đây cách vô hình để tha thứ cho chúng ta. Chúng ta hãy nhắm mắt lại xưng tội với Ngài nay giờ nầy, Ngài sẽ tha tội cho chúng ta. Sự tha tội không thể tìm thấy ở bất cứ nhà thờ nào, thánh lễ nào, duy chỉ ở trong Đấng Christ mà thôi.
III. NỀN TẢNG CỦA SỰ THA TỘI :
1. Sự tha tội được ban cho căn cứ trên lòng thương xót của Chúa:
- Thi 78:38 "Nhưng Ngài, vì lòng thương xót tha tội ác cho, chẳng hủy diệt chúng nó."
2. Sự tha tội được ban cho trên nền tảng của sự công bình của Đức Chúa Trời.
- I Giăng 1:9 "Ngài là thánh tín công bình tha tội." Đức Chúa Trời có thể tha thứ tội và Ngài vẫn là Đấng thánh khiết công bình.
3. Sự tha tội được ban cho trên cơ sở của huyết Chúa:
- Ê-phê-sô 1:7 "Ấy là Đấng Christ, chúng ta được cứu chuộc bởi huyết Ngài, được tha tội."
Bởi huyết có nghĩa là công tác đền tội của Đấng Christ trên thập giá. Trên thập tự giá, Ngài đã có huyết Ngài làm giá cứu chuộc và trả xong giá của sự cứu rỗi đời đời cho chúng ta.
Đức Chúa Trời đã tuyên bố "Linh hồn nào phạm tội thì phải chết" (Ê-xê-chi-ên 18:4)
Tội lỗi đem đến sự chết và vì con người phạm tội nên hậu quả là con người phải chết.
Sáng 2:17 "Này nào ngươi ăn chắc sẽ chết." Đức Chúa Trời luôn đòi máu, tượng trưng cho sự chết đền tội. Để bao phủ sự trần truồng của A-đam và Ê-va, máu đã bị đổ để có các áo da mặc cho hai ông bà (Sáng 3:21).
Của tế lễ của A-bên đã được Đức Chúa Trời chắp nhận vì có huyết và của lễ của Ca-in bị từ khước vì không có huyết (Sáng 4:3-5).
Lê-vi 17:11 "Vì sanh mạng của xác thịt ở trong huyết, ta đã cho các ngươi huyết rưới trên bàn thờ đặng làm lễ chuộc tội cho linh hồn mình."
IV. TÍNH CÁCH HOÀN TOÀN CỦA SỰ THA TỘI: Mọi tội.
Khi Chúa Jêsus tha tội, Ngài tha tất cả mọi tội. TẤT CẢ.
- Lu-ca 7:47 "Tội lỗi đàn bà nầy nhiều lần, đã được tha hết, vì người đã yêu nến nhiều."
- Thi 103 :3 "Ấy là Ngài tha thứ các tội ác ngươi."
- Thi 32:1,2: Chúa tha sự vi phạm, khỏa lấp tội lỗi, không kể gian ác cho Mọi sự đều được tha thứ.
- Cô-lô-se 2:13"... vì đã tha thứ hết mọi tội chúng ta."
- Ma-thi-ơ 12:31 "Ấy vậy, ta phán cùng các ngươi, các tội lỗi và lời phạm thượng của người ta đều sẽ được tha."
Đây là điểm quan trọng nhất. Nếu một tội vẫn chưa được tha thì cá nhân đó vẫn không thể lên thiên đàng, nhưng bắt buộc phải bị ném xuống địa ngục đời đời.
- Khải 21:27 "Kẻ ô uế, người làm điều gớm ghiếc và nói dối... .
không hề được vào thiên đàng.
Một tội cũng có thể ngăn cách bạn với thiên đàng mãi mãi. Bạn còn nhớ không? Chỉ một tội đã đem sự chết đến cho cả loài người.
V. SỰ SỞ HỮU ƠN THA TỘI (Chúng ta hiện có).
Nhiều người mong chờ đến sau khi chết để biết mình có được tha tội hay không?
Tin lành đem đến cho chúng ta tin mừng về sự tha tội như là một quyền sở hữu ngay trong hiện tại.
- Ê-phê-sô 1:7 "Ấy là trong Đấng Christ, chúng ta được cứu chuộc bổi huyết Ngài, được tha tội."
- Người đàn bà trong Lu-ca 7:36-38 nhận ngay được sự tha tội của Chúa.
- I Giăng 2:12 "Hỡi các con cái bé mọn ta, ta viết cho các con vì tội lỗi các con đã nhờ Danh Chúa được tha cho."
Chúng ta trình bày một sứ điệp Tin lành khẳng định rằng: con người có thể biết chắc ngay tại đây trong hiện tại rằng tội lỗi của họ đã được tha thứ không chút nghi ngờ gì cả.
VI. CÁC ĐIỀU KIỆN CỦA SỰ THA TỘI:
1. Ăn năn: Công vụ 5:31 "Ban lòng ăn năn và sự tha tội." Ăn năn đến trước sự tha thứ, ăn năn là đổi ý về tội lỗi và quay về với Đức Chúa Trời.
- Công vụ 2;38 "Hãy hối cải, ai nấy hãy... chịu báp-têm để được tha tội mình...."
Trong câu chuyện ở Lu-ca 7:36-50, người đàn bà biểu lộ sự ăn năn, bằng nước mắt và sự hạ mình.
2. Đức tin: Lu-ca 7:50 "Đức tin con đã cứu con." Ăn năn dẫn đến đức tin và sự tha thứ tội.
3. Xưng tội: I Giăng 1:9 "Còn nếu chúng ta xưng tội mình thì Ngài là thành tín công bình tha tội cho chúng ta và làm cho chúng ta sạch mọi điều gian ác." Tội lỗi không chịu thú nhận sẽ không được tha. Chúng ta hãy cầu xin Đức Thánh Linh bày tỏ tội lỗi cho chúng ta và ban ân điển cho chúng ta biết xưng mọi tội của mình. Thi 32:5 "Tôi sẽ xưng các sự vi phạm tội cùng Đức Chúa Trời, còn Chúa tha tội ác của tôi." Đây là kinh nghiệm của Đa-vít và cũng sẽ là kinh nghiệm của bạn nữa.
4. Tha thứ cho người khác: Ma-thi-ơ 6:15. "Song nếu không tha lỗi cho người ta, thì Cha các ngươi cũng sẽ không tha lỗi cho các ngươi."
Chúng ta hãy ghi nhớ lời khuyên dạy trong Ê-phê-sô 4:32. "Hãy ở với nhau cách nhơn từ, đầy dẫy lòng thương xót, tha thứ nhau như Đức Chúa Trời đã tha thứ anh em trong Đấng Christ vậy."
Đối với người tín đồ Đấng Christ, sự tha thứ phải hết sức dễ dàng như hình ảnh nhắc nhở trong Ma-thi-ơ 18:21-35.
VII. TÍNH CÁCH THƯỜNG XUYÊN CỦA SỰ THA THỨ :
Chúng ta có thể được tha thứ mấy lần?
Khi chúng ta phạm tội và xưng tội, huyết của Chúa Jêsus Christ vẫn sẵn đủ thường xuyên để tha thứ chúng ta một khi chúng ta đáp ứng đủ các điều kiện đã nói ở trên.
Sự ăn năn liên hệ đến việc từ bỏ tội lỗi và sự hứa nguyện nhờ sức mạnh của Đức Chúa Trời quyết không tái phạm. Vậy chúng ta sẽ có phải tiếp tục phạm tội để ân điển Chúa càng dư dật bởi vì Đức Chúa Trời cứ sẵn sàng tha tội luôn cho chúng ta chăng?
Câu trả lời đã được Phao-lô đưa ra trong Rô-ma 6:1 và Chúa đã trả lời qua Phao-lô trong Rô-ma 6:2 "Đức Chúa Trời cấm." Vì một ý tưởng như thế là làm nhục Đức Chúa Trời. Còn chúng ta tha kẻ phạm tội nghịch cùng chúng ta bao nhiêu lần? Chúa Cứu thế đã trả lời câu hỏi nầy ở trong Ma-thi-ơ 18:21- 35- không phải tha đến 70 lần nhưng tha liên tục, tha không thôi.
KẾT LUẬN:
Có ba sứ điệp do chính Đức Chúa Trời Viết:
1. Mười điều răn trong Xuất 20. Luật pháp của Chúa là tiêu chuẩn, thái độ của con người.
2. Đa-ni-ên 5:27 "Người được cân trên các cân và lấy làm kém thiếu. Mọi người đều phạm tội (Rô-ma 3:23).
3. Giăng 8:1-11, Chúa Jêsus dùng ngón tay Ngài viết trên đất bụi. Ngài viết gì? Chúng ta không biết rõ, nhưng tôi nghĩ rằng Ngài đã viết chữ "tha thứ."
Hôm nay, mỗi bạn hãy đến nhận đầy đủ sự tha thứ tất cả mọi tội của bạn và rồi " Hãy đi, đừng tái phạm."
LỜI GIỚI THIỆU:
Một giáo sư Thần học đã nói rằng trong giây phút một tội nhân tiếp nhận Đấng Christ có đến 38 điều xảy ra, mặc dầu người đó có lẽ không ý thức gì hơn là tội lỗi được tha cùng sự vui mừng và bình an tràn ngập.
Thí dụ như việc lái một chiếc xe hơi, ngay giây phút người tài xế mở máy và vô số rồi nhấn ga cho xe chạy, biết bao nhiêu điều đã xảy ra trong bộ máy nhưng có lẽ người tài xế chỉ biết là xe đang di chuyển mà thôi. Thực ra, có đến hằng trăm việc đã xảy ra trong chiếc xe và người lái xe phải học từ từ mới biết hết về chiếc xe mình. Mục sư Rayfrane đã chia các sự việc khác nhau xảy ra khi một người tin Chúa thành một số các phạm trù riêng biệt như sau:
I. TRONG MỐI LIÊN HỆ VỚI ĐỨC CHA :
1. Được đến gần ngôi ơn phước của Đức Chúa Trời:
- Ê-phê-sô 2:18 "Vì ấy là nhờ Ngài (Jêsus Christ) mà chúng ta cả hai đều được phép đến gần Đức Chúa Cha, đồng một Đức Thánh Linh." Chúng ta trước hết đến gần sự cứu rỗi và rồi đến sự cầu nguyện.
- Ê-phê-sô 3:12 "Trong Ngài chúng ta nhờ đức tin đến Ngài mà được tự do đến gần Đức Chúa Trời cách dạn dĩ."
2. Được nhận làm con vào trong gia đình của Đức Chúa Trời.
- Ga-la-ti 4:5 "và cho phép chúng ta được làm con nuôi Ngài."
- Ê-phê-sô 1:5 "chúng ta được trở nên con nuôi của Ngài bởi Đức Chúa Jêsus Christ."
3. Được dự phần kế nghiệp:
- Công vụ 26:18"... cho họ bởi đức tin nơi ta được tha tội, cùng phần gia tài với các thánh đồ."
4. Được lựa chọn:
- I Phi-e-rơ 1:2 "là những người được chọn theo sự biết trước của Đức Chúa Trời."
- Ê-phê-sô 1:4 "Trước khi sáng thế, Ngài đã chọn chúng ta trong Đấng Christ."
- Giăng 15:16 "chẳng phải các ngươi đã chọn ta, bèn là ta đã chọn và lập các ngươi."
5. Được trở nên con Đức Chúa Trời:
- Giăng 1:13 "Nhưng hễ ai đã nhận Ngài thì Ngài ban cho quyền phép trở nên con cái Đức Chúa Trời là ban cho những kẻ tin Danh Ngài."
- Giăng 3:1 "Hãy xem Đức Chúa Cha đã tỏ cho chúng ta sự yêu thương dường nào mà cho chúng ta được xưng là con cái Đức Chúa Trời."
6. Làm công dân Nước Trời:
- Phi-líp 3:20 "Nhưng chúng ta là công dân trên trời."
7. Được làm kẻ kế tự Đức Chúa Trời:
- Rô-ma 8:17 "Nếu chúng ta là con cái thì cũng là kẻ kế tự: kẻ kế tự Đức Chúa Trời và là kẻ đồng kế tự với Đấng Christ."
- Ga-la-ti 3:29 "Nếu anh em thuộc về Đấng Christ, thì anh em là dòng dõi Áp-ra-ham, tức là kẻ kế tự theo lời hứa."
8. Người mới:
- 2 Cô-rinh-tô 5:17 "Vậy nếu ai ở trong Đấng Christ thì nầy là người dựng nên mới, những sự cũ đã qua đi, nầy mọi sự đều trở nên mới."
- Chúng ta được sinh ra với bản tính cũ, bản tính A-đam sa ngã, giờ chúng ta có bản tính của Đức Chúa Trời."
9. Tôi tớ của Đức Chúa Trời :
- Rô-ma 6:22 "Bây giờ đã được buông tha khỏi tội lỗi và trở nên tôi mọi của Đức Chúa Trời rồi."
- Rô-ma 1:1 "Phao-lô, tôi tớ của Đức Chúa Jêsus Christ."
10. Thầy tế lễ của Đức Chúa Trời:
- I Phi-e-rơ 2:9 "Nhưng anh em là dòng dõi được lựa chọn, là chức tế lễ nhà vua.
11. Được hòa thuận với Đức Chúa Trời :
- Rô-ma 5:10 "Chúng ta đã được hòa thuận với Ngài bở sự chết của con Ngài."
- Ê-phê-sô 2:12,13 "Trong thuở đó anh em không có Đấng Christ..... nhưng trong Đức Chúa Jêsus Christ, anh em là kẻ ngày trước cách xa, hiện nay đã nhờ huyết Đấng Christ mà được gần rồi."
12. Được nên thánh :
- 1 Cô-rinh-tô 6:11 "Nhờ Thánh Linh của Đức Chúa Trời chúng ta, thì anh em được rửa sạch, được nên thánh, được xưng công bình rồi."
- Công vụ 26:18 Liệt kê sự nên thánh như là kết quả trực tiếp của sự qui đạo.
II. TRONG MỐI LIÊN HỆ VỚI ĐỨC CON :
13. Được tiếp nhận trong Con yêu dấu :
- Ê-phê-sô 1:6 "Để khen ngợi sự vinh hiển của ân điển Ngài đã ban cho chúng ta cách nhưng không trong Con yêu dấu của Ngài."
- Nhờ Chúa Jêsus, chúng ta được ban cho sự đầy đủ sự tiếp đón vào gia đình Đức Chúa Trời, vào sự hiện diện của Đức Chúa Trời và hưởng trọn cơ nghiệp của Ngài.
14. Được Báp-têm vào trong thân thể Đấng Christ :
- 1 Cô-rinh-tô 12:13 "Vì chúng ta... đều đã chịu phép báp-têm chung một Thánh Linh để hiệp làm một thân và chúng ta đều đã chịu uống chung một Thánh Linh nữa."
- Ga-la-ti 3:27 "Và anh em thảy đều chịu phép báp-têm trong Đấng Christ, đều mặc lấy Đấng Christ vậy."
15. Được đồng chôn với Đấng Christ :
- Rô-ma 6:4 "Vậy chúng ta đã bị chôn với Ngài bởi phép báp-têm, trong sự chết Ngài."
- Cô-lô-se 3:3 "Vì anh em đã chết, sự sống mình đã giấu với Đấng Christ trong Đức Chúa Trời."
16. Được Đức Cha giao cho Đức Con như món quà yêu thương :
- Giăng 17:9 "Con vì họ mà cầu nguyện... nhưng vì kẻ Cha đã giao cho Con, bởi chưng họ thuộc về Cha."
- Chúng ta là một món quà yêu thương đặc biệt mà Đức chúa Cha ban cho Đức Chúa Con.
17. Được cứu bởi Đấng Christ :
- Công vụ 16:31 "Hãy tin Đức Chúa Jêsus thì ngươi và cả nhà đều sẽ được cứu rỗi."
- Công vụ 4:12 "Chẳng có Danh nào khác ban cho loài người để chúng ta có thể nhờ đó được cứu."
18. Được Đấng Christ ngự vào lòng :
- Khải 3:20 "Nầy Ta đứng ngoài cửa mà gõ, nếu ai nghe tiếng Ta mà mở cửa cho thì Ta sẽ vào, ăn bữa tối với người và người với Ta."
- Giăng 14:23 "Chúng ta sẽ đến cùng người (Đấng Christ) và Đức Thánh Linh và ở cùng người."
19. Sở hữu sự sống đời đời :
- Giăng 10:28 "Ta ban cho chúng sự sống đời đời, chúng chẳng chết mất bao giờ "
- I Giăng 5:13 "Hầu cho các con biết mình có sự sống đời đời, là kẻ nào tin đến Danh Con Đức Chúa Trời."
20. Được bình an :
- Giăng 14:27 "Ta để sự bình an cho các ngươi, Ta cho các ngươi sự bình an."
- Phi 5:7 "Sự bình an của Đức Chúa Trời vượt quá sự hiểu biết sẽ canh giữ lòng và ý tưởng anh em trong Chúa Jêsus Christ."
21. Thành bạn của Đức Chúa Trời :
- Giăng 15:15 "Ta gọi các ngươi là bạn."
22. Được ghi tên trên thiên đàng :
- Lu-ca 10:20 "Hãy mừng vì tên các con được ghi trên thiên đàng."
- Phi 4:3 "Có tên những người đó ghi trong sách sự sống rồi."
- Khải 13:8.
23.Được đồng ngồi với Đấng Christ trong các nơi trên trời :
- Ê-phê-sô 2:6 "Ngài làm cho chúng ta đồng sống lại và đồng ngồi trong các nơi trên trời trong Đức Chúa Jêsus Christ."
24. Nhận được sự trông cậy hạnh phước :
- Tít 2:13 "Đương chờ đợi sự trông cậy hạnh phúc của chúng ta và sự hiện ra của sự vinh hiển Đức Chúa Trời lớn và Cứu Chúa chúng ta, là Đức Chúa Jêsus Christ."
- Khải 22:20 "Đấng làm chứng cho những điều ấy phán rằng: Phải, ta đến mau chóng Amen, lạy Đức Chúa Jêsus, xin hãy đến."
25. Được giao thông với Ba ngôi Đức Chúa Trời:
- I Giăng 1:3 "Hầu cho anh em cũng được giao thông với chúng tôi và, chúng tôi vẫn được giao thông với Đức Chúa Cha và với Con Ngài."
26. Có chỗ ở vinh hiển :
- Giăng 14:2 "Trong nhà Cha Ta có nhiều chỗ ở... Ta đi sắm sẵn cho các ngươi một chỗ."
III. TRONG MỐI LIÊN HỆ VỚI ĐỨC THÁNH LINH :
27. Được tái sanh :
- Giăng 3:3,7 "Phải sanh lại."
- Giăng 3:5 "Nếu không nhờ nước và Thánh Linh mà sanh không thể vào Nước Trời."
- I Phi-e-rơ 1:23 "Đức Thánh Linh dùng Lời Chúa tái tạo con người."
28. Được xức dầu bởi Đức Thánh linh:
- I Giăng 2:27 "Về phần các con, sự xức dầu đã chịu từ nơi Chúa vẫn còn trong mình."
- Giăng 14:26.
- Giăng 16:13.
29. Thành đền thờ Đức Thánh Linh ngự :
- 1 Cô-rinh-tô 6:19 "Anh em không biết mình là đền thờ Đức Thánh Linh đang ngự sao?"
30. Được Đức Thánh Linh ban ân tứ thuộc linh :
- 1 Cô-rinh-tô 12:11 "Đức Thánh Linh... phân phát sự ban cho riêng cho mỗi người."
31. Được ngự trị bởi Đức Thánh Linh :
- Rô-ma 8:16 "Chính Đức Thánh Linh làm chứng trong lòng chúng ta rằng chúng ta là con cái Đức Chúa Trời."
32. Được ấn chứng bằng Đức Thánh Linh:
- Ê-phê-sô 1:13 "Ấy là trong Ngài mà anh em đã tin và được ấn chứng bằng Đức Thánh Linh là Đấng Chúa đã hứa."
IV. TRONG MỐI LIÊN HỆ VỚI TỘI LỖI :
33. Được tha tội:
- Lu-ca 7:48 "Ngài phán cùng nàng: Tội lỗi con đã được tha."
- Ê-phê-sô 1:7 "Trong Ngài anh em được... tha tội."
34. Được xưng công bình: (kể là vô tội).
- Rô-ma 5:1 "Vậy chúng ta được xưng công bình bởi đức tin."
- Rô-ma 4:5 "Nhưng tin Đấng xưng người có tội là công bình, thì đức tin của kẻ ấy kể là công bình cho mình."
35. Được cứu chuộc:
- Khải 5:9 "Ngài đã chịu chết, lấy huyết mình mà chuộc cho Đức Chúa Trời."
- I Phi-e-rơ 1:18,19 "... Chẳng phải bởi vật hay hư nát như bạc hoặc vàng mà anh em đã được chuộc khỏi sự ăn ở không ra chi của tổ tiên truyền lại cho mình, bèn là bởi huyết báu Đấng Christ."
V. TRONG MỐI LIÊN HỆ VỚI SA-TAN:
36. Đấng Christ trở nên Đấng biện hộ cho chúng ta:
- I Giăng 2:1 "Thì chúng ta có Đấng cầu thay cho chúng ta ở nơi Đức Chúa Cha, tức là Đấng công bình."
37. Chiến thắng tội lỗi:
- I Giăng 5:4 "Vì hễ sự gì sanh bởi Đức Chúa Trời thì thắng hơn thế gian và sự thắng hơn thế gian, ấy là đức tin của chúng ta."
VI. TRONG MỐI LIÊN HỆ VỚI NGƯỜI KHÁC :
38. Làm các đại sứ của Đấng Christ :
- 2 Cô-rinh-tô 5:20 "Vậy chúng tôi làm chức khâm sai của Đấng Christ." Người tín đồ tự động nhận lấy trách nhiệm làm chứng nhân cho thế gian.
KẾT LUẬN:
Người tin Chúa nhận được TẤT CẢ CÁC ƠN PHƯỚC THIÊNG LIÊNG.
Ê-phê-sô 1:3 "Ngợi khen Đức Chúa Trời, Cha Đức Chúa Jêsus Christ Chúa chúng ta. Ngài đã xuống phước cho chúng ta đủ mọi ơn phước thiêng liêng ở các nơi trên trời...."
Thi thiên 23:6 "Quả thật, trọn đời tôi, tôi sẽ ở trong nhà Đức Giê-hô-va cho đến lâu dài."
LỜI GIỚI THIỆU:
Đây là đề tài rất quan trọng , vì Hê-bơ-rơ 12:14 nói rằng: "Hãy cầu sự bình an với mọi người cùng tìm theo sự nên thánh, vì nếu không nên thánh thì chẳng ai được thấy Đức Chúa Trời."
Trong sự tái sanh, bản chất của chúng ta được thay đổi.
Trong sự xưng nghĩa, thế đứng của chúng ta được thay đổi.
Trong sự nhận làm con, địa vị chúng ta được thay đổi.
Trong sự nên thánh, tư cách của chúng ta được thay đổi.
Sự nên thánh tỏ ra kết quả của một đời sống được xưng nghĩa. Chúng ta cần được nên thánh vì Cứu Chúa của chúng ta là Thánh.
1. Nhờ Cha Ngài:
- Giăng 10:36 "Ta đây là Đấng Cha đã biệt ra thánh."
2. Nhờ chính mình Ngài:
- Giăng 17:19 "Con vì họ tự làm nên thánh, hầu cho họ cũng nhờ lẽ thật mà nên thánh vậy."
3. Nhờ con cái Ngài:
- I Phi-e-rơ 3:15 "Nhưng hãy tin Đấng Christ, làm Chúa làm thánh trong lòng mình." Sự nên thánh là ý muốn của Đức Chúa Trời đối với mọi người tín đồ.
- 1 Tê-sa-lô-ni-ca 4:3 "Vì ý muốn Đức Chúa Trời ấy là khiến anh em nên thánh."
Đề tài sự thánh khiết và sự nên thánh được nhắc đi nhắc lại đến 1066 lần trong Kinh thánh.
I. Ý nghĩa sự nên thánh:
Sự nên thánh là công việc của Đức Thánh Linh, sự nên thánh và sự thánh khiết có cùng một tính chất như nhau. Ý nghĩa căn bản của sự nên thánh là sự phản rẽ.
Thi 4:3 "Hãy biết rằng Đức Giê-hô-va đã để riêng cho mình người nhân đức."
Các tín đồ đã được Đức Chúa Trời để riêng ra cho Ngài dùng theo ý muốn Ngài.
Theo Kinh thánh, ý nghĩa của sự nên thánh là biệt riêng ra
1) Bởi Đức Chúa Trời.
2) Cho Đức Chúa Trời.
3) Khỏi tội lỗi.
4) Đến một đời sống thánh khiết.
Hê-bơ-rơ 12:14, II Ti-mô-thê 2:21 "Vậy, hãy giữ mình cho khỏi những điều ô uế đó, thì sẽ như cái bình quí trọng, làm của thánh, có ích cho chủ mình và sẵn sàng cho mọi việc lành"
Kinh thánh nói đến việc biệt ra thánh Đền Tạm và các khí mạnh của Đền Tạm cùng các thứ thuộc về Đền Tạm: người, các kiến trúc, các đồng ruộng, con đầu lòng, đền thờ, các thầy tế lễ và một dân tộc: Xuất 40:9-11, Lê-vi 27:14-16, Dân số 8:17. Tuy nhiên, đối với người tín đồ, sự nên thánh chuyên chở hai ý nghĩa:
1) Phân rẽ khỏi tội ác (2 Sử ký 29:5, 15-18)
2) Phân rẽ cho Đức chúa Trời (Lê-vi 27:16)
II. TÁC GIẢ CỦA SỰ NÊN THÁNH (Ba Ngôi Đức Chúa Trời)
1. Nhờ Đức Cha :
- 1 Tê-sa-lô-ni-ca 5:23, 24 "Nguyền xin chính Đức Chúa Trời bình an khiến anh em nên thánh trọn vẹn... ."
2. Nhờ Đức Con:
- Ê-phê-sô 5:26 "Đấng Christ phó chính mình vì Hội thánh để khiến Hội nên thánh."
3. Nhờ Đức Thánh Linh :
- 2 Tê-sa-lô-ni-ca 2:13"... Ngài đã chọn anh em bởi sự nên thánh của Thánh Linh và bởi tin lẽ thật, đặng ban sự cứu rỗi cho anh em."
Tấn sĩ Griffin Thomas nói: "Sự thánh khiết không phải là một thành tích cần đạt được, nhưng là một món quà cần tiếp nhận." Sự liên tục sử dụng ân tứ nầy sẽ gia tăng sự nên thánh cù chúng ta.
III. NHỮNG PHƯƠNG TIỆN CỦA SỰ NÊN THÁNH :
Làm thế nào chúng ta được nên thánh?
1. Nhờ lời của Đức Chúa Trời :
Giăng 17:17 "Xin Cha lấy lẽ thật khiến họ nên thánh, lời Cha tức là lẽ thật."
Để được nên thanh, ta hãy dành nhiều thì giờ cho lời của Đức Chúa Trời, chính lời Chúa thanh tẩy và làm cho tinh sạch: Chính lời Chúa sẽ phơi bày tội lỗi. Trong Tân ước có 21 bảng liệt kê tội lỗi với tổng số 202 tội lỗi, trong đó có 103 tội khác nhau.
2) Nhờ huyết :
Hê-bơ-rơ 13:12 "Chính mình Đức Chúa Jêsus đã chịu khổ ngoài cửa thành để lấy huyết mình làm cho dân nên thánh."
Lời Chúa bày tỏ tội lỗi. Huyết Chúa rửa sạch tội lỗi. Kết quả là sự nên thánh.
3) Nhờ sự sửa phạt :
Hê-bơ-rơ 12:10,11 "Vả, cha về phần xác theo ý mình mà sửa phạt chúng ta tạm thời, nhưng Đức Chúa Trời vì ích cho chúng ta mà sửa phạt để khiến chúng ta được dự phần trong sự thánh khiết Ngài... về sau sanh ra bông trái công bình và bình an cho những kẻ đã chịu luyện tập như vậy."
4) Nhờ phó thác thân thể cho Đức Chúa Trời:
Rô-ma 6:19"... Bây giờ hãy đặt chi thể mình làm tôi sự công bình đặng làm nên thánh cũng thể ấy."
5. Nhờ tự bản thân chúng ta:
2 Cô-rinh-tô 7:1 "Chúng ta đã có lời hứa dường ấy, thì hãy làm cho mình sạch khỏi mọi sự dơ bẩn phần xác thịt và phần thần linh, lại lấy sự kính sợ Đức Chúa Trời mà làm cho trọn việc nên thánh của chúng ta."
Chúng ta cũng có dự phần trong sự nên thánh, phần chúng ta là tìm cho ra tội lỗi, phán xét nó, từ bỏ nó, đồng thời cầu nguyện xin Chúa tẩy sạch tội lỗi và giúp ta sức mạnh sống đời sống thánh khiết. Hằng ngày, chúng ta hãy chiếm hữu Đấng Christ như là sự nên thánh của chúng ta. Hằng ngày, chúng ta phải tuyên xưng sự thánh khiết, đức tin, tình yêu và ân điển của Ngài như là của bản thân ta. Bí quyết của một đời sống thánh khiết là sự chiếm hữu liên tục đời sống thánh khiết của Đấng Christ như là của chính bản thân ta: Mức độ nên thánh của chúng ta tùy thuộc vào mức độ chiếm hữu Đấng Christ của Chúng ta.
IV. THỜI GIAN CỦA SỰ NÊN THÁNH :
Ở đây có những ý kiến dị biệt nhau. Một số người nói rằng sự nên thánh được hoàn thiện ngay khi chúng ta tin Chúa, nó đồng nghĩa với sự qui đạo.
Một số người khác nhấn mạnh nhu cầu của một công tác thứ hai của ân điển, đây là một kinh nghiệm khác hẳn với sự qui đạo. Một số người xem đó như là một kinh nghiệm có tính cách bước ngoặt triệt tiêu con người cũ. Một số người cho rằng sự nên thánh vừa là một kinh nghiệm tức thời, vừa có tính cách diễn tiến. Riêng bản thân, tôi tin rằng theo Kinh thánh sự nên thánh là cả hai kinh nghiệm vừa nói trên tổng hợp lại.
1. Sự qui đạo có tính tức thời :
- 1 Cô-rinh-tô 6:11 "Nhưng nhơn danh Đức Chúa Jêsus Christ và nhờ Thánh Linh của Đức Chúa Trời chúng ta thì anh em được rửa sạch, được nên thánh, được xưng công bình rồi."
Sự nên thánh được nói đến ở đây như là một kinh nghiệm của quá khứ với việc rửa sạch và sự xưng công bình.
2. Diễn tiến:
- Gia-cơ 1:22-25 là thí dụ về một người nhìn vào tấm gương soi mặt thấy một vết dơ rồi đi rửa mặt.
Tấm gương soi là Lời của Chúa bày tỏ tội lỗi chúng ta và chúng ta phải xưng tội ra. Đức Thánh Linh không bày tỏ toàn bộ những tội lỗi không đẹp lòng Chúa của chúng ta ngay một lúc, điều đó sẽ làm cho chúng ta thất vọng. Cho nên, khi chúng ta được Chúa bày tỏ cho một điều gì sai trật, chúng ta phải lập tức tìm kiếm sự tẩy sạch và liên tục dẫn bước trên con đường nên thánh.
3. Hoàn tất và trọn vẹn:
- 1 Tê-sa-lô-ni-ca 5:23"... được giữ vẹn, không chỗ trách được, khi Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta đến."
Mọi phần thân thể ta sẽ được nên thánh trọn vẹn cả thân thể, Hồn và Linh. Một ngày kia chúng ta sẽ được nên thánh trọn vẹn không thiếu sót ân điển nào. Chúng ta sẽ là người thành nhân, trọn vẹn.
Kinh nghiệm tuyệt vời nầy sẽ là của chúng ta khi Đấng Christ đến và thân thể chúng ta được biến đổi. Rồi chúng ta sẽ nên giống như Ngài - I Giăng 3:2. Trọn vẹn và thánh khiết. Phao-lô trong Phi-líp 3:12-14 ao ước đến ngày trọn vẹn tương lai, trong khi hằng ngày ông hoàn tất sự nên thánh liên tục của ông trên quả đất nầy.
V. LÝ DO TA CẦN NÊN THÁNH :
Giăng 17:19 "Con vì họ tự làm nên thánh, hầu cho họ cũng nhờ lẽ thật mà được nên thánh vậy." Nếu Chúa Jêsus cần được nên thánh thì chắc chắn tôi cũng cần được nên thánh.
Làm thế nào Ngài vốn là Con Đức Chúa Trời lại làm cho mình thánh hơn? Một câu trả lời khả dĩ được tìm thấy trong Rô-ma 15:3 "Vì Đấng Christ cũng không làm cho đẹp lòng mình." Ngài luôn luôn tiến tới một cái gì tốt đẹp hơn. Điều nầy khích lệ, thúc giục chúng ta là môn đệ của Ngài cứ tiến tới, tiến lên để trở nên giống như Ngài càng ngày càng hơn.
VI. NHỮNG KẾT QUẢ CỦA SỰ NÊN THÁNH:
1. Trọn vẹn qua Đấng Christ:
- Hê-bơ-rơ 10:14 "Vì nhờ dâng chỉ một của tế lễ, Ngài làm cho những kẻ nên thánh được trọn vẹn đời đời."
2. Kết trái thánh khiết:
- Rô-ma 6:22 "Thì anh em được lấy sự nên thánh làm kết quả và sự sống đời đời làm cuối cùng."
Lòng bạn có khao khát sự thánh khiết không? Có khao khát sự nên thánh không? Sự trở nên giống như Chúa Jêsus? Hãy xưng tội lỗi của bạn, nhu cầu của bạn cho Ngài. Ngài sẽ thỏa mãn những khát vọng sâu xa nhất của linh hồn bạn. Giá phải trả là luôn luôn sẵn sàng từ bỏ tội lỗi và sự bất khiết.
VII. LÀM THẾ NÀO DUY TRÌ BƯỚC NÊN THÁNH :
1. Hãy sống đời sống vâng phục dứt khoát theo ánh sáng mà Đức Thánh Linh ban cho bạn.
2. Nếu bạn thất bại, hãy lập tức xưng ra với Chúa. Ngài sẽ kịp thời khôi phục cho bạn.
3. Hãy chống cự ma quỉ và nó sẽ lánh xa anh em. Gia-cơ 4:7.
4. Hãy trung tín trong những việc đòi hỏi sự liên tục đều đặn trong đời sống người Cơ đốc như đọc Kinh thánh, cầu nguyện, làm chứng và sống cho tha nhân.
KẾT LUẬN :
Sự nên thánh bảo đảm cho chúng ta cơ nghiệp bên kia mồ mả.
Công vụ 26:18 "Đặng mở mắt họ, đưa họ từ tối tăm qua sáng láng, từ quyền lực Sa-tan đến cùng Đức Chúa Trời, đặng họ nhận được sự tha tội cùng phần gia tài với các thánh đồ."
Đừng nên nhìn vào trong và thất vọng, nhưng hãy nhìn lên và được khích lệ.
1 Tê-sa-lô-ni-ca 5:24 "Đấng đã gọi anh em là thành tín, chính Ngài sẽ làm việc đó."
LỜI GIỚI THIỆU:
Biết chắc về sự cứu rỗi của mình là việc cần thiết, nếu một tín đồ muốn giúp đỡ người khác về phương diện thuộc linh.
"Trong Hội thánh của tôi một số nghĩ rằng họ là Cơ đốc nhân, hầu hết họ hy vọng
như thế, một số nói như thế và một số ít biết họ đã được cứu" (Lời Mục sư H. Hildebrand).
Bạn đã kết hôn chưa? Bạn có chắc không? Hoặc bạn đã kết hôn hoặc bạn chưa kết hôn. Không thể có việc nửa có nửa không. Cũng một thể ấy, một người hoặc là được cứu hoặc là hư mất. Hoặc là "ở trong Đấng Christ." hoặc là ở ngoài Chúa.
Sự cứu rỗi là một phép lạ biến đổi. Phép lạ đó đã xảy ra hay chưa? Có hay là không? Nếu chúng ta "ở trong Đấng Christ" thì chúng ta phải có đầy đủ sự bảo đảm về sự cứu rỗi. Nhiều người trong Hội thánh không tin rằng bây giờ chúng ta có thể biết chắc về sự cứu rỗi của mình. Họ cảm thấy rằng, nói như thế là phạm thượng. Đức tin phải tin cậy Đức Chúa Trời. Nếu chúng ta được cứu rỗi bởi việc làm thì nói chắc như thế là không đúng. Vì một người cần tiếp tục làm và làm nữa. Phần giá của các việc làm cần phải đạt cho được một tiêu chuẩn nào đó. Nhưng sự cứu rỗi là một món quà (Ê-phê-sô 2:8) mà chúng ta tiếp nhận,và rồi chúng ta sở hữu sự cứu rỗi.
I. ĐỊNH NGHĨA "BIẾT CHẮC ĐƯỢC."
Biết chắc sự cứu rỗi là tuyệt đối tin tưởng rằng chúng ta đã được cứu và nếu chúng ta chết thình lình, chúng ta sẽ lập tức lên thiên đàng. Biết chắc sự cứu rỗi là sở hữu sự cứu rỗi, sở hữu Chúa Jêsus Christ.
Sự cứu rỗi là sự sống đời đời. Đó là sự sống của Đức Chúa Trời. Đó là sự sống thiêng liêng.
Nếu tôi sở hữu sự sống đời đời thì tôi được cứuđược cứu cả hiện tại và tương lai đời đời.
Giăng 10:28,29 "Ta ban cho chúng sự sống đời đời, chúng sẽ chẳng chết mất bao giờ và chẳng ai cướp chúng khỏi tay ta."
II. AI CÓ THỂ BIẾT CHẮC SƯ&5 CỨU RỖI :
1. Những người tiếp nhận Chúa Jêsus Christ làm Cứu Chúa của mình:
- Giăng 1:12 "Nhưng hễ ai đã nhận Ngài thì Ngài ban cho quyền phép trở nên con cái của Đức Chúa Trời."
2. Những người tin cậy Chúa Jêsus Christ :
- Giăng 3:16 "Hầu cho hễ ai tin Con ấy không bị hư mất mà được sự sống đời đời'
- Giăng 3:36 "Ai tin Con thì được sự sống đời đời."
III. NỀN TẢNG CỦA SỰ BIẾT CHẮC ĐƯỢC CỨU RỖI :
Sự biết chắc có thể căn cứ trên cảm giác không?
Không bao giờ: Sa-tan có thể kiểm soát hay ảnh hưởng đến cảm giác của ta. Sức khỏe, thời tiết, hoàn cảnh và môi trường ảnh hưởng đến cảm giác của ta. Đối với một số người bước vào sự cứu rỗi là một cảm xúc hồi hộp thực sự. Đối với một số khác không có một cảm xúc nào đặc biệt. Về sự cứu rỗi Đức Chúa Trời đã ban cho chúng ta có 3 nền tảng để ta căn cứ vào đó mà biết chắc sự cứu rỗi của mình.
1. Lời làm chứng của Đức Thánh Linh:
- Rô-ma 8:16 "Chính Đức Thánh Linh làm chứng với lòng chúng ta rằng chúng ta là con cái Đức Chúa Trời."
Trước khi ta tin Chúa, Đức Thánh Linh sẽ cáo trách tội lỗi ta, nhắc chúng ta về sự công bình và sự phán xét hầu đến. Bây giờ, sau khi ta tin Chúa, chức vụ Ngài đã thay đổi. Ở trong mỗi một người tín đồ, Đức Thánh Linh trấn an trong linh hồn ta và ban sự an tâm xác định cho chúng ta nay thuộc về Chúa Jêsus rồi.
- Ga-la-ti 4:6 "Vì chúng ta là con cái, Đức Chúa Trời đã sai Thánh linh của Con Ngài ngự vào lòng chúng ta, kêu rằng Abba, Cha "Abba " là từ ngữ rất thân mật. Đức Thánh Linh sẽ thì thầm nhẹ nhàng trong tâm linh ta rằng: "Con hiện đang là con cái Đức Chúa Trời."
2. Lời của Đức Chúa Trời:
Thường thường, Đức Thánh Linh làm chứng qua lời Kinh thánh tức là Lời Chúa thành văn.
- I Giăng 5:10 "Ai tin Con Đức Chúa Trời thì có chứng ấy trong mình."
- I Giăng 5:13 "Ta đã viết những diếu nầy cho các con, hầu cho các con biết mình có sự sống đời đời, là kẻ nào tin đến Danh Con Đức Chúa Trời."
Điều kiện: TIN; kết quả: BIẾT CHẮC.
Nếu ma quỉ đến và cám dỗ bạn nghi ngờ sự cứu rỗi của mình, bạn hãy đặt ngón tay chỉ vào câu Kinh Thánh nầy và nhân danh Chúa xua đuổi ma quỉ thì nó sẽ chạy xa.
Hãy nói với Sa-tan: Lời Đức Chúa Trời nói rằng nếu tôi tin Chúa Jêsus Christ thì tôi có sự sống đời đời. Vào ngày... tôi tin Chúa Jêsus. Từ ngày đó tôi bắt đầu có sự sống đời đời. Tôi đã được cứu. Tội lỗi đã được tha. Tôi đang trên đường tiến bước về thiên đàng.
Hãy dùng Kinh thánh làm nền tảng để ta xây dựng sự biết chắc ơn cứu rỗi cho mình. Lúc đó, những người khác sẽ tìm đến với bạn là người nói về sự cứu rỗi cách có uy quyền.
Những câu Kinh thánh khác mà ta có thể xây dựng nền tảng sự cứu rỗi:
o Giăng 5:24 (Tin Có).
o Công vụ 13:39 (Ai đạt được điều kiện tin thì được xưng nghĩa).
o Lu-ca 7:48 (khi tội được tha, cửa vô thiên đàng mở rộng).
o Rô-ma 10:13 "Vì ai kêu cầu Danh Chúa thì được cứu " nếu tôi đã kêu cầu Danh Chúa Jêsus thì tôi biết chắc tôi đã được cứu.
3. Đời sống được thay đổi:
Mọi người xung quanh nhìn thấy sự thay đổi trong đời sống ta và biết chắc rằng chúng ta được cứu thực sự là Con Đức Chúa Trời đã tái sanh.
o I Giăng 3:14 "Chúng ta biết mình đã vượt khỏi sự chết mà đến sự sống bởi chúng ta yêu thương anh em." Đây là dấu hiệu xác định cho sự cứu rỗi.
Cơ đốc nhân là người mới trong Đấng Christ.
o 2 Cô-rinh-tô 5:17 "và điều nầy đã được thể hiện ra trong các tình cảm mới, các sở thích mới, các điều không thích mới, các tình yêu mới và sự thù ghét mới.
Quyền lực và sự hiện diện của thói quen xấu đã tiêu đi và điều nầy xác nhận tôi thật được cứu.
IV. VẤN ĐỀ CỦA SỰ BIẾT CHẮC ĐƯỢC CỨU RỖI :
Lời Đức Chúa Trời và Đức Thánh Linh nói rất rõ là chúng ta có thể biết chắc mình được cứu rỗi, tại sao có quá ít người biết chắc điều nầy?
Đối với một số người là vì họ đã lắng nghe theo lời tố cáo của ma quỉ.
Phương cách để thử nghiệm sự biết chắc nầy là trả lời hai câu hỏi sau đây :
1. Tôi đã tiếp nhận Chúa Jêsus Christ làm Chúa Cứu thế cho bản thân tôi chưa?
2. Tôi có thật lòng tin cậy nơi Chúa Jêsus Christ không? Nếu tôi có thể trả lời cách xác định rằng: "có " hoặc "rồi " cho cả hai câu hỏi nầy, thì căn cừ vào Lời của Đức Chúa Trời tôi đã được cứu.
Nghi ngờ Lời Đức Chúa Trời là một tội lỗi khủng khiếp gieo sự xấu hổ khinh thường Thánh kinh của Đức Chúa Trời.
Đối với Lời Chúa, không nên phỏng chừng vừa đúng vừa không. Phải tuyệt đối tin tưởng vì chỉ có đức tin mới tôn vinh và làm hài lòng Đức Chúa Trời. Hê-bơ-rơ 11:6.
V. NHỮNG TRỞ NGẠI CHO SỰ BIẾT CHẮC ĐƯỢC CỨU RỖI :
1. Không tin Lời Đức Chúa Trời :
Nếu tôi thật sự được cứu, tôi phải cầu nguyện xin Chúa tăng cường đức tin của tôi và giúp tôi luôn tin những gì Kinh thánh phán. Ngày nay, các tà giáo có khuynh hướng tân phái gieo rắc sự hoài nghi giá trị Lời Chúa. Ta hãy cầu nguyện để không bị thuyết phục xa cách đức tin thuần chánh nơi Lời Hằng sống vô ngộ của Đức Chúa Trời.
2. Sự mê ngủ thuộc linh :
Trong "Thiên lộ lịch trình." Cơ đốc nhân ngủ quên và làm mất đi cuốn sách chỉ đường. Thường thường, Cơ đốc nhân ngủ quên trên đường theo Chúa cũng đánh mất cả niềm vui và sự xác quyết về ơn cứu rỗi của mình. Nếu điều nầy xảy ra cho bạn, hãy xưng tội mình theo Lời Chúa dạy trong I Giăng 1:9 và khởi sự trở lại.
3. Yêu mến thế gian :
Sự yêu mến thế gian làm cho nghẹt ngòi những ước vọng về Đức Chúa Trời, về Lời Ngài, và về sự tương giao với Chúa.
4. Thiếu đầy dẫy Đức Thánh Linh:
Giăng 7:37 -39. Việc nầy thường xảy ra do việc thiếu đầu phục sự kiểm soát của Chúa Thánh Linh trong đời sống chúng ta.
Phương cách chữa trị: Đừng cố làm tôi hai chủ. - Hãy phó thác ý chí của bạn cho Chúa. Ngài sẽ hướng giãn bạn.
5. Quá nhấn mạnh đến những giáo lý như sự tiền định, sự lựa chọn hoặc cảm giác an ninh giả dối.
6. Tội lỗi và sự bội đạo, yếu đuối, sa sút... Phương cách chữa trị. Xưng tội, ăn năn. I Giăng 1:9.
KẾT LUẬN:
"Lạy Chúa, xin hãy tra xét lòng con và xem con có sở hữu sự cứu rỗi chưa? Nếu Chúa Jêsus thực sự sống trong con. Nếu con thực sự được cứu, xin giúp con không bao giờ nghi ngờ lời phán rõ ràng của Kinh Thánh. Nếu con chưa được cứu. Ôi, lạy Chúa, xin hãy loại bỏ đi sự an ninh giả dối Con muốn biết sự thật."
Cẩn thận: Hãy cẩn thận trong việc thuyết phục người ta rằng họ đã được cứu. Đây là công việc của Đức Thánh linh và Ngài là Đấng biết rõ lòng người.
Sự biết chắc được cứu rỗi giúp tôi trở thành người tín đồ Cơ Đốc mạnh mẽ hơn.
Sự biết chắc được cứu rỗi không phải là sự tự kiêu mà là sự tin cậy đơn sơ nơi Lời của Đức Chúa Trời. Khi tuyên bố "Tôi biết tôi đã được cứu rỗi" đòi hỏi ta phải có lòng khiêm tốn, vì đây hoàn toàn là việc thực hiện bởi ân điển và lòng thương xót của Chúa: Ngài cứu tôi, Ngài gìn giữ tôi và Ngài sẽ mang tôi lên thiên đàng.
LỜI GIỚI THIỆU:
Ma-thi-ơ 10:32, 33 "Bởi đó, ai xưng ta ra trước mặt thiên hạ thì ta cũng sẽ xưng họ ra trước mặt Cha ta ở trên trời, còn ai chối ta trước mặt thiên hạ thì ta cũng sẽ chối họ trước mặt Cha ta ở trên trời."
Rô-ma 10:9 "Vậy nếu miệng ngươi xưng Đức Chúa Jêsus ra và lòng ngươi tin rằng Đức Chúa Trời đã khiến Ngài từ kẻ chết sống lại thì ngươi sẽ được cứu."
Có thể làm một tín đồ bí mật không? (tức là người không công khai xưng nhận Chúa Cứu thế). Vâng, rõ ràng là trong một thời gian ngắn có người đã làm như thế. Trong Giăng 19:38 Giô-sép người A-ri-ma-thê, là một tín đồ bí mật. Nhưng về sau ông đã công khai xưng nhận Đấng Christ khi ông đến xin chôn xác Chúa. Nhưng không thể nào cứ làm tín đồ bí mật mãi vì Kinh Thánh dạy rõ trong Ma-thi-ơ 10:32,33 và Rô-ma 10:9.
Đây là hai phương diện trong sự cứu rỗi:
1. Tin trong lòng tức là việc tiếp nhận Chúa Jêsus làm Chúa Cứu thế của mình.
2. Miệng xưng Chúa Jêsus Christ là Chúa.
Người trộm cướp trên thập tự giá xưng nhận Chúa Jêsus là Chúa. Lu-ca 23:42 "Lạy Chúa, khi Ngài về Nước Trời xin hãy nhớ đến tôi."
Phao-lô trên đường đi Đa-mách đã xưng "Lạy Chúa, Chúa là ai? (Công vụ 9:5).
1 Cô-rinh-tô 12:3 "Nếu không cảm Đức Thánh Linh, cũng chẳng ai xưng Đức Chúa Jêsus là Chúa."
I. SỰ CẦN THIẾT CỦA VIỆC MIỆNG XƯNG CHÚA RA :
1. Chúng ta cần phải xưng nhận Chúa Jêsus ra bằng môi miệng bởi vì chính Đấng Christ truyền lịnh đó (Ma-thi-ơ 10:32,33).
2. Đây là nguồn giúp đỡ và sức mạnh trong đời sống cá nhân của chúng ta. Trong việc xưng nhận Đấng Christ ra thường thường ơn phước lớn nhất là niềm vui trong chính lòng ta.
Điều nầy tăng cường đức tin ta và ban cho ta sự can đảm lớn lao hơn để hầu việc Chúa.
Một Cơ đốc nhân biết làm chứng cho Chúa sẽ ít khi bỏ Chúa. Nói cách khác, nhiều người bội đạo đã khởi đầu sự thất bại của mình vì không dám công khai xưng nhận Chúa.
3. Sự xưng nhận Đấng Christ đem lại niềm vui thực sự cho người tin Chúa. Niềm vui đến do việc vâng lời Chúa. Bài làm chứng về Chúa lần đầu của người tin Chúa là dịp tiện vui mừng lớn nhất của người đó.
4. Việc xưng nhận Đấng Christ giải quyết nhiều nan đề. Những người khác biết bạn là ai, và bạn đang sống vì ai, họ sẽ kính trọng bạn thêm. Thế gian sẽ coi khinh một tín đồ Đấng Christ yếu đuối, hèn nhát và bí mật.
Sự cám dỗ đến nơi thế tục giải trí sẽ bị giới hạn và sự mời gọi đến các hoạt động hầu việc Chúa trong Hội thánh sẽ gia tăng. Việc đó sẽ tự động đặt bạn vào một nhóm người khác.
5. Bởi vì những gì Đấng Christ đã làm cho bạn. Nếu có ai đã làm cho bạn một việc tốt đẹp, bạn sẽ thích nói cho mọi người biết. Chẳng hạn ai đó cứu bạn khỏi chết, bạn há không ca tụng người đó sao? Chúng ta đã được Chúa Cứu thế cứu chuộc khỏi sự trầm luân trong bể tội, ta há không cho mọi người biết tin mừng đó sao?
II. NHỮNG PHƯƠNG PHÁP XƯNG NHẬN DANH CHÚA :
1. Công khai trong buổi nhóm họp của Hội thánh hoặc buổi cầu nguyện chung.
2. Chỗ riêng tư với các bạn bè, bà con, láng giềng trong cuộc thường đàm hằng ngày.
3. Xưng nhận Đấng Christ cách công khai trong lễ báp -têm, trong việc tương giao với một Hội thánh.
4. Xưng nhận Đấng Christ trong việc gia nhập một Hội thánh thật thiêng liêng và tích cực.
5. Xưng nhận Đấng Christ trong việc thường xuyên tham dự giờ nhóm của Hội thánh và giờ tiệc thánh. Có lẽ điều khó khăn nhất nhưng chính yếu nhất là đơn giản kể lại lời chứng của mình cho bạn bè, bà con và người xa lạ khác.
III. SỰ THƯỜNG XUYÊN XƯNG NHẬN DANH CHÚA :
Suốt đời chỉ cần một lần công khai xưng nhận Danh Chúa là đủ hay không? - Không, đó là việc mà chúng ta phải thường xuyên lập đi lập lại. Đời sống người tín đồ Cơ đốc không chịu xưng nhận Danh Chúa sẽ đói khổ và chết dần chết mòn.
Giê-rê-mi 20:9 "Nếu tôi nói: Tôi sẽ chẳng nói đến Ngài nữa, tôi sẽ chẳng nhơn danh Ngài mà nói nữa thì trong lòng tôi như lửa đốt cháy, bọc kín trong xương tôi và tôi mệt mỏi vì nín lặng không kiệu được nữa."
Đây là kinh nghiệm của Mọi người tín đồ thật của Đấng Christ khi họ có giới hạn lời chứng của mình. Một tia lửa không thể che giấu,nó tự tỏ mình ra. Một Cơ đốc nhân phải thường xưng nhận Danh Chúa ra.
IV. CHÚNG TA PHẢI LÀM CHỨNG CHO AI?
Công vụ 1:8 "Nhưng khi Thánh Linh giáng trên các ngươi thì các ngươi sẽ nhận lãnh quyền phép, và làm chứng về Ta tại thành Giê-ru-sa-lem xứ Giu-đê, xứ Sa-ma-ri, cho đến cùng trái đất."
Các tín đồ phải làm chứng về Chúa cho hết thảy mọi người. Giê-ru-sa-lem là quê hương, Giu-đê là tỉnh lỵ. Sa-ma-ri là nước láng giềng và rồi các dân ngoại khác.
Công vụ 5:20 "Hãy đi, chường mặt nơi đền thờ mà rao giảng cho dân chúng mọi lời nầy của sự sống."
Trách nhiệm chính của chúng ta là làm chứng với các bà con, bạn bè của chúng ta. Rồi về sau, vòng ảnh hưởng của chúng ta sẽ lan rộng và chúng ta sẽ đến với càng nhiều người càng hơn nữa.
V. PHẢI NÓI GÌ KHI XƯNG NHẬN DANH CHÚA :
Xưng nhận Danh Chúa là làm chứng về sự kiện một người nào đó là Cơ đốc nhân.
Một chứng nhân là người biết một cài gì đó.
Làm chứng không nhứt thiết phải giảng một bài giảng, nhưng là kể lại câu chuyện đơn giản, về những sự kiện thực mà chúng ta được biết.
Sự hiểu biết của một chứng nhân phải là lời chứng xác định, cá nhân chứ không phải là nghe đồn hay tưởng tượng. Đó phải là một cái gì đã ảnh hưởng đến một trong ngũ quan của người làm chứng (nghe, cảm, nếm, thấy, rờ).
1. Một chứng nhân phải là người được cứu.
2. Hãy kể lại những sự kiện đơn giản về sự qui đạo của bạn và sự đổi thay trong đời sống của bạn.
3. Hãy kể lại những lời cầu nguyện của bạn đã được Chúa trả lời . Thi thiên 50:15 "Hãy kêu cầu Ta trong ngày hoạn nạn, Ta sẽ giải cứu ngươi và ngươi sẽ tôn vinh Ta."
4. Hãy kể lại thể nào Đấng Christ đã làm bạn hoàn toàn thỏa mãn. Nếu bạn nói: " Tôi đã được cứu và thực sự sung sướng vì Chúa Jêsus đã cất đi tội lỗi của tôi rồi." Dân chúng sẽ lắng nghe lời chứng thành thật của bạn. Đừng bao giờ nói rằng bạn sung sướng trong khi bạn tỏ ra bên ngoài như một người khổ đến chết.
5. Hãy kể lại sự đắc thắng của bản thân bạn trên tội lỗi và các sự cám dỗ. Điều nầy sẽ hấp dẫn người ta và họ sẽ tôn vinh Chúa Cứu thế vì Ngài đã ban cho bạn sự đắc thắng đó. Dĩ nhiên, đời sống cá nhân của bạn sẽ trong sạch trước khi bạn làm chứng điều nầy.
6. Hãy kể lại những câu Kinh thánh đắc ý, ham thích của bạn, về thể nào Chúa phán với bạn qua khúc Kinh thánh bạn đọc sáng nay trong giờ tình nguyện.
7. Hãy trao lại cho các bạn bè về Phúc âm của Đấng Christ. Hãy nói về cuộc đời trọn vẹn của Đấng Christ, về sự chết, sự chôn, sự phục sinh, sự thăng thiên, sự tái lâm và sự phán xét tương lai của Ngài.
VI. CÁC TRỞ NGẠI CHO VIỆC XƯNG NHẬN DANH CHÚA :
1. Sợ người: Sợ lời chống đối, sợ dự luận, sợ người ta.
- 2 Ti-mô-thê 1:7 "Vì Đức Chúa Trời chẳng ban cho chúng ta tinh thần nhút nhát, nhưng là tình yêu và quyền phép... ."
- I Giăng 4:18 "Quyết chẳng có điều sợ hãi trong sự yêu thương nhưng sự yêu thương trọn vẹn ném bỏ sự sợ hãi."
- Phi-líp 4:13 "Tôi làm được mọi sự nhờ Đấng ban thêm sức cho tôi." kể cả việc làm chứng.
2. Hổ thẹn:
- 2 Ti-mô-thê 1:8 "Vậy con chớ thẹn vì phải làm chứng cho Chúa chúng ta cũng đừng lấy sự ta vì Ngài ở tù làm xấu hổ, nhưng hãy cậy quyền phép Đức Chúa Trời mà chịu khổ với Tin lành."
3. Đời sống bất khiết :
Sợ lời chứng của mình không phù hợp với đời sống của mình. Hãy làm lại từ đầu. Hãy xưng tội với Chúa theo I Giăng 1:9 và xin Chúa ban cho bạn sự khởi đầu tươi mới lại với Ngài. Sự công khai thừa nhận thất bại là một khởi điểm rất tốt cho một đời sống tận hiến cho Chúa.
VII. NGUY HIỂM CỦA VIỆC KHÔNG LÀM CHỨNG :
Ê-xê-chi-ên 33:8 "Khi Ta phán cùng kẻ dữ rằng: Hỡi kẻ dữ, mầy chắc sẽ chết, nếu ngươi không răn bảo để cho kẻ dữ xây bỏ đường lối xấu của nó thì kẻ dữ ấy sẽ chết trong sự gian ác mình, nhưng ta sẽ đổi máu nó nơi tay ngươi."
Đây là lời cảnh cáo nghiêm trọng cho những tín đồ im lặng về Chúa. Chúng ta không nhất thiết chịu trách nhiệm về các thành quả của việc làm chứng. Nếu tội nhân không chấp nhận lời chứng của ta thì đó là trách nhiệm của họ.
KẾT LUẬN:
Bạn đã xưng Danh Chúa Jêsus làm Chúa Cứu thế của bạn chưa? Khải 2:10.
Bạn có làm chứng về Chúa cho bà con, bạn bè của bạn chưa?
LỜI GIỚI THIỆU :
Châm ngôn 11:30 "Người khôn ngoan có tài được linh hồn người ta." Cũng xem Đa-ni-ên 12: 3, Thi thiên 126:5,6 "Kẻ nào gieo giống mà giọt lệ sẽ gặt hái cách vui mừng. Người nào vừa đi vừa khóc đem giống ra rải, ắt sẽ trở về cách vui mừng, mang bó lúa mình."
Ít người được kêu gọi làm Mục sư, Truyền đạo nhưng mọi người tín đồ Đấng Christ đã tái sanh đều được kêu gọi làm người chinh phục linh hồn tội nhân.
Các Mục sư Truyền đạo thường bận rộn với các buổi nhóm họp và các lớp học đến nỗi họ quên việc tiếp xúc riêng tư trong công tác chinh phục linh hồn.
Có một câu chuyện kể về giấc ác mộng của một Mục sư: Ông đứng trước tòa phán xét và Đức Chúa Trời hỏi: Những linh hồn của các bạn bè và tôi tớ của ngươi ở đâu? Ông thưa: - Thưa Chúa, tôi không biết" và lập tức ông bị rơi xuống hỏa ngục. Khi kể xong câu chuyện giấc mơ của mình cho người vợ nghe, Ông Mục sư ngã xuống, qua đời.
Sự chinh phục linh hồn là một cố gắng nhứt định nhằm hướng dẫn một người nhứt định tiếp nhận một Cứu Chúa nhứt định vào một thời gian nhứt định (Billy Sunday).
Những người bình thường đã chinh phục được những vĩ nhân như Moody và Spurgeon. Anh-rê đã đưa Phi-e-rơ đến với Chúa Jêsus.
I. NHỮNG LÝ DO TA PHẢI CHINH PHỤC LINH HỒN :
1. Giá trị của một linh hồn: Có thể lắm chúng ta là người duy nhất có thể gây ấn tượng trên linh hồn đặc biệt nào đó, và linh hồn của người đó là quí báu hơn cả thế gian. Mác 8:35-38.
2. Sự kiện hỏa ngực là có thật: Nếu chúng ta thực sự tin rằng linh hồn tội nhân đang trên đường đến sự hư mất đời đời, nơi hỏa ngục là nơi lửa và diêm cháy bừng bừng là nơi đau đớn, tối tăm, khóc lóc, nghiến răng cho đến đời đời, thì chắc chắn chúng ta sẽ làm hết sức mình để thuyết phục linh hồn tội nhân ăn năn tin nhận Chúa Jêsus.
3. Sự thống khổ của Chúa Jêsus Christ trên thập tự giá dành cho mỗi tội nhân.
4. Sự trống rỗng, điên dại và hư không của thế gian nầy. Trong Đấng Christ, chúng ta tìm thấy những diều quí báu vô cùng có thể đem tặng cho bạn bè chùng ta.
5. Ước muốn có đầy đủ những người thân yêu ruột thịt được cứu trên thiên đàng. Thật là buồn bã biết bao khi biết rằng một thân nhân của chúng ta đang bị hư mất chỉ vì chúng ta lười biếng hoặc bất cẩn.
6. Sự vinh hiển của thiên đàng thúc giục ta chia xẻ cho những người khác cùng hưởng với chúng ta.
7. Những phần thưởng cá nhân Chúa dành cho những chứng nhân trung tín như mão triều thiên, bằng khen của Chúa, địa vị cao cả trong nước Chúa...v.... v.
II. ĐIỀU KIỆN ĐỂ LÀM NGƯỜI CHINH PHỤC LINH HỒN :
1. Người đó phải được cứu và biết chắc sự cứu rỗi của mình.
2. Người ấy phải sống một đời sống trong sạch bề trong lẫn bề ngoài. Một đời sống đầu phục Chúa Jêsus Christ.
3. Người ấy phải hầu việc trong tinh thần yêu thương và kiên nhẫn, không có thái độ kiêu căng hoặc thiếu kiên nhẫn.
4. Người ấy phải có sự hiểu biết tương đối đầy đủ về Kinh thánh và biết sử dụng Kinh thánh. Hãy chuyên cần nghiên cứu Kinh thánh. Sự dốt nát về Kinh thánh không thể tha thứ được cho một chứng nhân. Đức Chúa Trời phán trong Gia-cơ 1:5 "Trong anh em có ai thiếu sự khôn ngoan hãy cầu xin Đức Chúa Trời là Đấng ban cho mọi người cách rộng rãi, không trách móc ai."
5. Người ấy phải là người cầu nguyện, nhờ cậy Chúa biến cải tội nhân.
6. Đời sống người đó phải có quyền năng trong sự đầy dẫy Đức Thánh Linh. Ê-phê-sô 5:18 "Đừng say rượu vì rượu xui cho luôn tuồng, nhưng phải đầy dẫy Đức Thánh Linh."
7. Người ấy phải có sự thương xót các linh hồn hư mất. Nếu không có lòng thương xót, người ấy sẽ làm việc theo tinh thần chiếu lệ, máy móc và không có lòng - Tội nhân sẽ đáp ứng cách tương tự.
III. ĐƯỜNG LỐI CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI TRONG VIỆC CHINH PHỤC LINH HỒN:
1. Phải đi ra: Thi thiên 126:5,6 "Kẻ nào đi ra gieo giống..." - Không nên đợi cho tội nhân nói với bạn hoặc mở đầu câu chuyện. Nguyên tắc của Đức Chúa Trời là bạn phải đi đến với tội nhân và mở đầu câu chuyện cứu rỗi họ.
2. Với tấm lòng yêu thương tan vỡ vì các linh hồn: "Vừa đi vừa khóc. Chúa Jêsus khóc về thành Giê-ru-sa-lem. Lòng Ngài đầy dẫy lòng thương xót người hư mất. Tiên tri Giê-rê-mi ước ao có thể khóc vì dân Y-sơ-ra-ên suốt ngày đêm. (Giê-rê-mi 9:1). Phao-lô đã khóc cho các linh hồn (Công vụ 20:19). Nhiều nước mắt và thử thách. Công vụ 20:31 "Trong ba năm, hằng đêm va ngày, tôi hằng chảy nước mắt ra mà khuyên bảo cho mọi người luôn."
3. Với Lời của Đức Chúa Trời: "Mang giống ra rải." Đừng hy vọng người ta sẽ hối cải nhờ tài biện luận, hay sự tranh cãi tài ba của bạn. Phi-e-rơ nói rằng con người được tái sanh nhờ Lời của Đức Chúa Trời (I Phi-e-rơ 1:23). Chúa Jêsus khuyên chúng ta trong thí dụ về người gieo giống phải gieo giống tốt. Một câu Kinh thánh có khi đầy đủ hơn là nhiều câu chỉ gây bối rối. Hãy học thuộc lòng các câu Kinh thánh. Học thuộc bản mục lục và địa chỉ các câu Kinh thánh để dễ tìm trưng dẫn. Hãy nương dựa nơi Lời Đức Chúa Trời trong sự cáo trách tội lỗi và tái sanh trong đức tin.
4. Sự kết quả chắc chắn: "Gặt hái cách vui mừng, mang bó lúa mình." Bạn sẽ không chinh phục được mọi linh hồn bạn tiếp xúc đâu. Nhưng một số người sẽ được bạn chinh phục về cho Chúa. Có thể bạn chỉ chinh phục được 2% cho Chúa, và cũng có thể bạn nói về Chúa cho một người suốt 10 lần và rồi chinh phục được người đó trong lần thứ 11. Mỗi lần nói chuyện có thể là một vòng xích trong sợi dây chuyển kéo người ta đến cùng Đấng Christ.
5. Niềm vui của người đi chinh phục linh hồn: "Gặt hái cách vui mừng" "Vui mừng trở về." Kinh thánh nói đến việc cả thiên đàng vui mừng khi thấy một tội nhân ăn năn. Lu-ca 15:7 - 10, Ê-sai 53:11 "Người sẽ thấy kết quả của sự khốn khổ linh hồn mình và lấy làm thỏa mãn." Niềm vui của sự cứu rỗi thường được nhân lên gấp bội trong việc chinh phục linh hồn.
IV. CÁC THỦ TỤC VÀ NGUYÊN TẮC CHUNG TRONG VIỆC CHINH PHỤC LINH HỒN :
1. Tìm kiếm và cầu nguyện Chúa cho có cơ hội và rồi sử dụng ngay cơ hội đến. Đừng nên đợi một thời cơ khác thuận lợi hơn.
2. Hướng dẫn trực tiếp tội nhân đến việc tiếp nhận Đấng Christ. Có thể ta chỉ nói chuyện về Đấng Christ, về Kinh thánh, về các đề tài liên hệ mà không bao giờ đối diện với đề tài chính.
3. Nên liên hệ với người cùng tuổi tác và phái tính. Tuy nhiên, nếu Chúa Thánh Linh thúc giục bạn nói về Chúa cho một người nào, bạn đừng ngần ngại. Cứ lập tức tiến hành.
4. Phải lịch sự: Đừng nói quá nhiều cũng đừng tranh luận. Hãy để cho tội nhân phát biểu.
5. Tránh thái độ thân mật suồng sã: Một số người chấp nhận nhưng một số khác thì không chịu được được.
6. Nên tiếp xúc với từng cá nhân khi có dịp. Trong đám đông, một người hay "giấu mặt" nhưng trong chỗ riêng tư người đó dễ thố lộ với bạn, từ lòng đến lòng hơn.
7. Luôn luôn tự tin: Nếu tội nhân xưng tội. Hãy nhớ Kinh thánh nói rằng: Gia-cơ 5:20 "Kẻ làm cho người có tội trở lại, bỏ đường lầm lạc, ấy là cứu linh hồn người khỏi sự chết và che đậy vô số tội lỗi."
8. Đừng để bị lôi cuốn vào các cuộc tranh luận. Ma quỉ hay dùng thủ đoạn nầy để tội nhân nó tránh sự ăn năn.
9. Đừng nhờ cậy khả năng riêng là kinh nghiệm riêng của bạn. Hãy luôn thầm nguyện xin Chúa dẫn dắt.
10. Đừng nổi nóng hoặc thiếu kiên nhẫn. Đây là quyết định quan trọng nhất trong cuộc đời, và việc người ta suy xét kỹ trước khi tiếp nhận là việc phải lẽ.
11. Hãy tiếp xúc với tội nhân y như mình cũng là tội nhân như họ. Chứ không phải một thánh nhân.
KẾT LUẬN:
Khi một người sẵn sàng tiếp nhận tin Chúa, hãy nên mời người đó quì gối cầu nguyện. Hãy cầu nguyện cho người đó, nhưng nếu người đó tự cầu nguyện được càng tốt.
Sau khi cầu nguyện hãy cho người đó đọc một vài câu Kinh Thánh bảo đảm sự cứu rỗi. Hãy theo dõi cầu nguyện và chăm sóc người mới tin Chúa bằng sự tiếp xúc thêm.
Nên giúp người đó làm chứng về Chúa càng sớm càng tốt.
Nếu các cố gắng của bạn chưa có kết quả, hãy tiếp tục cầu nguyện cho đến khi Đức Chúa Trời ban ơn kết quả.
LỜI GIỚI THIỆU:
Sự dâng mình là một từ liệu của Cựu Ước có nghĩa là biệt riêng, cung hiến cho chức vụ hay cho sự vinh hiển Danh Chúa.
Danh từ nầy xuất hiện hai lần trong Hê-bơ-rơ 7:8 và Hê-bơ-rơ 10:20.
Trong bản tiếng Anh: "Bởi đường mới và sống mà Ngài đã cung hiến cho chúng ta", "ngang qua cái màn." Sự dâng mình không có nghĩa là sự qui đạo hay tình trạng trọn vẹn vô tội.
Sự dâng mình chỉ là việc linh hồn phó thác trọn vẹn cho Chúa Jêsus - không giữ lại điều gì. Đây là sự tận hiến cho Đấng Christ mãi mãi, như là được Chúa mua chuộc bằng một giá cao, ta không còn thuộc về ta nữa mà ta hoàn toàn thuộc về Chúa.
I Sử ký 29:5 "Vậy ngày nay, ai là người vui lòng dâng mình cho Đức Giê-hô-va?
"Ai vui lòng"? - Đức Chúa Trời trình bày một cơ hội để ta dâng mình cho Ngài.
"Vui lòng dâng mình" - Sự dâng mình là một hành động của ý chí. Tôi phải quyết định. Bản ngã của tôi phải đầu phục uy quyền của Đấng Christ như là người chủ của tôi. Ai là ông chủ của đời tôi?
Riêng bản thân tôi - tác giả bài nầy - đã quyết định dâng mình cho Chúa, sau khi nghe bốn bài giảng về bốn sự đầu phục của Áp-ra-ham.
1. Rời khỏi quê hương và bà con. Sáng 12:1.
2. Phân rẽ khỏi Lót. Sáng 13:9.
3. Đuổi A-ga và Ích-ma-ên. Sáng 21:10.
4. Dâng con là Y-xác. Sáng 22.
I. SỰ DÂNG MÌNH LÀ GÌ?
Sự dâng mình liên hệ đến hai hành động:
1. Đầu phục ý chí của tôi cho Đức Chúa Trời - vì sự vinh hiển của Ngài.
2. Sự dâng mình là hành động của Đức Chúa Trời khi Ngài tiếp nhận sự hy sinh của tôi.
Các thầy tế lễ không tự dâng mình. A- rôn và các con của ông chỉ có việc đầu phục ý Chúa. Sự dâng mình liên hệ đến sự tôi dâng hiến đời tôi cho Đức Chúa Trời (Mi-chê 4:13)
Nó liên hệ đến sự biệt riêng ra cho Đức Chúa Trời (Dân số 6:12). Nó liên hệ đến sự đầy dẫy (Xuất 29: 33) - Được đầy dẫy Đức Thánh Linh. Nó cũng liên hệ đến việc biệt riêng mình ra cho công tác phục vụ Chúa (Xuất 28:3).
II. AI CÓ THỂ DÂNG MÌNH?
Những người đã được huyết Chúa tẩy sạch tội lỗi được quyền dâng mình cho Chúa.
Những người làm thành viên của gia đình Đức Chúa Trời được mời gọi dâng mình cho Chúa. Sự dâng mình không chỉ độc quyền giới hạn cho người có tài năng, nhưng mở rộng cho mọi tín đồ.
Phao-lô nói: "Vậy hỡi anh em, tôi lấy sự thương xót của Đức Chúa Trời khuyên anh em dâng thân thể mình làm của lễ sống và thánh đẹp lòng Đức Chúa Trời... (Rô-ma 12:1)
III. SỰ KÊU GỌI DÂNG MÌNH :
Rô-ma 12:1 "Tôi lấy sự thương xót của Đức Chúa Trời." Chúng ta không bị bắt buộc bằng uy quyền hay bằng sức mạnh, nhưng bằng sự thương xót của Chúa. Sự dâng mình của chúng ta không được thúc đẩy bởi sự sợ hãi, nhưng bởi sự yêu thương vả sự thương xót.
Một số sự thương xót củ Đức Chúa Trời đối với chúng ta là "sự xưng nghĩa, sự nên thánh, sự ngự trị của Đức Thánh Linh, sự không còn định tội, sự giúp đỡ hằng ngày, thiên
đàng sau khi chết, sức khỏe, bạn bè, Hội thánh... Chúa ban cho ta nhưng không."
IV. HÀNH ĐỌNG CỦA SỰ DÂNG MÌNH :
Rô-ma 12:1 "Dâng thân thể mình... ."
1. Đây là sự tự nguyện: Phao-lô nài nỉ, khuyên mời. Điều nầy giống như tặng một món quà. Chúng ta không bị bắt buộc tặng quà cho ai.
2. Đây có tính cách cá nhân: "Thân thể mình." Điều nầy có nghĩa là đời sống ta, mọi sự ta có.
3. Đây là sự hy sinh: "Tế lễ sống và thánh." Đây là việc đặt đời sống ta trên bàn thờ như Áp-ra-ham dâng Y-sác.
Sự dâng mình cho Đức Chúa Trời chắc chắn đẹp lòng Cha chúng ta.
Cha về phần xác sẽ buồn lòng nếu đứa con ngần ngại đến cùng mình. Người con chấp nhận sự bảo vệ của Cha, cơm ăn áo mặc của Cha, nhưng người Cha cũng muốn có sự thông công thân mật của người con.
Tôi tin rằng đây là hành động tuyệt đỉnh của sự thờ phượng. Sáng 22:5 "Ta cùng đứa trẻ sẽ đi đến chốn kia đặng thờ phượng, rồi sẽ trở lại với hai ngươi."
V. LÝ LẼ CỦA SỰ DÂNG MÌNH :
Rô-ma 12:1 "Sự thờ phượng phải lẽ."
Nếu chúng ta thực sự được cứu chuộc thì việc chúng ta dâng mình hầu việc Chúa là hoàn toàn hợp lý.
Billy Sunday nói: "Hầu việc Đức Chúa Trời là điều hoàn toàn hợp lý. Đó là điều phải làm."
Có lẽ chúng ta sẽ nói rằng điều đó khó quá. Đúng vậy, việc Đức Chúa Trời từ giã người Con của Ngài cũng khó quá. Áp-ra-ham dâng con mình là Y-xác cũng khó lắm. Cuộc đời của Giô-xép rất khó khăn. Việc Môi-se phải từ bỏ cuộc sống tiện nghi trong cung điện của Pha-ra-ôn cũng khó khăn. Việc ông Gióp mất hết của cải cũng thật khó khăn. Phao-lô phải làm chứng về Chúa tại Rô-ma và Ê-phê-sô rất khó khăn, nhưng đó là ý chỉ của Chúa, và các thánh nhân nói trên đã thuận phục ý Chúa.
VI. TÔI PHẢI DÂNG GÌ CHO CHÚA?
Rô-ma 12:1 "Dâng thân thể mình."
1. Thân thể của tôi phải được dâng cho Ngài để Ngài sử dụng theo ý Ngài muốn nhầm làm vinh hiển Danh Chúa. Thân thể chúng ta không còn thuộc về chúng ta nữa. Thân thể chúng ta đã được Chúa mua chuộc bằng chính huyết Ngài.
a. Dâng cho Chúa sức khỏe của ta. Ngợi khen Chúa vì sức khỏe Chúa cho và sử dụng sức khỏe đó cho Ngài.
b. Dâng cho Chúa đôi bàn chân ta để đem Tin lành đến cho người khác.
c. Dâng đôi bàn tay ta cho Chúa để làm các việc lành và nâng đỡ người sa ngã.
d. Dâng cho Chúa đôi mắt để tìm kiếm người đang hư mất.
e. Dâng cho Chúa đôi tai ta để nghe tiếng thở than của người bị ma quỉ áp bức và tìm kiếm họ về cho Chúa.
2. Thì giờ của tôi dâng cho Chúa: Chúa phải quản trị việc sử dụng thì giờ của tôi. Hãy để Ngài sắp xếp chương trình. Mọi thì giờ học hành, làm việc, chơi nghỉ của tôi phải được xem như là những thì giờ thiêng liêng. Hãy để Chúa hướng dẫn bạn từng giờ từng phút. Ê-phê-sô 5:16, Cô-lô-se 4:5 " Hãy lợi dụng thì giờ."
3. Tài năng của tôi dâng cho Chúa: Dầu tôi có Một, hai hay năm mười ta lâng, cũng dâng hết cho Ngài.
a. Tài năng nói, giảng, dạy Lời của Chúa.
b. Tài năng hát, âm nhạc, điều khiển ban nhạc đều dâng cho Chúa.
c. Tài năng viết sách, làm thơ, đặt chuyện. Hãy viết cho Ngài.
d. Tài năng cầu nguyện, cầu thay, làm một chiến sĩ cầu nguyện. Đây là một trong những ta lâng lớn nhất.
e. Tài năng lãnh đạo và tổ chức. Hội thánh ngày nay rất cần.
f. Tài năng giúp đỡ người khác, phụ tá, chấp hành.
g. Tài năng chuyên môn thể hiện trong các nghề nghiệp: y tá, dạy học, điện tử, bán buôn...
4. Tài sản của tôi dâng cho Chúa: Chúng ta hãy vui vẻ dâng cho Chúa vàng, bạc và mọi sự chúng ta có. Không chỉ dâng cho Chúa phần mười, nhưng dâng tất cả cho Ngài.
5. Lòng tôi dâng cho Chúa: Đây là điều Chúa mong muốn tôi dâng cho Ngài hơn tất cả mọi sự khác. Tấm lòng là tượng trưng cho con người bề trong, con người thật. 2 Cô-rinh-tô 8:5"... trước hết đã dâng chính mình cho Chúa...." Dâng mình cho Chúa có nghĩa là dâng hết mọi sự tôi có cho Chúa, nhưng trước hết và trên hết là dâng lòng tôi cho Chúa.
VII. CÁC KẾT QUẢ CỦA SỰ DÂNG MÌNH:
Rô-ma 12:2.
1. Một đời sống không làm theo đời nầy. Đây không phải là đời sống vị kỷ, trần tục.
2. Một đời sống được biến hóa bởi sự đổi mới của tâm thần. Người được đổi mới suy nghĩ như Đức Chúa Trời nghĩ, với những giá trị vĩnh cửu, với quan điểm đời đời.
3. Một đời sống hòa hợp với ý muốn của Đức Chúa Trời. Vui vẻ đi theo kế hoạch của Ngài dành cho tôi.
4. Một đời sống đẹp lòng Chúa và đẹp lòng người.
5. Một đời sống tốt lành. Mọi người sẽ trỗi dậy và xưng bạn là người có phước vì bạn vâng lời Đức Chúa Trời.
6. Một đời sống hạnh phúc,vui vẻ, đắc thắng bởi vì tôi sống theo ý chỉ trọn vẹn của Đức Chúa Trời, là Đấng đã tạo nên tôi và cứu tôi bằng chính huyết báu của Ngài.
KẾT LUẬN:
Sự dâng mình là một tiến trình. Đó là sự đầu phục từng ngày, từng giờ trong cuộc sống. Sự đầu phục mới mẻ mỗi ngày nhờ sự thúc đẩy của Chúa Thánh Linh là hành động thờ phượng cao cả nhất. Hãy dâng mình bạn cho Chúa ngay bây giờ.
Chú ý: Đừng bao giờ lấy lại. Một món quà tặng không nên xin lại bao giờ.
LỜI GIỚI THIỆU:
Cơ đốc nhân là một người từ bỏ ý riêng và đầu phục ý Chúa trong mọi việc mình làm suốt cả cuộc đời. Vấn đề mỗi một Cơ đốc nhân đối diện là làm thế nào biết chắc ý chỉ của Đức Chúa Trời. Đời sống của Chúa Jêsus Christ trên thế gian là thí dụ cụ thể trọn vẹn về sự hòa hợp hoàn toàn với ý chỉ của Đức Chúa Trời.
Hê-bơ-rơ 10:7 "Nầy tôi đến, trong sách có chép về tôi. Tôi đến để làm theo ý Chúa."
Chúa Jêsus Christ đã đến thế gian để làm trọn ý Chúa. Chúa Jêsus thực đã làm xong công việc Cha giao cho Ngài làm trên đất. Giăng 17:4.
Cũng như Chúa Jêsus được giao phó một công tác đặc biệt cần làm xong trên mặt đất, chúng ta là mỗi tín đồ của Ngài cũng được giao phó một sứ mạng đặc biệt tương tự để hoàn thành.
Trách nhiệm của bạn và tôi là tìm biết kế hoạch của Đức Chúa Trời dành cho đời sống của mình.
I. ĐỨC CHÚA TRỜI CÓ MỘT KẾ HOẠCH CHO MỖI ĐỜI SỐNG :
Mỗi người dân của Chúa đều có một kế hoạch thiêng liêng. Kế hoạch nầy phù hợp với nhân cách, tài năng,nhu cầu, tiềm năng và môi trường quanh chúng ta.
Ê-phê-sô 2:10 "Vì chúng ta là việc Ngài làm ra, đã được dựng nên trong Đức Chúa Jêsus Christ để làm việc lành mà Đức Chúa Trời đã sắm sẵn trước cho chúng ta làm theo. Đức Chúa Trời đã hoạch định trước một số công tác đặc biệt cho mỗi một cá nhân người Cơ đốc.
Hê-bơ-rơ 12:1"... theo đòi cuộc chạy đua đã bày ra cho ta." Có một cuộc thi đua khác nhau cho mỗi một chúng ta. Phao-lô có thể nói: "Tôi đã xong sự chạy." Ông đã làm xong công tác của mình. II Ti-mô-thê 4:7, Công vụ 22:14 "Đức Chúa Trời của tổ phụ chúng ta đã định cho anh được biết ý muốn Chúa." Đức Chúa Trời muốn Phao-lô biết ý Ngài.
- Kế hoạch của Đức Chúa Trời dành cho bạn có tính cá nhân. Đó là kế hoạch cho riêng bạn.
Thi 32:8 "Ta sẽ dạy dỗ ngươi, chỉ cho ngươi con đường phải đi. Mắt ta sẽ chăm chú ngươi mà khuyên dạy ngươi."
- Kế hoạch của Đức Chúa Trời rất là tỉ mỉ kỹ càng.
Thi 37:23 "Đức Giê-hô-va định liệu các bước của người." Đức Chúa Trời không bày tỏ cho ta thấy tương lai xa xôi, nhưng Ngài luôn luôn tỏ bày từng bước từng bước.
- Kế hoạch Đức Chúa Trời thì liên tục mãi.
Ê-sai 38:11 "Đức Giê-hô-va sẽ cứ dắt đưa ngươi."
- Kế hoạch của Đức Chúa Trời thì xác định và đặc biệt.
Ê-sai 30:21 "Khi các ngươi xê qua bên hữu hoặc bên tả, tai các ngươi sẽ nghe có tiếng đàng sau mình rằng: Nầy là đường đây, hãy noi theo."
Đức Chúa Trời hướng dẫn ta bằng Thánh Linh Ngài qua Lời Ngài.
Đức Chúa Trời muốn chúng ta biết kế hoạch của Ngài.
Thi 143:8 "Xin chỉ cho tôi biết con đường phải đi."
Đức Chúa Trời muốn chúng ta cầu nguyện nhiều xin Chúa dẫn dắt từng chi tiết trong cuộc sống hằng ngày.
Ý chỉ của Đức Chúa Trời luôn luôn là tốt lành, đẹp lòng và trọn vẹn cho từng người tín đồ.
Rô-ma 12:2 "Để thử cho biết ý muốn tốt lành, đẹp lòng và trọn vẹn của Đức Chúa
Trời là thể nào."
II. KẾ HOẠCH CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI RẤT QUAN TRỌNG CHO MỖI ĐỜI SỐNG :
Có thể lắm chỉ vì sự ích kỷ và cứng cỏi, đi theo ý riêng mình mà chúng ta làm hỏng kế hoạch của Đức Chúa Trời dành cho mỗi đời sống chúng ta. Đây là việc đáng buồn, đáng trách. Chúng ta không có khả năng hoạch định cuộc sống của mỗi chúng ta.
Giê-rê-mi 10:23 "Hỡi Đức Giê-hô-va, tôi biết đường của loài người chẳng do nơi họ, người ta đi, chẳng có quyền dẫn đưa bước của mình."
Chỉ có Đức Chúa Trời biết rõ tương lai và Ngài là Đấng duy nhất có khả năng lựa chọn nghề nghiệp hay đường đi nước bước chúng ta.
III. KẾ HOẠCH CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI BAO GỒM MỘT SỐ YẾU TỐ NHẤT ĐỊNH :
- Phân rẽ khỏi tội lỗi để sống thánh khiết.
1 Tê-sa-lô-ni-ca 4:3 "Vì ý muốn Đức Chúa Trời là khiến anh em nên thánh tức là phải lánh sự ô uế."
Đức Chúa Trời là thánh và ý muốn của Ngài là luôn luôn muốn chúng ta nên giống như Ngài.
- Cầu nguyện và cảm tạ Chúa luôn luôn là ý muốn Ngài đối với chúng ta.
1 Tê-sa-lô-ni-ca 5:17,18 "Hãy vui mừng mãi mãi, cầu nguyện không thôi và phàm việc gì cũng phải cảm tạ vì ý muốn của Đức Chúa Trời trong Đức Chúa Jêsus Christ là như vậy."
- Làm việc thiện luôn luôn là phù hợp ý Chúa.
I Phi-e-rơ 2:15 "Vì anh em làm điều lành để ngăn miệng những kẻ ngu muội dại dột, ấy là ý muốn của Đức Chúa Trời "
IV. NHỮNG ĐIỀU KIỆN ĐỂ ĐƯỢC CHÚA DẪN DẮT:
1. Tin cậy Chúa: Thi 37:3, Thi 32:8. Chỉ có người tín đồ mới được Chúa Dẫn dắt: Kế hoạch của Đức Chúa Trời dành cho tội nhân chỉ gồm có một điều là họ phải tin và được cứu rỗi.
2. Cũng hãy khoái lạc nơi Đức Giê-hô-va.Thi thiên 37:4. Điều nầy có nghĩa là ham thích ý Chúa, sẵn sàng vâng phục ý Chúa.
3. Phó thác đường lối mình cho Đức Giê-hô-va. Thi 37:5.Chúng ta phải hoàn toàn đặt đức tin vào Chúa.
4. Yên nghỉ trong Chúa và kiên nhẫn chờ đợi Ngài. Thi 37:7.Đức Chúa Trời hứa dẫn dắt chúng ta nhưng Ngài không nhứt thiết trả lời ngay hôm chúng ta yêu cầu.
5. Đầu phục ý Chúa: Rô-ma 12:1,2. Chúng ta phải sẵn sàng vâng theo ý Chúa.
6. Phân rẽ khỏi thế gian và mọi tội lỗi rõ ràng. Rô-ma 12:2. "Đừng làm theo đời nầy, nhưng hãy biến hóa để thử...."
7. Có tâm trí thiêng liêng: Rô-ma 12:2 "đổi mới của tâm thần mình. Tâm trí của chúng ta phải hợp đúng ý Chúa, hợp với Thánh Linh Ngài và Lời Ngài để có thể nghe được tiếng phán êm dịu của Ngài.
V. NHỮNG PHƯƠNG THỨC CHÚA DẪN DẮT :
Vấn đề kế tiếp là làm thể nào Đức Chúa Trời bày tỏ ý Ngài ra cho những người tìm biết ý Chúa?
Sự thật là Đức Chúa Trời có quyền tể trị mọi sự và Ngài không làm việc rập khuôn,
Vì Ngài đối xử với mỗi cá nhân một cách khác nhau.
Đôi khi Đức Chúa Trời bày tỏ ý Ngài qua các cơ hội, các hoàn cảnh, ý muốn của cha mẹ, lời khuyên của bạn bè, sự thăng tiến khả năng riêng của mỗi người, khuynh hướng của cá nhân, nhu cần hằng ngày và lương tâm.
1. Đức Chúa Trời thường dắt dẫn qua các câu Kinh thánh phán lớn tiếng cho bạn. Hãy để tâm trí của bạn vào Lời của Đức Chúa Trời để Chúa có thể nhắc bạn nhớ các khúc Kinh thánh khác nhau. Ý Chúa không bao giờ trái ngược với Kinh thánh. Vì thế, hãy học Kinh thánh.
2. Sự thuyết phục trong lòng do Đức Thánh Linh: Rô-ma 8:16 "Chính Đức Thánh Linh làm chứng cho lòng chúng ta"rằng: việc nầy là đúng hay sai, tốt hay xấu. Cẩn thận: Phân biệt tiếng nói trong lòng là của ta muốn hay là tiếng của Chúa muốn ta làm? "Đức Thánh Linh phán: Hãy biệt riêng Ba-na-ba và Phao-lô đặng làm công việc ta" (Công vụ 13:2). Đức Thánh Linh được ban cho để hướng dẫn Hội thánh. "Khi nào Thần Lẽ Thật sẽ đến, Ngài sẽ dẫn các ngươi vào mọi lẽ thật" (Giăng 16:13).
3. Các hoàn cảnh: Đức Chúa Trời kiểm soát các hoàn cảnh, Ngài đóng cửa nầy và mở cửa kia. không việc gì xảy đến cho ta cách ngẫu nhiên. Mỗi chi tiết nhỏ đều được Đức Chúa Trời hoạch định. Chúng ta chấp nhận các hoàn cảnh xảy đến như là những bản chỉ đường Chúa dùng chỉ dẫn hướng đi cho ta. Trong khi lái xe, đèn đỏ cũng có giá trị chỉ đường y như đèn xanh. Hoàn cảnh trở ngại có thể là dấu hiệu ngừng lại trong khi chúng ta kiên nhẫn chờ đợi Chúa.
4. Đức Chúa Trời đôi khi hướng dẫn ta bằng một khải tượng.Trong Công vụ 16:9,10 Phao-lô được Chúa chỉ dẫn bằng khải tượng người Ma-xê-đoan. "Hãy qua Ma-xê-đoan cứu giúp chúng tôi." Ngày nay? Đức Chúa Trời ít khi dùng phương pháp nầy.
5. Xin các dấu hiệu tỏ ra. Quan xét 6:37-39. Ghi-đê-ôn xin Chúa cho một số dấu hiệu xảy ra để ông biết chắc ý Chúa và Chúa nhậm lời. Lưu ý: Đừng sắp xếp cho việc xảy ra theo ý mình trước.
VI. CÁCH TÌM Ý CHÚA CỦA ÔNG GEORGE MUELLER :
1. Đầu phục ý chí của bạn. Không có một lựa chọn nào trước. Hoàn toàn không có ý riêng trước.
2. Tìm kiếm ý Chúa Thánh Linh qua Lời Chúa.
3. Để ý các hoàn cảnh xảy ra.
4. Cầu xin Chúa dẫn dắt.
5. Chờ đợi Chúa.
VII. CÁCH TÌM Ý CHÚA CỦA ÔNG F. B. MEYER :
"Khi Lời của Đức Chúa Trời, sự thúc giục của Đức Thánh Linh trong lòng tôi và hoàn cảnh bên ngoài hòa hợp, thì tôi tin chắc tôi đang làm theo ý của Chúa."
KẾT LUẬN:
Thường thường, sự dẫn dắt của Chúa bao gồm một số yếu tố khác nhau cấu tạo thành.
Bạn chỉ cần ánh sáng mỗi lần cho mỗi bước. Hãy vâng theo ánh sáng Chúa đã ban cho rồi Chúa sẽ ban cho tiếp ánh sáng khác.
Hãy nhớ rằng Đức Chúa Trời muốn ban cho bạn cả kế hoạch chính lẫn những chi tiết nhỏ nhặt trong đời sống của bạn. Hãy kiên nhẫn chờ đợi chúa và Ngài sẽ bày tỏ kế hoạch đó cho bạn mỗi ngày.
Đừng bao giờ khước từ sự dẫn dắt của Chúa.
Đừng bao giờ thử phân tách, mổ xẻ sự dẫn dắt của Chúa. Cứ tin cậy, vâng lời.
LỜI GIỚI THIỆU:
" Cầu nguyện là nói chuyện với Chúa Jêsus."
" Cầu nguyện là dâng lên Đức Chúa Trời những nguyện vọng của chúng ta về tất cả mọi điều có cần và có lý, với lòng tin cậy khiêm cung rằng chúng ta sẽ nhận được sự trả lởi của Chúa và Cứu Chúa chúng ta là Jêsus Christ."
" Cầu nguyện là sự thờ phượng dâng lên cho Đức Cha, trong Danh Chúa Jêsus Christ và trong quyền năng của Đức Chúa Thánh Linh. (Tấn sĩ H. . Frost).
" Cầu nguyện là linh hồn con người nói chuyện với Đức chúa Trời."
" Cầu nguyện phải bao gồm ít nhất bốn phần :
1. Tôn thờ: Ngợi khen và thờ phượng của linh hồn người dâng lên Đức Chúa Trời. Thi 95:6
2. Xưng tội: ăn năn về mọi tội biết được. Thi 32:5.
3. Tạ ơn: Phi-líp 4:6. Tạ ơn về mọi việc.
4. Khẩn nguyện: Cầu thay, cầu xin, nài nỉ và ước ao. I Ti-mô-thê 2:1.
Sự cầu nguyện của chúng ta phải được dâng trực tiếp lên Đức chúa Trời (Công vụ 12:5), trong danh Chúa Jêsus Christ (Giăng 14:13), qua quyền năng của Đức Thánh Linh (Ê-phê-sô 6:18).
I. CẦU NGUYỆN Ở ĐÂU?
1. Ở mọi nơi: I Ti-mô-thê 2:8 "Ta muốn những người đàn ông cầu nguyện khắp mọi nơi."
2. Nơi kín nhiệm: Ma-thi-ơ 6:6 "Khi ngươi cầu nguyện, hãy vào phòng riêng, đóng cửa lại và cầu nguyện với Cha ngươi ở nơi kín nhiệm."
3. Nơi đền thờ: Lu-ca 18:10 "Hai người lên đền thờ cầu nguyện." Thi 26:12, cầu nguyện trước hội chúng đông đúc. Vua Sa-lô-môn cầu nguyện ở. 1 Vua 8:22-53.
Cầu nguyện riêng rẽ, cầu nguyện nơi kín nhiệm.
Cầu nguyện trong gia đình sẽ thực hiện bằng nhóm nhỏ.
Cầu nguyện chung sẽ thực hiện trước hội chúng..
II. KHI NÀO CẦU NGUYỆN?
1. Luôn luôn cầu nguyện. Lu-ca 18:1 "Cầu nguyện luôn, chớ hề mệt nhọc." 1 Tê-sa-lô-ni-ca 5:17 "Cầu nguyện không thôi."
2. Cầu nguyện buổi sáng. Thi 5:3.
3. Cầu nguyện buổi trưa và buổi tối. Thi 55:17.
4. Cầu nguyện hằng ngày. Thi 86:3.
5. Cầu nguyện ngày và đêm. Thi 88:1. Đa-ni-ên đã cầu nguyện ba lần một ngày. Đa-ni-ên 6:10.
III. CÁC ĐỀ TÀI CẦU NGUYỆN :
1. Ma-thi-ơ 6:9-13 "Bài cầu nguyện của Chúa " - Sự tái lâm của Đấng Christ, ý Chúa, bánh ăn hằng ngày, sự tha thứ, sự hướng dẫn thắng cám dỗ và tội lỗi.
2. Gia-cơ 5:13-16, cầu nguyện cho người ốm.
3. I Ti-mô-thê 2:1-4, cầu nguyện cho mọi người, cho các vua, cho các bậc cầu nguyện, cho chính đời sống chúng ta và cho sự cứu rỗi các tội nhân.
4. Ê-sai 38:1-5, cầu nguyện cho sự sống lâu.
5. Đa-ni-ên 6:18-23, cầu nguyện cho sự an ninh cá nhân và sự an ninh của người khác.
6. 1 Vua 3:5-9, cầu xin sự khôn ngoan và hiểu biết.
7. Ma-thi-ơ 6:25-34, cầu nguyện cho áo quần, chỗ ở và thức ăn.
8. Rô-ma 1:10, cầu nguyện cho cuộc hành trình thuận lợi.
9. Cô-lô-se 1:28, cầu nguyện cho mọi người tín đồ Cơ đốc được nên trọn vẹn trong Jêsus Christ.
10. Ma-thi-ơ 5:38-48, cầu nguyện cho những người bắt bớ chúng ta, cầu nguyện cho kẻ thù ta.
11. I Ti-mô-thê 5:17, cầu nguyện cho các cấp lãnh đạo Hội thánh.
IV. CẦU NGUYỆN NHƯ THẾ NÀO?
1. Chúng ta phải được Đức Thánh Linh hướng dẫn trong sự cầu nguyện. Rô-ma 8:26, 27.
2. Chúng ta phải cầu nguyện với đức tin nôi sự thự hữu của Đức Chúa Trời. Hê-bơ-rơ 11:6.
3. Chúng ta phải tin rằng Đức Chúa Trời ban thưởng cho người cầu nguyện trung tín. Hê-bơ-rơ 11:6.
4. Chúng ta phải kiên trì cầu nguyện. Lu-ca 18:1-8. Người đàn bà góa được kiện. Lu-ca 11:1-13. Người hàng xóm kiên trì gõ cửa được bánh mì.
5. Chúng ta phải cầu nguyện cách khiêm nhường, hạ mình. 2 Sử ký 7:14 "hạ mình xuống."
6. Chúng ta phải sẵn sàng ăn năn tội lỗi. 2 Vua 7:14 "trở lại, bỏ con đường tà."
V. CÁC ĐIỀU KIỆN CỦA SỰ CẦU NGUYỆN :
1. Chúng ta cầu nguyện theo ý Chúa. Rô-ma 8:27, Ma-thi-ơ 26:39 "Không theo ý con, mà theo ý Cha."
2. Chúng ta phải tha thứ cho người khác trước khi Đức Chúa Trời nghe và trả lời cầu nguyện chúng ta.
3. Chúng ta phải cầu nguyện với đức tin. Mác 11:24, Gia-cơ 1:6,7.
4. Chúng ta phải giữ các điều răn của Ngài. I Giăng 3:22.
5. Chúng ta phải ở trong Đấng Christ. Giăng 15:7.
6. Giu-đe 20 "Nhơn Đức Thánh Linh mà cầu nguyện."
7. Chúng ta phải cầu nguyện trong Danh Chúa Jêsus. Giăng 16:24.
VI. NHỮNG TRỞ NGẠI CỦA SỰ CẦU NGUYỆN :
1. Vô tín. Gia-cơ 1:6,7. Không có đức tin.
2. Không có tinh thần tha thứ. Mác 11:25.
3. Tội lỗi. Thi 66:18 "chú về diều ác."
4. Cầu xin trái lẽ. Gia-cơ 4:3 "cầu xin với động cơ sai lầm hoặc ra ngoài ý Chúa."
VII. MỘT SỐ LỜI HỨA VỀ SỰ CẦU NGUYỆN :
Mác 11:24, Giăng 15:7, I Giăng 5:14-15, Ê-phê-sô 3:12, 20, Phi-líp 4:19, Phi-líp 4:6, Ma-thi-ơ 7:7,8, Lu-ca 11:9-13, Hê-bơ-rơ 4:16.
KẾT LUẬN:
Đức Chúa Trời sẽ trả lời cầu nguyện như thế nào? Đức Chúa Trời sẽ trả lời theo ba cách:
1) Chấp thuận.
2) Không.
3) Chờ đợi.
Ê-sai 65:24 "Ta sẽ nhậm lời họ trước khi kêu cầu Ta, họ còn nói, Ta đã nghe rồi."
2 Cô-rinh-tô 12:7-10 Phao-lô cầu xin chữa lành bệnh của mình nhưng Đức Chúa Trời trả lời: Không được.
Mục sư Douglas đã cầu nguyện Chúa cứu rỗi thân phụ của mình suốt 17 năm và rồi Đức Chúa Trời mới trả lời theo thời gian của Ngài. Chúng ta phải chờ đợi ý Chúa và thì giờ của chúa.
Một lời cầu nguyện của một tội nhân mà Đức Chúa Trời đã hứa sẽ nghe là Lu-ca 18:13 "Lạy Đức Chúa Trời, xin thương xót tôi là một tội nhân." Cũng xem 2 Phi-e-rơ 3:9.
Chúng ta sẽ không bao giờ học được cách cầu nguyện bằng cách xem sách chuyên đề. Chúng ta phải khởi sự quì xuống cầu nguyện ngay.
Chúng ta phải nhớ cảm tạ Chúa luôn luôn về sự trả lời cầu nguyện của Chúa.
LỜI GIỚI THIỆU:
Tôi tin rằng giờ tĩnh nguyện là bí quyết của đời sống hằng ngày của người Cơ đốc.
Các cuộc quan sát cho thấy rằng các Cơ đốc nhân thất bại ở đây chẳng bao lâu trở nên nguội lạnh và sa ngã.
Người tín đồ Cơ đốc cứ duy trì liên tục giờ tĩnh nguyện riêng sẽ tăng trưởng (lớn lên) đều đặn hằng ngày với Chúa.
Sáng 19:27 "Áp-ra-ham dậy sớm, đi đến nơi mà người đứng chầu Đức Giê-hô-va."
Áp-ra-ham là gương mẫu tuyệt vời về giờ tĩnh nguyện buổi sáng. Ta hãy lưu ý :
1. Ông dậy sớm buổi sáng. Đây là thói quen tốt nhất của người Cơ đốc.
2. Ông có một nơi đặc biệt để gặp Chúa. Chúng ta cũng nên có một nơi gặp gỡ riêng với Chúa.
3. Ông thực hiện giờ tĩnh nguyện hằng ngày.
4. Ông đứng trước mặt Chúa, chờ đợi Ngài phán dạy với ông.
2 Phi-e-rơ 3:18 "Hãy tấn tới trong ân điển và trong sự thông biết Chúa và Cứu Chúa chúng ta."
Thảo mộc sống cần không khí, ánh sáng mặt trời và thức ăn.
Thân xác chúng ta cần thức ăn, ánh mặt trời và sự vận động thân thể.
Đời sống thuộc linh của chúng ta cũng cần sự bồi dưỡng, không phải bất thường, nhưng là mỗi một ngày trong đời sống Cơ đốc.
Đa-vít nói trong Thi 5:3 "Đức Giê-hô-va ơi, buổi sáng Ngài sẽ nghe tiếng tôi. Buổi sáng tôi sẽ trình bày duyên cớ tôi trước mặt Ngài và trông đợi."
Chúa Jêsus chẳng những cầu nguyện vào mỗi buổi sáng nhưng đôi khi Ngài đã cầu nguyện suốt đêm.
Lu-ca 6:12"....Chúa Jêsus đi lên núi cầu nguyện và thức thâu đêm cầu nguyện Đức Chúa Trời." Cũng xem Ma-thi-ơ 14:23.
Gương sáng của Chúa Jêsus và kinh nghiệm của các Cơ đốc nhân trưởng thành trong Chúa đã thành động cơ thúc giục chúng ta giữ kỹ giờ tĩnh nguyện với Chúa và với Lời Ngài.
Đây la sứ điệp mà tôi cần hơn hết trong đời sống Cơ đốc của cá nhân tôi (Douglas).
I. MỤC ĐÍCH GIỜ TĨNH NGUYỆN :
1. Tôi tin rằng mục đích căn bản của giờ tĩnh nguyện là giao thông với Đức Chúa Trời. Ngài mong muốn sự thông công nầy nhiều hơn là chúng ta mong muốn. Đức Cha muốn chúng ta thờ phượng Chúa hằng ngày. Tôi đã quan sát thấy những người yêu thương tìm đến bên nhau "Tôi đang yêu Đấng yêu thương linh hồn tôi."
2. Mục đích thứ hai có lẽ là để có được sức mạnh hằng ngày. Đời sống người Cơ đốc là cuộc chiến tranh chống tội lỗi, thế gian và ma quỉ. Ê-phê-sô 6:12 "chúng ta đánh trận.." chống các kẻ thù thuộc linh.
3. Giờ tĩnh nguyện còn cho ta cơ hội để học Kinh thánh có hệ thống và cầu nguyện nữa.
II. SỬA SOẠN CHO GIỜ TĨNH NGUYỆN :
Hãy đi ngủ đúng giờ. Tránh thức khuya và uống cà phê đậm đặc gây khó ngủ. Bạn hãy duy trì một kỷ luật nghiêm khắc ở chỗ nầy và Đức Chúa Trời sẽ ban phước dư dật cho bạn.
Phải tỉnh thức hẳn trước khi bạn đọc Kinh thánh và cầu nguyện. Hãy rửa mặt bằng nước lạnh hoặc uống nước nóng.
Một người bạn nói: "Một tách trà giúp tôi có một giờ tĩnh nguyện sáng suốt."
Nếu bạn đang quì gối mà còn buồn ngủ, hãy thay đổi vị thế của bạn Áp-ra-ham "đã
đứng."
Bạn có thể vừa bước đi vừa cầu nguyện lớn tiếng nếu điều đó giúp bạn tập trung tâm trí.
Trong khi đọc Kinh thánh bạn phải dẹp hết những vật dụng dễ gây sự phân tâm (như thư từ, hình ảnh...)
Trong giờ bồi linh, đừng chỉ nói chuyện.
Thi 46:10 "Hãy yên lặng, và biết rằng Ta là Đức Chúa Trời."
Hãy ngưng nói chuyện và lắng nghe tiếng phán của Chúa. Gióp 2:13. Các bạn của ông Gióp ngồi xuống với ông suốt bảy ngày "không nói một lời." Ngày nay, chúng ta đã đánh mất nghệ thuật tuyệt vời nầy.
Hãy tìm kiếm sự dẫn dắt, chỉ đạo và ban phước của Đức Thánh Linh trong giờ tĩnh nguyện của bạn.
Hãy sẵn sàng vâng theo điều bạn đọc được trong Kinh thánh. Giăng 2:5.
Hãy đến trước mặt Chúa với tấm lòng trong sạch.
Thi 51:17 "Của lễ đẹp lòng Đức Chúa Trời, đó là tấm lòng đau thương. Lòng đau thương thống hối Chúa không khinh dẽ đâu"
III. TÀI LIỆU CẦN CHO GIỜ TĨNH NGUYỆN :
1. Kinh thánh: Dành thì giờ đọc Kinh thánh đều đặn trong giờ tĩnh nguyện. Dành một chỗ đặc biệt yên tĩnh để đọc và suy gẫm Lời Chúa. Hãy trông đợi sự hiện diện của Ngài. Hãy để lòng bạn yên tĩnh. Hãy đọc Kinh thánh cách trung tín theo chương trình vạch sẵn.
2. Sổ tay và viết máy để ghi lại sự dạy dỗ từ Lời Chúa.
3. Một sổ tay ghi lời cầu nguyện và dành chỗ trống sẵn để ghi câu trả lời của Chúa.
IV. KIM CHỈ NAM HỌC KINH THÁNH TRONG GIỜ TĨNH NGUYỆN :
Trong việc học Kinh thánh, nên chọn một kế hoạch. Đọc từng đoạn đọc từng sách hoặc đọc theo các đề tài. Sau khi đọc Kinh thánh, hãy ghi lại các câu trả lời theo các câu hỏi sau đây:
1. Hôm nay tôi đọc được điều gì mới?
2. Có mạng lịnh nào tôi phải vâng theo?
3. Có gương tốt nào tôi phải noi theo?
4. Có gương xấu nào tôi phải tránh?
5. Có tội lỗi nào tôi phải từ bỏ?
6. Có lời hứa nào tôi phải ghi nhớ?
7. Có tư tưởng gì mới về chính Đức Chúa Trời?
VI. MỘT CHƯƠNG TRÌNH CHO GIỜ TĨNH NGUYỆN:
Nên tránh để cho giờ tĩnh nguyện trở thành máy móc, khô khan. Ở đâu có Thánh Linh của Đức chúa Trời ở đó có tự do. Dầu vậy, cũng tránh những thay đổi bất thường, hoặc sự khuôn sáo trống rỗng.
Nếu được, hãy có giờ tĩnh nguyện vào đúng thì giờ định sẵn mỗi ngày.
Nên nhắm đến chương trình định sẵn, có lẽ nên dành phân nửa thì giờ đọc Kinh thánh và phân nửa thì giờ cầu nguyện.
Đừng cứng ngắc. Nếu Thánh Linh hành động trong giờ cầu nguyện, hãy tiếp tục cầu nguyện. Nến lời Chúa soi sáng ánh sáng mới mẻ, hãy tiếp tục đọc Lời Chúa cho đầy đủ.
Thứ tự gợi ý cho giờ tĩnh nguyện: Lời cầu nguyện ngắn, giờ đọc Kinh thánh và giờ cầu nguyện.
Điều nầy sẽ giúp ta không lập đi lập lại điều cầu nguyện. Hãy học cách cầu nguyện theo sự dạy dỗ của khúc Kinh thánh mà ta vừa học. Hãy dùng Kinh thánh như là Lời căn bản cho ta trong sự ngợi khen và khẩn nguyện.
VI. CẦU NGUYỆN TRONG GIỜ TĨNH NGUYỆN :
Sự cầu nguyện có chất lượng đòi hỏi phải trả giá. Nó đòi hỏi thời gian và kỷ luật. Sự kiên trì cầu nguyện mỗi ngày thực sự là sự thử nghiệm tinh thần cầu nguyện của ta.
Hãy kiểm tra lại sổ cầu nguyện và lưu ý sự trả lời của Chúa cho các vấn đề ta đã cầu nguyện. Đừng quên tạ ơn Chúa về sự trả lời cầu nguyện.
Thi thiên 50:15 "Trong ngày gian truân hãy kêu cầu cùng Ta. Ta sẽ giải cứu ngươi và ngươi sẽ ngợi khen Ta." Hãy làm điều nầy và ngợi khen Chúa.
Trong sự cầu nguyện, hãy cầu khẩn cách đơn sơ nhưng thành thật. Hãy nói chuyện với Đức chúa Trời là Cha như người con nói với cha mình. Hãy lưu ý bốn yếu tố căn bản bao gồm trong sự cầu nguyện:
1. Tôn thờ: Ngợi khen và thờ phượng của linh hồn ta dâng lên Đức chúa Trời. Thi thiên 95:6 "Hãy đến cúi xuống mà thờ lạy. Khá quì gối xuống trước mặt Đức Giê-hô-va, là Đấng tạo hóa chúng tôi."
2. Xưng tội: ăn năn và từ bỏ các tội được biết. Thi 32: 5 "Tôi đã thú tội cùng Chúa, không giấu gian ác tôi. Tôi nói: Tôi sẽ xưng các sự vi phạm tôi cùng Đức Giê-hô-va, còn Chúa tha tội ác tôi.
3. Cảm tạ: Tạ ơn Chúa về mọi sự, vui hay buồn. Phi-líp 4:6 "Dùng lời cầu nguyện, nài xin và tạ ơn..."
4. Khẩn nguyện: Cầu thay, khẩn xin, thỉnh cầu và ước muốn. I Ti-mô-thê 2:1 "Phải khẩn nguyện, cầu xin, kêu van, tạ ơn..."
VII. NHỮNG VẤN ĐỀ CỦA GIỜ TĨNH NGUYỆN :
1. Sa-tan sẽ chú tâm chống nghịch bạn luôn luôn trong giờ tĩnh nguyện. Đây sẽ là cuộc tranh đấu hằng ngày. Nếu bạn bỏ sót một buổi sáng, không nhứt thiết đó là một sự thất bại. Hãy thừa nhận khuyết điểm của mình và được Chúa tha thứ ngay lúc Thánh Linh nhắc nhở bạn về sự thiếu liên tục kiên trì nầy.
2. Tập trung tinh thần trong giờ tĩnh nguyện là một vấn đề thực sự khó khăn. "Vì chúng ta đánh trận chẳng phải cùng thịt và huyết" (Ê-phê-sô 6:12). Đó là cuộc chiến tranh tư tưởng. Muốn chiến thắng, ta phải suy gẫm về thập tự giá. về huyết báu và về quyền phép lớn lao của sự phục sinh. Các con nhỏ trình bày một vấn đề thì cha mẹ lập tức thi hành một kế hoạch giúp đỡ. Chúa chúng ta là Cha hay thương xót sẽ giúp ta thành công trong giờ tĩnh nguyện với Ngài.
LỜI GIỚI THIỆU:
Sau khi tin Chúa, tiếng kêu gào của lòng tôi là sự thánh khiết là trở nên giống như Đấng Christ, là đắc thắng tội lỗi và sống vượt lên trên sự lôi cuốn của thế gian.
Đức Chúa Trời đã đưa tôi đến trường Kinh thánh để dạy tôi bài.
Đôi khi có người sau nhiều năm thất bại, đã tham dự một kỳ bồi linh nghe các giáo sĩ, mục sư làm chứng và thình lình được Chúa ban phước. Một số Cơ đốc nhân cố gắng và cố gắng rồi khi không thành công họ lại càng sa sút xuống trình độ thấp kém hơn mức bình thường.
Những tín đồ Cơ đốc khác lại chưa bao giờ nghe nói đến đời sống đắc thắng của Cơ đốc nhân và cứ tiếp tục phạm tội và rồi xưng tội? Phạm tội rồi xưng tội. Đây có phải là tất cả những gì Đấng Christ cung hiến cho chúng ta chăng?
I. ĐỜI SỐNG ĐẮC THẮNG LÀ CÓ THỰC :
Kinh thánh dạy về sự đắc thắng vinh hiển của mọi người tín đồ Cơ đốc.
I Giăng 5:4 "Vì hễ sự gì sanh bởi Đức Chúa Trời thì thắng hơn thế gian và sự thắng hơn thế gian, ấy là đức tin của chúng ta "
Sứ đồ Giăng không hề nói về sự đắc thắng ở trên trời nhưng là sự đắc thắng hằng ngày của chúng ta trên mặt đất nầy. Nếu Kinh thánh nầy không thành hiện thực trong đời sống người tín đồ, thì chắc có cái gì sai sót ở đây. Sa-tan sẽ dùng hết sức của nó và bằng mọi cách che đậy sự hiểu biết của Cơ đốc nhân về vấn đề nầy.
Ma quỉ không cần lưu ý đến người tín đồ chỉ có tiếng theo đạo mà thiếu quyền năng, nhưng chắc chắn ma quỉ lo ngại hết sức về quyền năng của một đời sống Cơ đốc nhân đắc thắng.
Tôi muốn xác chứng rằng đời sống đắc thắng nầy là có thực không chỉ dành cho một ít người tín đồ nên thánh nhưng là dành cho mỗi một người con được sinh ra trong gia đình của Đức Chúa Trời.
II. NHỮNG LỜI HỨA CỦA ĐỜI SỐNG ĐẮC THẮNG :
- Giăng 7:37,38 "Đức Chúa Jêsus đứng kêu lên rằng: Nếu người nào khát, hãy đến cùng ta và uống. Kẻ nào tin ta thì sông nước hằng sống sẽ chảy từ trong lòng mình, y như Kinh Thánh đã chép vậy." Đây là lời hứa của chính Chúa Jêsus dành cho bạn, một tín đồ của Ngài.
- Giăng 10:10 "Còn ta đã đến, hầu cho chiên được sống,và được sự sống dư dật." Chúa Jêsus không muốn chúng ta có chút ít sự sống và chỉ chú ít đắc thắng, nhưng Ngài muốn ta sống dư dật và đắc thắng có thừa.
- Rô-ma 6:14 "Vì tội lỗi không cai trị trên anh em đâu." Đây là lời khẳng định mạnh mẽ.
- 2 Cô-rinh-tô 2:14 "Song ta ơn Đức Chúa Trời, Ngài làm cho chúng tôi được thắng trong Đấng Christ luôn luôn." Sự đắc thắng nầy luôn luôn là của chúng ta trong Đấng Christ.
- 1 Cô-rinh-tô 10:13 "Ngài cũng mở đàng cho anh em ra khỏi." Đây là lời hứa đắc thắng sự cám dỗ dành cho mọi người tín đồ.
- Rô-ma 8:37 "Trái lại trong mọi sự đó, chúng ta nhờ Đấng yêu thương mình mà thắng hơn bội phần." Đây không phải là đắc thắng thường nhưng là chiến thắng oanh liệt,vượt trổi hơn mọi kẻ thù nghịch của ta. - Ga-la-ti 5:16. Đời sống người Cơ đốc không hề làm trọn những điều ham muốn của xác thịt.
III. NGUYÊN TẮC CỦA ĐỜI SỐNG ĐẮC THẮNG: "BỞI ĐỨC TIN."
Nguyên tắc đắc thắng của đời sống người Cơ đốc là một món quà được Đức Chúa Trời ban cho bởi đức tin. Sự cứu rỗi của chúng ta là một món quà Chúa ban. Chúng ta không xứng đáng nhận lãnh hoặc làm cách gì để sở hữu được. Chúng ta chỉ có được nhờ đức tin. Sự đắc thắng cũng là một món quà. Chúng ta không thể sở hữu được nhờ sức riêng. Điều nầy không thể nào đạt được. Rô-ma 1:17 "Người công bình sẽ sống bởi đức tin." Cũng xem Ga-la-ti 3:11, và Hê-bơ-rơ 10:38.
Người tín đồ được cứu và bắt đầu một đời sống mới trong Thánh Linh. Hầu hết các Cơ đốc nhân đều giống người Ga-la-ti ngu muội đã cố gắng trong xác thịt bằng việc làm. Sự đắc thắng là công việc của Chúa Cứu thế trong chúng ta chứ không phải là cố gắng của ta chút nào. "Sức mạnh của chúng ta được nên trọn vẹn trong sự yếu đuối." (2 Cô-rinh-tô 1:9). Khi chúng ta thừa nhận sự yếu đuối của mình, rằng mình không có khả năng chiến thắng và đầu phục quyền phép của Đấng Christ, Ngài sẽ đạt sự đắc thắng cho ta.
Người say rượu tin Chúa và lập tức đạt sự đắc thắng trên thói say rượu. Đó là đời sống đắc thắng. Mọi người tín đồ đều cần sự đắc thắng, thắng chính mình và thắng tội lỗi.
" Đức tin không làm gì cả, đức tin để Đức Chúa Trời làm cả mọi việc." (Tấn sĩ C. G. Trumbull).
Bí quyết đắc thắng nằm ở chỗ Đấng Christ ngự trong ta. Đắc thắng là ở chỗ tin cậy Chúa chứ không phải là cố gắng bằng sức riêng.
IV. BÍ QUYẾT CỦA ĐỜI SỐNG ĐẮC THẮNG: "Sự đồng nhất hóa với Đấng Christ."
Tôi tin rằng bí quyết của đời sống đắc thắng là sự đồng nhứt hóa của chúng ta với Đấng Christ. Rô-ma 6:4-22 được mọi người thừa nhận là chương đắc thắng của Kinh thánh.
Trong thập tự giá của Đấng Christ có hai chân lý mà Chúa đã dạy. Đó là sự thay thế (đền tội) và sự đồng nhứt hóa.
Đối với tội nhân chúng ta dạy sự thay thế (đền tội) "hãy nhìn xem và sống."
Đối với thánh đồ chúng ta dạy sự đồng nhứt hóa tức là sự làm một với Đấng Christ.
"Hãy nhìn xem và chết."
1. Đồng nhứt hóa với Đấng Christ trong sự chết của Ngài: Tôi đã cùng chết với Đấng Christ."
- Rô-ma 6:5 "Chúng ta làm một cùng Ngài (Christ và tôi) bởi sự chết giống như sự chết của Ngài."
- Rô-ma 6:6"... Người cũ của chúng ta (bản tính tội lỗi A-đam) đã bị đóng đinh trên thập giá với Ngài....."
- Ga-la-ti 2:20 "Tôi đã bị đóng đinh vào thập tự giá với Đấng Christ." Sự đồng hóa tuyệt đối. Sự chết giải phóng một người một lần và vĩnh viễn khỏi quyền lực và sự thống trị của tội lỗi.
- Rô-ma 6:7 "Vì ai đã chết thì thoát khỏi tội lỗi."
2. Đồng nhứt hóa với Đấng Christ trong sự chôn cất của Ngài. Tôi đã đồng chôn với Đấng Christ.
- Rô-ma 6:4 "Vậy chúng ta đã bị chôn với Ngài." Những việc chết, sự chết phải được đem chôn.
3. Đồng nhứt hóa với Đấng Christ trong sự sống lại của Ngài. Tôi đã sống lại với Đấng Christ.
- Rô-ma 6:5 "Chúng ta (Đấng Christ và người tín đồ) cũng sẽ làm một cùng Ngài bởi sự sống lại giống nhau."
4. Đồng nhứt hóa với Đấng Christ trong đời sống đắc thắng hiện tại của Ngài.
- Rô-ma 6:4"... chúng ta cũng sống trong đời mới thể ấy. (cũng phải bước đi trong tính chất mới mẻ của đời sống).
- Rô-ma 6:6"... Chúng ta không phục dưới tội lỗi nữa."
- Rô-ma 6:8"... Chúng ta tin rằng mình cũng sẽ cùng sống với Ngài."
- Rô-ma 6:10 "Hiện nay Ngài sống, ấy là sống cho Đức Chúa Trời."
Bí quyết đắc thắng ở đây là Đấng Christ đang sống trong lòng và trong đời sống của mỗi người tín đồ nhằm mục tiêu Ngài sẽ làm Chúa? làm chủ của đời sống người đó.
- Cô-lô-se 1:27 "Đấng Christ ở trong anh em, là sự trông cậy (hy vọng về sự vinh hiển."
Tôi là người chết và Đấng Christ đang sống, đang cai trị trong thân thể dâng hiến của tôi, và Ngài đang đạt sự đắc thắng liên tục cho tôi."
V. ĐIỀU KIỆN TẤT YẾU CỦA ĐỜI SỐNG ĐẮC THẮNG :
- Đầu phục Chúa, chịu phó mình cho Chúa, chịu nhường cho Chúa.
Nếu tôi thực chết đối với tội lỗi cùng với Đấng Christ, thì một điều duy nhất tôi phải làm là phó mình tôi cho Đức Chúa Trời.
Rô-ma 6:13 "Chớ nộp chi thể mình cho tội lỗi như là đồ dùng gian ác, nhưng hãy phó chính mình anh em cho Đức Chúa Trời, dường như đã chết mà nay trở nên sống."
Hãy nắm lấy địa vị mới của bạn bởi đức tin, tức là "Sự sống lại từ kẻ chết." Bây giờ bạn đang sống trên lãnh vực sống lại - về phía đắc thắng của thập tự giá.
Tội lỗi và thế gian không nắm giữ được bạn.
Bạn đừng chống cư tội lỗi. Bạn không thể cự được. Bạn đã chết rồi cơ mà. Thay vào đó, bạn hãy phó mình cho một quyền lực mạnh mẽ hơn, - là quyền năng đắc thắng của Đấng Christ phục sanh.
VI. SỰ LỰA CHỌN CỦA ĐỜI SỐNG ĐẮC THẮNG: "Thắng hay bại"
Là một Cơ đốc nhân, tôi vẫn còn có ý chí tự do của riêng tôi. Nếu tôi chọn sự đắc thắng, chắc chắn tôi được Chúa ban cho món quà đắc thắng. Nếu tôi khước từ món quà đắc thắng nầy, tôi sẽ cứ tiếp tục sống một sống Cơ đốc nhân thất bại.
- Rô-ma 6:16 "Anh em há chẳng biết rành nếu anh em đã nộp mình làm tôi mọi đặng vâng phục kẻ nào thì là tôi mọi của kẻ mình vâng phục hoặc của tội lỗi đến sự chết hoặc của sự vâng phục để được nên công bình sao?
Sự lựa chọn là thuộc về tôi. Công bình hay tội lỗi?
Rô-ma 6:18 "Vậy anh em đã được buông tha khỏi tội lỗi..." Tôi đã được tự do khỏi ách nô lệ của tội lỗi.
Lời cảnh cáo trong câu 19: Nếu tôi chọn việc làm tôi mọi cho sự gian ác ô uế thì nó sẽ dẫn tôi đến việc phạm hết tội ác này đến tội ác khác...
Lời khuyến khích trong câu 22. "Nhưng bây giờ anh em đã được buông tha (giải thoát) khỏi tội lỗi để "làm nô lệ " cho Chúa Jêsus.
Vậy sự lựa chọn ở đây là tôi sẽ đầu phục cả đời sống và thân thể tôi cho ai đây? Tôi nộp chi thể mình cho tội lỗi để tiếp tục thất bại hoặc là tôi phó mình cho Đấng Christ
để được liên tục đắc thắng với kết quả là sự nên thánh và cuối cùng là hưởng sự sống đời đời.
KẾT LUẬN:
Chúng ta sẽ làm gì nếu chúng ta thử nghiệm sống đời đắc thắng và đã thất bại? Hãy nhớ lại giải pháp "Xưng tội " trong I Giăng 1:9 vẫn còn là sự thực. Đấng Christ không thất bại đâu. Sự vấp ngã của bạn không làm cho Đấng Christ yếu hơn. Ngài sẽ tha thứ cho bạn và Ngài sẽ dùng sự vấp ngã nầy để tăng cường sức mạnh cho bạn trong khi bạn đương đầu với một sự thất bại tương tự như thế.
Đừng nương dựa vào những chiến thắng trong quá khứ khi bạn muốn chiến thắng trong tương lai. Phải luôn luôn nương dựa nơi Đấng Christ và chỉ dựa một mình Ngài mà thôi.
Hãy nhớ thuộc lòng những lời hứa của Chúa trong Kinh thánh. Hãy đem những lời hứa đó trưng dẫn ra cho ma quỉ. Phải liên tục nương dựa và yên nghỉ trong Chúa.
Sự đắc thắng chỉ có thể là của chúng ta khi chúng ta vâng theo mọi mạng lịnh của Đức Thánh Linh phán với chúng ta cách cá nhân.
Thời điểm bạn có thể sống đời sống đắc thắng là BÂY GIỜ, là HIỆN TẠI. Hãy bắt đầu ngay hôm nay. Chúng ta không chỉ biết chân lý bằng đầu óc nhưng cũng hãy kinh nghiệm chân lý nầy ngay trong đời sống mỗi chúng ta. Nguyện vọng của tôi là "Tôi sống,
không phải là tôi sống nữa, nhưng là Đấng Christ sống trong tôi... " (Ga-la-ti 2:20).
LỜI GIỚI THIỆU:
I Giăng 2:15 "Chớ yêu thế gian, cũng đừng yêu các vật ở thế gian nữa. Nếu ai yêu thế gian, thì sự kính mến Đức Chúa Cha chẳng ở trong người ấy."
Đây là những lời khó nghe, nhưng là một Cơ đốc nhân chúng ta phải đối diện hằng ngày. Một số người cực đoan cố gắng vâng giữ lấy câu Kinh thánh nầy bằng cách đi thật xa, giấu mình trong các tu viện hoặc sống tẻ tách mọi người. Chúng ta nhận biết rằng thái độ như vậy là không đúng, nhưng chúng ta lại muốn biết đâu là biên giới của mạng lịnh Chúa dành cho chúng ta trong cuộc sống giữa thế gian.
I. Ý NGHĨA DANH TỪ "THẾ GIAN" TRONG KINH THÁNH :
Trong sách Tin lành Giăng 3:16, chúng ta được Chúa dạy rằng Đức Chúa Trời yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Ngài để cứu rỗi thế gian. Ờ đây, chữ "thế gian " chỉ về những con người, những tội nhân đang sống ở thế gian. Chúa Jêsus yêu các tội nhân và chúng ta những người theo Ngài cũng phải yêu các tội nhân.
Sứ đồ Giăng giải thích ý nghĩa chữ "thế gian " trong I Giăng 2:16 tức là câu tiếp theo câu ông khuyên chớ yêu thế gian. Chữ thế gian. mà chúng ta không được phép yêu là "Sự ham muốn của xác thịt", "sự mê tham của mắt" và "sự kiêu ngạo của đời."
Chữ thế gian nầy có nghĩa là hệ thống thế giới hiện tại do Sa-tan kiểm soát.
Ở đây không có sự ám chỉ phải từ bỏ những phước hạnh vật chất ở đời nầy. Những phước hạnh nầy là do Chúa ban cho cách nhưng không và phong phú cho chúng ta được hưởng.
I Ti-mô-thê 6:17 "Hãy để lòng nơi Đức Chúa Trời là Đấng mỗi ngày ban mọi vật dư dật cho chúng ta được hưởng." Điều nầy bao gồm những nụ cười vô tư, trò chơi của trẻ em, đời sống xã hội lành mạnh, sự nghỉ dưỡng thoải mái, vẻ đẹp của thiên nhiên, sự yêu thích bông hoa. Những điều nầy không có gì là thề gian, tội lỗi cả. Nếu xem những điều nầy là sai thì ta đã biến thành người khổ tu. Chúa Jêsus yêu thích thiên nhiên. Ngài nói về cây cối, hạt giống, bông hoa.
Mối quan hệ xã hội của Chúa Jêsus rất rộng rãi - với gia đình ở Bê-tha-ni, Ngài ăn chung ở nhà người PHA-RI-SI (Lu-ca 7:36)? Ngài dự đám cưới ở Ca-na (Giăng 2), Ngài nghỉ ngơi nơi vắng vẻ (Mác 6:31).
Thực ra, Chúa Jêsus bị người ta tố cáo là người ham ăn mê uống Ma-thi-ơ 11:16-19 "Con người đến hay ăn hay uống thì họ nói rằng: Kìa là người ham ăn mê uống, bạn bè cùng người thâu thuế và kẻ xấu nết."
Vấn đề nhận ra ranh giới ở đâu là đúng, ở đâu là sai thật là việc rất khó khăn.
II. NHỮNG VẤN ĐỀ TA CÓ THỂ KHẲNG ĐỊNH:
1. Hôn nhân giữa người tín đồ và người vô tín bị nghiêm cấm.
- 2 Cô-rinh-tô 6:14-17 "Chớ mang ách chung với kẻ chẳng tin."
- A-mốt 3:3 "Nếu hai người không đồng ý với nhau, thì há cùng đi chung được sao?" Đây là một nguyên tắc không hề thay đổi theo thời gian.
2. Phân rẽ khỏi điều không công bình:
- 2 Cô-rinh-tô 6:14 "Sự công bình với gian ác có hội hiệp nhau được chăng?" Một số người nghĩ rằng hợp đồng làm ăn giữa người tín đồ và người vô tín cũng bị cấm căn cứ trên câu nầy.
3. Phân rẽ khỏi mọi việc tối tăm:
- 2 Cô-rinh-tô 6:4 "Sự sáng và sự tối có thông đồng nhau được chăng?" Người tín đồ được Chúa ngự trị trong lòng. Ngài là ánh sáng của thế gian.
4. Phân rẽ khỏi Bê-li-an tức là Sa-tan:
- 2 Cô-rinh-tô 6:15 "Đấng Christ và Bê-li-an nào có hòa hiệp chi?"
5. Phân rẽ khỏi kẻ vô tín:
- 2 Cô-rinh-tô "Kẻ tin có phân gì với kẻ chẳng tin?"
6. Phân rẽ khỏi hình tượng:
- 2 Cô-rinh-tô 6:16 "Có thể nào hiệp đền thờ Đức Chúa Trời lại với hình tượng tà thần." Người tín đồ là đền thờ của Đức Chúa Trời ngự.
7. Phân rẽ khỏi các giáo sư giả:
- I Ti-mô-thê 6:5 "Những kẻ thể ấy hãy lánh xa đi." Cũng xem I Ti-mô-thê 1:4, I Ti-mô-thê 4:7, Ga-la-ti 3:2.
8. Phân rẽ khỏi kẻ theo tà giáo:
- II Giăng 9-11. Không tiếp đãi vào nhà mình kẻ theo tà giáo.
9. Phân rẽ khỏi mọi hình thức tội lỗi và bất khiết mà ai cũng rõ. (rượu, thuốc...)
- I Phi-e-rơ 1:16.
III. NHỮNG VẤN TA KHÔNG THỂ XÁC ĐỊNH:
1. Thời gian: Bao nhiêu thì giờ ta phải dành cho sự thờ phượng, công tác, học hành, gia đình và giải trí? Việc dành quá nhiều thời gian cho bất cứ lãnh vực nào đó là điều không đúng so với thì giờ của cả ngày hay cả đời mà ta chịu trách nhiệm quản lý.
2. Trò giải trí nói chung là vô thưởng vô phạt, có thể vui hưởng được nhưng có một số dạng có hại.
3. Thể thao: Hầu hết các môn thể thao đều bổ ích, có lợi cho sức khỏe. Nhưng ở đây ta cũng phải biết đến sự quân bình.
4. Các thú vui trần tục: Như khiêu vũ, cờ bạc, sân khấu, các tạp chí, hút thuốc, hội họa, các mốt quần áo, kiểu áo, kiểu tóc, các trò tiêu khiển, vô tuyến truyền hình (phim ảnh), các câu lạc bộ. những điều nầy không được ghi nhắc trong Kinh thánh, nên ta không có sự chỉ dẫn cụ thể.
Tuy nhiên,... .
IV. BA NGUYÊN TẮC CĂN BẢN CẦN THEO :
Nếu một việc gì đó gây trở ngại cho tâm linh ta, hãy áp dụng ba luật lệ sau đây:
Việc nầy mỗi người phải tự quyết định lấy.
1. Tôi phải phân rẽ khỏi những điều gì nhầm lật đổ đức tin của tôi nơi Đức Chúa Trời như các câu lạc bộ vô thần...
2. Tôi phải phân rẽ khỏi bất cứ điều gì có thể phá hoại lời làm chứng của tôi. Lời làm chứng của tôi là một diều vô giá mà tôi có trên thế gian nầy.
3. Tôi phải phân rẽ khỏi bất cứ điều gì là hạ thấp đời sống đạo đức của tôi và dẫn tôi đến tội lỗi. Nếu chơi cờ đã tôi đến sự chưởi rủa, lằm bằm, tôi phải từ bỏ ngay. Nếu khiêu vũ gây cho tôi có ước muốn bất khiết, theo tôi đó là tội lỗi cần tránh xa
V. MỘT SỐ NGUYÊN TẮC CHUNG :
1. Nếu hành động của tôi gây cho anh em tôi vấp phạm, tôi phải tránh ngay. 1 Cô-rinh-tô 8:13 "Nếu đồ ăn xui anh em tôi vấp phạm, thì tôi sẽ chẳng hề ăn thịt, hầu cho khỏi làm dịp vấp phạm cho anh em tôi." Phao-lô sẵn sàng từ chối chính mình đối với những nhu cầu của bản thân nếu điều đó gây trở ngại cho việc làm chứng nhân của ông.
2. Hãy tìm kiếm sự chỉ dẫn từ Đức Chúa Trời qua việc cầu nguyện và đọc Kinh thánh liên quan đến lãnh vực nào đó. Cố gắng giải quyết mọi vấn đề cho đến khi lương tâm không bị cáo trách trước mặt Chúa và trước mặt người ta. Công vụ 24:16.
3. Mọi việc ta làm phải làm vì vinh hiển của Đức Chúa Trời. Cô-lô-se 3:17 "Mặc dầu anh em nói hay làm, cũng phải nhân danh Đức Chúa Jêsus mà làm mọi điều, nhờ Ngài mà tạ ơn Đức Chúa Trời là Đức Chúa Cha." Nên đặt câu hỏi: Tôi làm việc nầy có làm vinh hiển Chúa không? Nên câu trả lời là không, thì đó là tội lỗi cần tránh. Gia-cơ 4:17 "Kẻ biết làm điều lành mà chẳng làm thì phạm tội."
4. Trong mọi sự, hãy dùng lý lẽ sáng suốt thánh thiện. Đức Chúa Trời là Đấng Mưu Luận và Ngài muốn biện luận hợp tình hợp lý với bạn. Ê-sai 1:18 "Hãy đến, chúng ta biện luận cùng nhau."
5. Tôi phải tránh những điều chi có hại cho thân thể tôi - cả về phương diện thể lực, trí tuệ hay tình cảm. 1 Cô-rinh-tô 6:19,20 "Thân thể anh em là đền thờ Đức Thánh Linh đang ngự. Vậy hãy lấy thân thể mình làm sáng Danh Đức Chúa Trời."
6. Nên đặt câu hỏi: Việc nầy có làm vui lòng Chúa Jêsus Christ không? Chúa Jêsus có thể làm việc như thế không? Nếu Chúa Jêsus không muốn làm việc như vậy, thì ta cũng không nên làm. I Phi-e-rơ 2:21 "Đấng Christ để lại cho chúng ta một gương hầu cho chúng ta noi gương của Ngài."
7. Điều nầy có tăng cường lời làm chứng của tôi không? hay là nò làm suy yếu lời làm chứng của tôi?
VI. MỘT SỐ CÂU KINH THÁNH BỔ ÍCH :
- Rô-ma 12:2 "Đừng làm theo đời nầy, nhưng hãy biến hóa bởi sự đổi mới của tâm thần mình." Đây là mạng lịnh rõ ràng trong Kinh thánh.
- Gia-cơ 4:4 "Hỡi bọn tà dâm kia, anh em há chẳng biết làm bạn với thế gian tức là thù nghịch với Đức Chúa Trời sao?"
- Hê-bơ-rơ 11:13"... xưng mình là kẻ khách và bộ hành chẹn đất."
- Hãy suy nghĩ đến Môi-se. Hê-bơ-rơ 11:25 "Ông đành cùng dân Đức Chúa Trời chịu hà hiếp hơn là tạm hưởng sự vui sướng của tội lỗi."
- Hãy suy nghĩ đến Đê-ma. II Ti-mô-thê 4:10 "Đê-ma đã bỏ ta rồi, vì người ham hố đời nầy."
- 2 Cô-rinh-tô 6:17 "Hãy ra khỏi giữa chúng nó, hãy phân rẽ ra khỏi chúng nó, đừng đá động đến đồ ô uế, thì Ta sẽ tiếp nhận các ngươi. Ta sẽ làm Cha các ngươi, các ngươi làm con trai con gái Ta. Chúa Toàn năng phán vậy."
KẾT LUẬN:
Chúng ta hãy suy xét hợp tình hợp lý, không nên khắc khe phê phán anh em khác. Mỗi người phải tự xét lấy mình. Chúng ta không nên phân rẽ trong tinh thần làm cao, trịch thượng, cho mình là thánh nhân. Chúng ta phải phân rẽ trong tinh thần khiêm nhường, mềm mại, nhu mì. Hãy nhớ: Sự phân rẽ có hai chiều hướng;
o Phân rẽ khỏi tội lỗi.
o Khuynh hướng về Đức Chúa Trời.
LỜI GIỚI THIỆU:
Trong Hội thánh ta thấy hiện tượng ngày nay có người tín đồ nói năng mạnh mẽ, nhưng một ngày nào đó chính người ấy lại yếu đuối, sa ngã.
Đôi khi chúng ta nói: Ai bỏ Chúa chứ tôi thì không. Nhưng bạn hãy nhớ lời cảnh cáo nghiêm trọng;
1 Cô-rinh-tô 10:12 "Ai tưởng mình đứng, coi chừng kẻo ngã."
Châm 16:18 "Sự kiêu ngạo đi trước, sự bại hoại theo sau, và tánh tự cao đi trước sự sa ngã."
Nhờ ân điển và sức mạnh của Chúa, chúng ta được giữ gìn,Ngài là Đấng có khả năng, gìn giữ chúng ta khỏi sa ngã. Tuy nhiên, nếu chúng ta cố tình khước từ ân điển và sự trợ giúp của Ngài, chúng ta sẽ sa ngã.
II Ti-mô-thê 1:12"... ta chắc rằng Đấng ấy có quyền phép giữ sự ta đã phó thác cho đến ngày đó." Ngài chắc sẽ giữ gìn chúng ta.
I. ĐỊNH NGHĨA SỰ SA NGÃ :
- Sa ngã là quay hướng, là trở lòng khỏi Đức Chúa Trời. 1 Vua 11:9 "Đức Giê-hô-va nổi giận cùng Sa-lô-môn, bởi vì lòng người trở bỏ Giê-hô-va Đức Chúa Trời."
- Sa ngã là trở nên nguội lạnh và từ bỏ tình yêu ban đầu. Khải 2:4 "Dầu vậy, điều Ta trách ngươi là ngươi đã bỏ mất tình yêu ban đầu."
- Sa ngã là dời khỏi tính chất đơn sơ của Tin lành và hướng về sự cứu rỗi luật pháp. Ga-la-ti 5:4 "Ai muốn cậy luật pháp cho được xưng công bình thì đã lìa khỏi Đấng Christ, mất ân điển rồi."
Một số người định nghĩa sự sa ngã như là một tội lỗi phân rẽ người tín đồ khỏi Chúa. Ê-sai 59:2 "Nhưng ấy là sự gian ác các người làm xa cách mình với Đức Chúa Trời."
Nói chung, sa ngã là trở nên nguội lạnh và không còn thích thú nơi Chúa, không thích đọc Kinh thánh, cầu nguyện, đi nhà thờ, không thích làm chứng đạo và hướng lòng về với thế gian.
II. SA NGÃ LÀ MỘT DIỄN TRÌNH TỪ NGỮ :
Tôi không tin rằng có người thình lình sa ngã. Có thể chúng ta sẽ kinh ngạc vì sự thể hiện ra bên ngoài về một tội lỗi khủng khiếp nào đó. Nhưng sự thật là có nhiều việc nhỏ mọn đã thâm nhập và làm ngập lụt đời ta.
Câu chuyện ông Lót sa ngã là thí dụ điển hình về bảy bước đi xuống của đời ông:
1. Tham muốn: Sáng 13:10 "Lót bèn ngước mắt lên, thấy khắp cánh đồng bằng bên sông Giô đanh." Thường thường, đôi mắt chúng ta là cơ quan đầu tiên xa rời Chúa. Đôi mắt ta nhìn thấy một cái gì đó hấp dẫn hơn. Nhiều người đã sai lầm khi chăm chú vào những mục tiêu sai lầm của cuộc sống.
2. Chọn nơi thấp: Lót đã chọn đồng bằng thay vì núi non. Sáng 13:11. Cũng xem Sáng 19:17 "Hãy chạy trốn lên núi, kẻo phải bỏ mình chăng?" Các bạn thân mến, hãy nâng cao tầm nhìn của bạn, hãy nhắm lên cao, Hãy nhìn xem Chúa Jêsus. Hê-bơ-rơ 12:1.
3. Thỏa hiệp : Lót đóng trại mình ở Sô-đôm. Sáng 13:12,13 "Vả, dân Sô-đôm là độc ác và là kẻ phạm tội trọng cùng Đức Giê-hô-va." Lót đã thỏa hiệp và sống gần nơi tội lỗi. Trong khi đó, Áp-ra-ham thịnh vượng với Đức Chúa Trời ở nơi cao. Kinh thánh dạy "Hãy tránh khỏi tình dục trai trẻ."(Tim 2:22). Đừng sống gần Sô-đôm (tội lỗi).
4. Bị giặc bắt giữ: Sáng 14:11,12. Nếu một người sống gần tội lỗi thế nào cũng có ngày bị tội lỗi bắt giữ. Người say rượu đã tin Chúa hãy tránh xa hũ rượu. Người ăn trộm đã tin Chúa hãy lánh xa chỗ cám dỗ. Chơi với lửa thế gian thế nào cũng bị đốt cháy. Nếu bạn cho tội lỗi một ngón tay nó sẽ nuốt luôn cả bàn tay, cả cánh tay, rồi cả thân thể và đến cả linh hồn của bạn.
5. Trần tục: Lót ngồi ở cửa thành Sô-đôm. Sáng 19:1 cho biết Lót là thành viên của Hội đồng thành phố Sô-đôm. Lót đã có thế lực trần gian nhưng đã mất hết thế lực thuộc linh. Sáng 19:16 "Nhưng Lót lần lữa."Lót yêu thích Sô-đôm. Lót yêu thích điều Đức Chúa Trời ghét bỏ và đang chuẩn bị tiêu diệt. Bạn có yêu tội lỗi không? Đức Chúa Trời không yêu thích tội lỗi đâu.
6. Dung dưỡng tội ác: Sáng 19:8 "Lót sẵn sàng đưa đẩy các con gái vào chỗ phạm tội. Khi một người đi xuống, hắn kéo người khác xuống theo. Rô-ma 14:7 rất là thực tế. Lót đã thành người gây trò đùa cho các con rõ. Sáng 19:14.
7. Say sưa: Sáng 19:33-38. ở đây ta thấy Lót uống rượu say sưa và đã phạm tội vô luân. Lót yêu thích tội lỗi. Lót lần lữa trong tội lỗi. Rượu chè luôn luôn dẫn đến sự vô luân. Chúng ta không nên kết án ông Lót. 2 Phi-e-rơ 2:6-8. Vẫn còn là sự thật. Chúng ta hãy quan sát và cẩn trọng.
III. NHỮNG NGUYÊN NHÂN BÊN NGOÀI CỦA SỰ SA NGÃ :
1. Tham muốn: Sáng 13:10. Lót tham muốn điều ngược lại với ý Chúa dành cho ông.
2. Tiếc của đời: Sáng 19:26. Vợ ông Lót quay lại tiếc nhìn những của cải bà ham thích và trở thành tượng muối.
3. Sợ hãi: Ma-thi-ơ 26:70-74. Phi-e-rơ chối Chúa và sợ con người.
4. Tinh thần kiêu ngạo: Châm 16:18 "Tự cao đi trước sự sa ngã."
5. Ích kỷ: Châm 14:14 "Lòng kẽ nào lìa xa Đức Chúa Trời sẽ được no nê sự kết quả của mình."
6. Thờ hình tượng: Xuất 32: 8 "Dân Y-sơ-ra-ên thường xa cách Chúa và đi theo các thần giả."
7. Không vâng lời: Vua Sau-lơ trong I Sa-mu-ên 15:11. "Ngươi đã xây bỏ ta, không làm theo lời ta."
8. Yêu thích vàng bạc, áo quần: A-can ăn cắp đồ cấm. Xem Giô-suê 7:1-24.
9. Thích tiền: Giu-đa Ích-ca-ri-ốt. Xem Giăng 13:29.
10. Đàn bà ngoại: Sa-lô-môn trong Nê-hê-mi 13:26.
11. Tham vọng quyền hành: Si-môn thuật sĩ. Công vụ 8:19. Ông cố mua quyền năng thuộc linh bằng tiền.
12. Lòng yêu mến thế gian: Đê-ma trong II Ti-mô-thê 4:10.
IV. NGUYÊN NHÂN CHÍNH GÂY RA SA NGÃ :
1. Không giữ giờ tĩnh nguyện: Nhiều người ăn năn trở lại cùng Chúa, và đôi khi qua dòng nước mắt đã thổ lội "Tôi đã mất Chúa vì mất giờ Tĩnh nguyện."
2. Không cầu nguyện: Chúng ta cần cầu nguyện luôn để xin Chúa ban sức mạnh. Không cầu nguyện cũng là hình thức tự cao tự mãn và Châm 16:18 đã thành hiện thực.
3. Không đọc Kinh thánh: II Ti-mô-thê 2:15 "Hãy chuyên tâm... giảng dạy Lời của Lẽ thật." Không tìm kiếm ý Chúa trong Kinh thánh là dễ dàng đi vào ý riêng.
4. Không đi nhà thờ: Hê-bơ-rơ 10:5 "Chớ bỏ qua sự nhóm lại như mấy kẻ quen làm."
5. Không vâng lời Đức Thánh Linh: Ê-phê-sô 4:30 "Chớ làm buồn Thánh Linh của Đức Chúa Trời."
6. Không xưng Danh Chúa ra: Ma-thi-ơ 10:33 "Ai chối ta trước mặt thiên hạ, ta cũng chối người đó trước mặt Cha ta ở trên trời." Xem Rô-ma 10:9.
7. Không bước đi trong ánh sáng: I Giăng 1:7 "Bước đi trong sự sáng như Ngài trong sự sáng." Chúng ta phải vâng theo luồng ánh sáng Ngài ban cho ta và đi theo lập tức.
V. HẬU QUẢ CỦA SỰ SA NGÃ:
Chắc chắn là mất quyền năng, mất bình an, mất niền vui và hạnh phúc.
Bóng tối bắt đầu vần vũ trên đường đi. Sa ngã sẽ dẫn đến mất phần thưởng và bản thân người sa ngã sẽ "bị hư mất " (1 Cô-rinh-tô 3:15).
Một số người dạy rằng sự sa ngã có thể dẫn đến sự hư mất linh hồn.
VI. ĐỨC CHÚA TRỜI MỜI GỌI TRỞ LẠI :
Giê-rê-mi 3:22 "Hỡi con cái bội nghịch, hãy trở lại: Ta sẽ chữa sự bội nghịch cho. Nầy chúng tôi trở về cùng Ngài vì Ngài là Đức Chúa Trời chúng tôi.
VII. ĐỨC CHÚA TRỜI HỨA THA THỨ CHO NGƯỜI SA NGÃ BIẾT ĂN NĂN:
Ô-sê 14:4 "Ta sẽ chữa lành sự bội nghịch của chúng nó. Ta sẽ lấy lòng tốt yêu chúng nó, vì cơn giận của ta đã xây khỏi nó rồi."
KẾT LUẬN:
Xin cho tôi khuyên bạn trong Danh Chúa và trong quyền năng của Ngài. Bạn đừng bao giờ để mình rơi vào sự sa ngã, yếu đuối.
Khải 21:10 "Khá giữ trung tín cho đến chết, rồi Ta sẽ ban cho ngươi mão triều thiên của sự sống." Người Cơ đốc thật rất ghét sự sa ngã.
Thi 101:3 "Tôi sẽ chẳng để điều gì đê mạt trước mặt tôi. Tôi ghét công việc kẻ bất trung."
Đối tượng chiêm ngưỡng thường trực của chúng ta là "Nhìn xem Chúa Jêsus (Hê-bơ-rơ 12:2).
Mục đích của Phao-lô là Đấng Christ. Phi-líp 3:14. "Tôi nhắm mục đích mà chạy hầu cho được giật giải về sự kêu gọi trên trời của Đức Chúa Trời trong Đức Chúa Jêsus Christ."
LỜI GIỚI THIỆU:
Sự thờ phượng khác với sự cầu nguyện và ngợi khen. "Lạy Chúa, xin cứu linh hồn con." là sự cầu nguyện. "Lạy Chúa, cảm tạ Chúa vì Ngài đã cứu con " là sự ngợi khen.
" Cảm tạ Chúa vì Ngài là Đấng Toàn năng, Toàn tri, Chí ái, Chí nhân"... là sự thờ phượng.
Sự thờ phượng lần đầu tiên được nhắc đến trong Kinh thánh là ở Sáng thế ký 25:5,
Áp-ra-ham nói cùng các người đầy tớ "Ta và đứa trẻ sẽ đi đến đàng kia để thờ phượng và sẽ trở lại cùng các ngươi."
Ma-thi-ơ 2:2,11. Các bác sĩ đến thờ lạy Chúa Cứu thế.
Ma-thi-ơ 4:10 Chúa Jêsus trưng dẫn điều luật "Ngươi phải thờ phượng Chúa là Đức Chúa Trời ngươi."
Giăng 4:24 "Đức Chúa Trời là Thần nên ai thờ lạy Ngài phải lấy tâm thần và lẽ thật mà thờ lạy."
I. Ý NGHĨA SỰ THỜ PHƯỢNG :
Danh từ "thờ phượng " giống như "ân điền " và "tình yêu " rất khó định nghĩa.
Nó có nghĩa là tỏ lòng kính trọng hay cung kính trước một Đấng siêu việt, cao cả. Con người phải thờ phượng Đức Chúa Trời. Đó là:
"Sự trào dâng của tấm lòng biết ơn, cảm xúc trước ơn huệ của Đấng thiêng liêng."
Thi 23:5.
"Sự tuôn đổ của một linh hồn nghỉ yên trong sự hiện diện của Đức Chúa Trời." Nhã ca 2:3,4.
"Sự thờ phượng là tấm lòng sôi trào dâng lên Đức Chúa Trời là Đấng ban ơn, Đức
Chúa Con là Chúa Cứu thế và Đức Thánh Linh là Đấng đang ngự trị trong lòng."
Sự thờ phượng là công tác của chính tấm lòng, không với nhu cầu hay phước hạnh
của nó, mà với chính Đức Chúa Trời. II Sa-mu-ên 7:18-22.
II. TẦM QUAN TRỌNG CỦA SỰ THỜ PHƯỢNG :
1. Đây là mạng lịnh đầu tiên của luật pháp: Xuất 20:1? , Xuất 34:14 "Người đừng sấp mình xuống trước mặt Chúa nào khác bởi Đức Giê-hô-va tự xưng là Đức Chúa Trời kỵ tà, Ngài thật là một Đức Chúa Trời kỵ tà vậy."
2. Đức Chúa Trời khiến xây dựng Đền Tạm và Đền thờ nhằm mục đích thờ phượng. Có nhiều điều chỉ dẫn tường tận được chép trong sách Lê vi ký liên quan đến sự thờ phượng Đức Chúa Trời là Đấng Chân thần.
3. Đức Chúa Trời đã dạy những người như Áp-ra-ham, Môi-se, Ê-sai, Đa-vít và những người khác nghệ thuật thờ phượng.
4. Sự thờ phượng sẽ là công tác trong cõi đời đời. Khải chương 4 và 5.
III. ĐỐI TƯỢNG CỦA SỰ THỜ PHƯỢNG :
Kinh thánh dạy rất rõ trong Lu-ca 4:8, Thi 45:11. "Ngươi phải thờ phượng Chúa là Đức Chúa Trời ngươi, ngươi phải thờ phượng Ngài."
Chúng ta không được phép thờ hình tượng. Xuất 20:3 "Trước mặt ta, ngươi chớ có các thần khác." Trên thế giới, nhiều người thờ các hình tượng vô tri bằng gỗ, đá. Nhiều người thờ các thần khác như bản ngã, tiền bạc, công việc, thú vui, giải trí, gia đình, của cải, quyền lực, khoa học.
Chúng ta không được phép thờ người. Công vụ 10:25,26. Câu chuyện Cọt-nây quì lạy Phi-e-rơ.
Chúng ta không được phép thờ lạy thiên sứ. Khải 19:10, 22:8,9. Giăng bị khiển trách khi thờ lạy thiên sứ.
Chúng ta không được phép thờ lạy thiên nhiên, vạn vật. Phục truyền 4:14-20, Gióp
31:24-28. Chúng ta có thể chiêm ngưỡng vẻ đẹp của thiên nhiên, nhưng chúng ta không được thờ phượng mặt trời, mặt trăng, các ngôi sao, sông núi, cây cối..v..v.
1. Chúng ta phải thờ phượng Đức Chúa Trời là Cha. Giăng 4:23. "Đó là sự thờ phượng mà Cha ưa thích." Chúng ta phải thờ phượng Cha và tất cả những gì Ngài làm cho chúng ta. Ngài yêu ta và ban Con Ngài cho chúng ta.
2. Chúng ta phải thờ phượng Đức Chúa Jêsus Christ, là Đức Con, là Chúa và Cứu Chúa chúng ta. Giăng 9:38. Chúng ta phải thờ phượng Ngài vì những gì Ngài đã làm cho chúng ta. Ngài đã giáng thế, đã sống và hy sinh cho chúng ta. Chúng ta phải thở phượng Ngài vì hiện nay Ngài đang cầu thay cho chúng ta.
3. Chúng ta không được chỉ dạy phải thờ phượng Đức Thánh Linh, dẩu điều ấy không có gì sai cả.
IV. NỀN TẢNG CỦA SỰ THỜ PHƯỢNG :
Làm thế nào một tội nhân có thể được Đức Chúa Trời thánh khiết chấp nhận sự thờ phượng của mình? Nền tảng duy nhất là nhờ huyết báu của Chúa Jêsus Christ như lả một sinh tế đã được Đức Chúa Trời chấp nhận. Hê-bơ-rơ 10:19.
Chúng ta phải thờ phượng Chúa trong mối liên hệ Cha con vì Ngài đã bằng lòng nhận ta làm con cái của Ngài. Ma-thi-ơ 6:9, Rô-ma 8:15.
V. ĐỨC THÁNH LINH DẪN NGƯỜI TÍN ĐỒ VÀO SỰ THỜ PHƯỢNG:
Sức mạnh của sự thờ phượng là chỗ Đức Thánh Linh hướng dẫn và đưa chúng ta vào sự thờ phượng Chúa.
Đức Thánh Linh dạy ta thờ phượng và nhìn biết Ngài, hiểu Ngài trong khi đọc Kinh thánh.
Sự thờ phượng không phải chủ yếu là dồn chứa lại rồi bìu lộ ra trong buổi nhóm họp nhưng là sự biểu lộ liên tục của linh hồn người tín đồ. Đối với sự thờ phượng trọn vẹn, chúng ta không thể sở hữu một Đức Thánh Linh bị buồn lòng hay một Đức Thánh Linh bị dập tắt.
Bạn hãy để cho Đức Thánh Linh dạy dỗ và dẫn dắt bạn vào sự thờ phượng đẹp lòng Đức Cha và Đức Con.
VI. TINH THẦN THỜ PHƯỢNG :
1. Chúng ta phải thờ phượng cách thiêng liêng nghĩa là trong tâm linh. Giăng 4:24 "Lấy tâm thần mà thờ phượng." (Thờ Chúa trong Thánh Linh).
2. Chúng ta phải thờ phượng cách thành thật nghĩa là trong lẽ thật Đức Chúa Trời nhìn thấy tấm lòng để xem thử lời nói nơi miệng ta có phải là lời thành thật, phát xuất từ đáy lòng hay không.
3. Chúng ta phải thờ phượng cách tỉnh táo, thông sáng. Đức Chúa Trời không ban thưởng hay khuyến khích cho sự ngu dốt. Ngài muốn chúng ta hiểu biết những gì Kinh thánh dạy dỗ. Một số người cố thờ Đức Chúa Trời bằng cách cúi đầu trong nhà thờ và đọc đi đọc lại những bài cầu nguyện mà họ không hiểu. Theo suốt một chương trình thờ phượng ở nhà thờ chưa hẳn là đã thờ phượng Đức Chúa Trời. Đôi khi có người ngồi trong nhà thờ mà tâm trí đi xa hàng dậm đường, đưa tâm hồn chuẩn bị bữa ăn hoặc câu được con cá to hoặc kiếm được món tiền. Mỗi một người tín đố có bổn phận phải xét lại xem sự thờ phượng mà mình dâng lên Chúa có thiêng liêng, thành thật và tỉnh táo hay không. Lòng Đức Chúa Trời muốn chúng ta ai nấy hết lòng, hết sức, hết trí, hết linh hồn mà thờ phượng Ngài.
VII. NHỮNG SỰ NGĂN TRỞ TRONG SỰ THỜ PHƯỢNG :
Sự thờ phượng là chức năng cao cả nhất của người tín đồ Cơ đốc, cho nên luôn bị Sa-tan chống đối.
1. Ý riêng: Na đáp và A-bi-hu đã chết vì đã dâng lửa lạ cho Đức Chúa Trời. (Lê-vi 10:1-11). Ở đây tỏ ra người thờ phượng không tỏ lòng tin cậy nơi Chúa nên bị quở trách.
2. Tinh thần thế tục: Người tín đồ ở trong thế gian nhưng không thuộc về thế gian. Giăng 17:11-15. Đấng Christ trở thành trung tâm của đời sống người Cơ đốc. Sự thờ phượng là cả toàn thân, con người và trí óc đều tập trung vào chính mình Chúa.
3. Tinh thần phê phán, chỉ trích: Những ai đến nhà thờ và để rồi phê bình, chỉ trích người hướng dẫn không phải là người thờ Chúa. Sự thờ phượng thật phải vượt lên cả vị Mục sư, cả nhà thờ, cả ban hát. Ga-la-ti 5:15. Hãy nhìn nhận những người khác cũng chỉ là người và cũng có thể sai lầm. Hãy có tinh thần thông cảm và đổ lòng mình ra trong tình yêu thương và sự tôn thờ Chúa với mong ước xin Ngài giúp đỡ. Đừng lưu ý đến cái gì đó để mà phê phán. Thà hãy tìm những gì đó để khen ngợi thì hơn.
4. Sự uể oải, biếng nhác: Sự thờ phượng rất cần tinh thần sốt sắng. Châm 24:30-34. Nhiều người cố gắng thờ phượng Chúa tuy thể xác không buồn ngủ nhưng tâm trí đã ngủ gục. Và như thế không đạt được yêu cầu thờ phượng Chúa. Sự biếng nhác thuộc linh phải được xem như tội lỗi và sự mê ngủ thuộc linh phải thay thế bằng sự tỉnh thức thuộc linh.
5. Sự thiếu kiên nhẫn, hấp tấp: Chúa phán "Hãy chờ đợi " (Ê-sai 40:31. Thế hệ ngày nay hay vội vã và đã không học được bài học ngồi yên lặng trong sự hiện diện của Chúa để suy gẫm về sự tốt lành và công việc của Ngài.
6. Chủ nghĩa hình thức, thay tấm lòng tự do thờ Chúa bằng những nghi thức rườm rà, cứng ngắc.
7. Một tinh thần không chịu tha thứ, Ma-thi-ơ 5:23,24.
8. Tinh thần kiêu ngạo về con người, chủng tộc, về học thức, về công danh, ngăn trở sự thờ phượng thật. Gia-cơ 4:6.
KẾT LUẬN:
Chúng ta thờ phượng Chúa ở đâu?
Ở núi Gerizim hay ở Giê-ru-sa-lem? Giăng 4:20.
Chúa Jêsus trả lời rằng nhóm ở đâu cũng được. Chính tinh thần thờ phượng và điều kiện tâm linh của người thờ phượng là quan trọng hơn nơi chốn thờ phượng. Chúng ta có thể thờ Chúa nơi nhà thờ, nơi nhà riêng hoặc ngoài trời. Chúng ta thờ phượng Đức Chúa Trời khi chúng ta bước vào sự hiện diện của Ngài. Có hai kết quả chính của sự thờ phượng
thật.
1. Đức Chúa Trời được vinh hiển vì Ngài tiếp nhận sự tôn vinh, chúc tụng xứng đáng với Ngài.
2. Người tín đồ được phước. Đức Chúa Trời sẽ làm đầy dẫy tấm lòng người thờ phượng với sự vui mừng và bình an. Nguyện lòng bạn và tôi dấy lên nguồn cảm xúc sâu xa tận đày lòng dâng lên tôn thờ Chúa, đẹp lòng Chúa và làm vinh hiển Danh Ngài.
LỜI GIỚI THIỆU:
Nhiều khi người tín đồ Cơ đốc đã gặp những sự thử thách nặng nề. Một số người bị ảnh hưởng đến thân thể, một số bị đụng chạm tinh thần, một số bị mất mát tài sản,và những người khác bị ma quỉ tấn công trực tiếp hoặc gián tiếp. Nhiều người kêu gào với Đức Chúa Trời "Tại sao? Tại sao tôi phải chịu khổ thế nầy?"
Phi-líp 1:29 "Không những tin Đấng Christ mà thôi, lại phải chịu khổ vì Ngài nữa."
Câu Kinh Thánh này đưa ra sự kiện rõ ràng. Bạn và tôi có một cơ hội hai chiều
1. Tin Chúa Jêsus Christ.
2. Chịu khổ vì cớ Ngài.
Chúng ta chắc muốn tin Chúa Jêsus Christ và được cứu. Chúng ta muốn sự cứu rỗi, sự tha thứ, thiên đàng, tình yêu, Chúa Jêsus.
Điều nầy đưa đến vinh dự chịu khổ.Phi-líp 3:10 "Cho đến nỗi tôi được biết Ngài và quyền phép sự sống lại của Ngài và sự thông công thương khó của Ngài...."Đây là lời cầu nguyện của sứ đồ Phao-lô. Chúa Jêsus đã chịu khổ. Tại Bết-lê-hem Ngài đã bị hiểu lầm, bị rủa sả, bị nói xấu. Ở Ghết-sê-ma-nê Ngài chịu thử thách đắng cay. Ngài đã bị bắt, bị đánh, bị nhổ vào mặt và bị đóng đinh. So sánh với sự thương khó của Ngài thì sự đau khổ của chúng ta không đáng so sánh.
2 Cô-rinh-tô 4:17 "Vì sự hoạn nạn nhẹ và tạm của chúng ta sanh cho chúng ta sự vinh hiển cao trọng đời đời... ." Đối với một số người, đời là vô nghĩa vì chỉ gồm sự rắc rối khó khăn, đau khổ và nước mắt...
Đối với người Cơ đốc thật, đời sống có một kế hoạch, vì Đức Chúa Trời có một mục đích cho mỗi một đời sống. "Chúng ta biết rằng mọi sự hiệp lại làm ích cho những kẻ yêu mến Đức Chúa Trời, tức là cho những kẻ được gọi theo ý định của Ngài." (Rô-ma
8:28).
I. SỰ ĐAU KHỔ ĐẾN NHƯ THẾ NÀO?
1. Do sự lầm lỡ và tội lỗi chúng ta: Ga-la-ti 6:7 "Chớ hề dối mình, Đức Chúa Trời không chịu khinh dể đâu vì ai gieo giống chi lại gặt giống ấy." Người phạm tội giết người biết ăn năn có thể được Đức Chúa Trời tha thứ, nhưng anh ta vẫn phải mang chịu cảnh tù đày vì cớ hậu quả tội ác của anh ta. Người phá hủy thân thể mình bằng rượu chè, hút xách sẽ phải gặt lấy sức khỏe tàn tạ. Chúng ta phải chấp nhận những hậu quả nầy như là Chúa cho phép xảy đến và chúng ta phải xét lòng đầy đủ để ăn năn, tìm ơn của Chúa và không tái phạm nữa.
2. Do những sai lầm và tội lỗi của người khác: "Tại sao Đức Chúa Trời để cho ông ấy nói điều kinh khủng ấy?." Thật ra không có sự đau khổ nào đến với bạn nếu không được Chúa cho phép.
3. Do những sự cám dỗ: 1 Cô-rinh-tô 10:13 "Chẳng có sự cám dỗ nào đến cho anh em quá sức loài người đâu. Đức Chúa Trời là thành tín, Ngài chẳng hề cho anh em bị cám dỗ quá sức mình đâu, nhưng trong sự cám dỗ, Ngài cũng mở đàng cho ra khỏi, để anh em có thể chịu được." Đức Chúa Trời biết rõ giới hạn của sự thử thách xảy đến cho ta.
4. Do sự can thiệp, quan phòng của chính Đức Chúa trời: Điều nầy có thể vượt quá trí hiểu của chúng ta đến nỗi có những linh hồn khốn khổ tuyệt vọng la lên: Tại sao? Tại sao? Đức Chúa Trời không hứa cho ta biết rõ lý do mọi hành động của Ngài. Ngài là Đấng Tể trị. Ngay cả trong những đau khổ sâu xa hơn hết, ta vẫn có sự bảo đảm chắc chắn về tình yêu thiên thượng của Ngài là Cha. Giăng Báp tít được đại dụng nhưng về sau bị tù buồn thảm. Chúa Jêsus ở gần nhưng Ngài không đến thăm hay trả lời rõ câu hỏi của ông Giăng. Chúa Jêsus chỉ phán "Hãy cứ ở tù và cứ tin cậy nơi Ta."
II. TẠI SAO CÓ SỰ ĐAU KHỔ?
1. Là hậu quả của tội lỗi:
a. Giăng 5:14 "Sau lại, Chúa Jêsus gặp người đó trong đền thờ bèn phán rằng: Kìa ngươi đã lành rồi, đừng phạm tội nữa, e có sự gì càng xấu xa xảy đến cho ngươi chăng." Câu nầy ngụ ý bệnh tật ông đã chịu 38 năm qua là hậu quả của tội lỗi.
b. Mi-ri-am. Dân số 12:10 Bà Mi-ri-am đã bị mắc bệnh phung trắng xóa vì đã lằm bằm chồng lại Môi-se, tôi tớ của Đức Chúa Trời.
c. Vua A-sa. 2 Sử ký ký 16:12. Lúc còn trẻ Vua tin cậy Chúa, nhưng lúc về già Vua khước từ sự lãnh đạo của Chúa và bị Chúa phạt "đau đớn đến nỗi nặng lắm."
2. Hầu cho công việc của Đức Chúa Trời được bày tỏ ra. Giăng 9:2,3, các môn đồ hỏi: "Ai mắc tội, người nầy hay là Cha mẹ người, mà khi mới sinh người đã bị mù? Chúa Jêsus khôn ngoan trả lời: Không phải ai cả, mà việc nầy xảy đến để Chúa Jêsus có thể chữa lành bệnh cho người mù. Khi những người khác mắc bệnh, đừng phán xét vội và nói rằng: "Bạn phạm tội gì mà bị phạt như thế?." Đức Chúa Trời có thể cho phép bệnh tật xảy ra để đem một người đến với Ngài trong sự thông công mật thiết hơn.
3. Vì sự vinh hiển của Đức Chúa Trời. Giăng 11:4 "Bệnh nầy không đến nỗi chết, nhưng vì sự vinh hiển của Đức Chúa Trời" và La-xa-rơ đã được sống lại, nhiều người tin Chúa chắc chắn Đức Chúa Trời được vinh hiển nhiều qua câu chuyện nầy suốt cả cõi thời gian. Bất cứ sự thử thách xảy đến thế nào ta hãy tiếp nhận với tinh thần ngọt ngào. Nếu việc xảy đến cho ta đẹp lòng Chúa thì ta hãy vui lòng.
4. Công việc của kẻ thù: - với sự cho phép của Đức Chúa Trời.
a. Đây là kinh nghiệm của ông Gióp.
b. Người bị quỉ ám ở Ga-da-ra bị đuổi ra nơi nghĩa địa. Mác 5:1-5.
c. Người đàn bà bị Sa-tan trói buộc 18 năm trong sách Lu-ca 13:16.
d. Công vụ 10:38 nói đến ngửng người bị Sa-tan áp chế.
5. Sự sửa phạt (sự dạy con) Hê-bơ-rơ 12:5-13.
a. Cha mẹ không thể luôn để cho con cái theo ý muốn riêng. Đức Chúa Trời cũng vậy đối với chúng ta.
b. Cha mẹ sẽ vui vẻ sửa lại nếu con cái biết lựa chọn khôn ngoan. Đức Chúa Trời cố dạy chúng ta để khiển chúng ta đạt được những quyết định khôn ngoan, sáng suốt.
c. Mục đích của sự dạy dỗ sửa phạt là huấn luyện người con biết quyết định đúng cho dù đôi khi vượt quá quyền hạn của cha mẹ. Đối với Đức Chúa Trời thì sự đau khổ luôn luôn là một phần trong kế hoạch huấn luyện của Ngài dành cho đời sống ta.
III. MỤC ĐÍCH CỦA SỰ ĐAU KHỔ :
1. Xác chứng quyền làm con của chúng ta.
- Hê-bơ-rơ 12:8 "Nhưng nếu anh em được khỏi sự sửa phạt mà ai nấy cụng phải chịu thì anh em là con ngoại tình chứ không phải con thật."
- II Ti-mô-thê 3:12 "Vả lại, mọi người muốn sống cách nhơn đức trong Đức Chúa Jêsus Christ, thì sẽ bị bắt bớ."
Nếu tôi không được chịu khổ thì tôi không phải là tín đồ thật của Chúa. Thương cho roi cho vọt. Sự đau khổ là bằng cớ tình yêu Chúa dành cho ta.
2. Nhằm đem lại ích lợi cho chúng ta:
- Hê-bơ-rơ 12:10 "Nhưng Đức Chúa Trời vì ích lợi cho chúng ta mà sửa phạt."
Ta hãy lấy một ví dụ: Một cây sắt giá trị không bằng cùng cây sắt ấy, người ta mang vào lò cán, ép, đúc... để tạo thành những vật dụng có giá trị càng hơn: một cây sắt, một con dao, một cây kim đồng hồ, giá trị của chúng khác nhau nhờ chúng được rèn, đập, nghiến, lừa, đúc để càng ngày càng giá trị hơn.
3. Nhằm sinh ra sự thánh khiết:
- Hê-bơ-rơ 12:10 "để khiến chúng ta dự phần trong sự thánh khiết Ngài."
Đức Chúa Trời muốn chúng ta càng ngày càng trở nên thánh khiết giống như Ngài. Điều nầy cần lò lửa thử thách.
4. Để thử thách chúng ta:
Chúng ta có thật sự là Cơ đốc nhân không? Chúng ta có thể tin cậy Ngài trong sự đau khổ và thiệt thòi không? Lửa làm tiêu cặn bã, nhưng để lại vàng y.
5. Sản xuất ra mùa giặt, sanh ra bông trái.
- Hê-bơ-rơ 12:11 "Sanh ra bông trái công bình và bình an cho nhũng kẻ chịu luyện tập."
Đời sống chúng ta sẽ kết trái hay chỉ có lá không mà thôi? Ga-la-ti 5:22,23 là bông trái ta cần sản xuất ra.
Sự đau khổ là một trong những phân bón tốt nhất Đức Chúa Trời dùng để tăng sản lượng mùa gặt thuộc linh.
IV. SỰ ĐÁP ỨNG CỦA CHÚNG TA ĐỐI VỚI SỰ ĐAU KHỔ :
1. Chúng ta có thể chống nghịch thay vì đầu phục. Thái độ nầy dẫn đến sự cứng lòng.
2. Chúng ta có thể kiệt sức ngã quị trước sự đau khổ. Chúng ta không cần phải ngã quị vì Chúa phán: 2 Cô-rinh-tô 12:9 "Ân điển ta đủ cho ngươi rồi." Chúa cho ta đủ sức để gánh chịu sự thử thách và sự đau khổ xảy đến.
3. Chúng ta miễn cưỡng gánh chịu. Đây là hình thức đắc thắng thấp nhất.
4. Chúng ta vui vẻ đầu phục ý Chúa: - chấp nhận ý Chúa và cầu xin Chúa cho tiến tới trong đời sống Cơ đốc nhân. Đây là hình thức đắc thắng cao cả nhất.
KẾT LUẬN:
Nếu tôi đứng trong trung tâm vòng tròn ý chỉ của Đức Chúa Trời thì tất cả mọi sự sẽ đến với tôi: Đau ốm, đau khổ, thử thách, hiểu lầm, ghen tị, khước từ, mất mát, tối tăm.v. v... Tất cả đều phát xuất từ bàn tay thân yêu của Ngài và tôi biết rằng đó là những điều tốt đẹp mà Chúa đã dành cho tôi.
LỜI GIỚI THIỆU:
Lễ Báp-tem là một đề tài gây tranh luận nhiều, nhưng là đề tài ta phải học hỏi. Trong Công vụ 8:26-40, Phi-líp đã dạy quan thái giám Ê-thi-ô-bi những chân lý sâu xa hơn về Lời Đức Chúa Trời. Chính quan thái giám đã la lên "Kìa, ở đây có nước."Chúng ta dẫn linh hồn người ta đến với Đấng Christ, nhưng chúng ta cũng phải dạy họ sự bảo đảm của sự cứu rỗi. công vụ 8:39.
Lễ Báp-tem là một tín lý của Tân ước, nhưng chữ Báp- tem được tìm thấy ở Cô-rinh-tô 10:2 chỉ về dân Y-sơ-ra-ên vượt qua Biển Đỏ, ở dưới đám mây. Giăng Báp-tít, người tiên hô của Đấng Christ, đã đến giảng dạy và làm phép báp-tem.
Sứ điệp của Giăng là Mác 1:4 "Giăng làm phép báp-tem ở đồng vắng và giảng về sự báp-tem ăn năn cho được tha tội."
Lễ báp-tem của Giăng đến từ trời. Mác 11:30.
Đoàn dân đông đến cùng Giăng chịu báp-tem. Lu-ca 3:7.
Giới trí thức gồm người PHA-RI-SI và các thầy dạy luật đã khước từ lễ báp-tem của Giăng và hậu quả là chịu hư mất thuộc linh. Lu-ca 7:30 "Không chịu Giăng làm phép báp-tem, nên chê bỏ ý Đức Chúa Trời định về mình."
Giăng chỉ làm báp-tem cho những người có kết quả xứng đáng với sự ăn năn. Lu-ca 3:8.
Lu-ca 3:8-14 liệt kê các kết quả cần có là: lòng từ thiện, tử tế, yêu thương, rộng rãi, nhân từ, công chính, trung tín, nhu mì, yên lặng, bình tĩnh, thỏa lòng. Bảng liệt kê nầy có những nét tương đồng với các bông trái Thánh Linh được liệt kê trong Ga-la-ti 5:22.
I. Ý NGHĨA LỄ BÁP-TEM:
Báp-tem không có nghĩa là tái sanh hay tha tội. Lễ báp-tem xác nhận biến cố đã xảy ra trước đó. Lễ báp-tem là biểu hiệu bên ngoài của sự ăn năn thật và đức tin bên trong.
1. Nó có nghĩa là vâng theo mạng lịnh Đấng Christ. Mác 16:16 "Ai tin và chịu báp-tem thì được rỗi." Lưu ý tin đi trước báp-tem.
2. Nó có nghĩa là noi theo gương của Chúa Jêsus. I Phi-e-rơ 2:21 "Vì Đấng Christ cũng đã chịu khổ vì anh em, để lại cho anh em một gương, hầu cho anh em noi dấu chân Ngài." Xem Giăng 13:15.
3. Nó có nghĩa là làm trọn mọi việc công bình. Ma-thi-ơ 3:15 "Bây giờ cứ làm đi, vì chúng ta nên làm cho trọn mọi việc công bình như vậy." Nếu Chúa Jêsus cần báp-tem, chắn chắn là tôi cũng cần.
4. Nó có nghĩa là phân rẻ khỏi tội lỗi bằng sự chết. Cô-lô-se 3:3 "Vì anh em đã chết, sự sống anh em đã giấu với Đấng Christ trong Đức Chúa Trời" Ga-la-ti 6:14.
5. Nó có nghĩa làm một cùng với Đấng Christ. Rô-ma 6:4-13.
a. Làm một cùng Ngài trong sự chết Ngài. Rô-ma 6:5.
b. Làm một cùng Ngài trong sự chôn Ngài. Rô-ma 6:4.
c. Làm một cùng Ngài trong sự sống lại của Ngài. Rô-ma 6:4.
6. Nó có nghĩa là sự kết hiệp với thân thể Đấng Christ. 1 Cô-rinh-tô 12:13 "Nhờ Thánh Linh chúng ta được báp-tem vào một thân thể." Một thân thể, một Hội thánh, Hữu hình và vô hình.
II. AI CÓ THỂ CHỊU BÁP TEM?
Giăng chỉ làm báp-tem cho một số người đã đạt những tiêu chuẩn nhứt định.
1. Những người đã nghe Tin lành và tin nhận. Mác 16:16.
2. Những người đã được mở mắt. Công vụ 9:18 "Tức thì chỉ có cái chi như cái vảy từ mắt người rớt xuống, thì người được sáng mắt, rồi chờ dậy và chịu phép báp-tem."
3. Những người đã ăn năn. Công vụ 2:38 "Hãy hối cải, ai nấy phải nhân danh Chúa Jêsus chịu phép báp-tem." Ăn năn có hai mặt: Quay bỏ khỏi tội lỗi và hướng về Đức Chúa Trời.
4. Những người có kết quả xứng đáng với sự ăn năn. Lu-ca 3:8 và Ma-thi-ơ 3:8.
5. Những người đã nhận lãnh Đức Thánh Linh. Công vụ 10:47.
6. Những người đã được dạy Lời Đức Chúa Trời. Ma-thi-ơ 28:19,20 "Hãy đi.... dạy dỗ muôn dân... làm phép báp-tem cho họ. Và dạy họ giữ hết cả mọi điều ta đã bảo cùng các ngươi." Lời Đức Chúa Trời ở đây liên quan đến cả Kinh thánh Tân ước.
7. Những người đã chịu chết, chịu chôn và sống trên nền tảng sự phục sinh. Đây là sự dạy dỗ căn bản của Rô-ma 6:1-13 và mọi tín đồ phải hiểu rõ.
III. MỘT NGƯỜI PHẢI ĐƯỢC BÁP TEM THẾ NÀO?
1. Nhân danh ai?
a. Cha, Con và Thánh Linh. Ma-thi-ơ 28:19.
b. Trong Danh Chúa Jêsus. Công vụ 19:5.
c. Trong Danh Chúa. Công vụ 10:48.
2. Báp tem bằng gì?
Chỉ bằng nước. Công vụ 8:36 "Kìa, ở đây có nước."
Giăng 3:23 "Giăng cũng làm báp tem ở Aenon.... vì nơi đó nhiều nước."
3. Ai có quyền ban hành lễ báp tem?
Do một hay các đại diện của Hội thánh. Ví dụ Giăng Báp-tít, Phi-líp, Phi-e-rơ, Phao-lô và Si-la, A-na-nia...v.. v...
4. Làm báp tem ở đâu?
a. Nói chung ở dưới sông. Ma-thi-ơ 3:13-17, Giăng 3:22, 23.
b. Đôi khi ở trong nhà hoặc các điều kiện không rõ (như Ly-đi Công vụ 6:13-15, người đề lao và cả nhà Công vụ 16:33. Thuật sĩ Si-môn Công vụ 8:12,13.
5. Phương thức làm báp tem:
Một số giáo hội hành lễ báp tem theo các phương thức đổ nước hoặc rảy nước. Có lẽ là bắt chước việc xức dầu (I Sa-mu-ên 10:1), hoặc là hình thức cắt bì của Cựu ước.
Một số giáo phái Tin lành làm lẽ báp tem cho trẻ em bằng cách rảy nước tin rằng:
a. Họ không làm báp tem để cứu rỗi em bé.
b. Trẻ em con của các tín đồ, trước khi chúng nó ý thức tội lỗi, đều được cứu. 1 Cô-rinh-tô 7:14, Ma-thi-ơ 18:10.
c. Lễ báp tem thay thế cho lễ cắt bì. Trẻ em được cắt bì vào ngày thứ tám.
d. Các cha mẹ phải hứa nguyện với Chúa và với Hội thánh thay cho con cái.
e. Khi các em đã đến tuổi trưởng thành và ý thức được vai trò mình trong Hội thánh thì họ được nhận các giáo lễ khác liên hệ đến tư cách thuộc viên chính thức của Hội thánh.
Tuy nhiên, có một phương thức báp tem phù hợp nhất với Kinh thánh, đó là dìm mình xuống nước. Chữ báp tem trong nguyên văn "báptizo " - nghĩa là dìm xuống nước.
Ma-thi-ơ 3:16. Chúa Jêsus chịu báp tem dưới sông.
Công vụ 8:38.39. Cả Phi-líp và quan thái giám Ê-thi-ô-bi "xuống nước và lên khỏi nước."
Theo Rô-ma 6:1-13, sự dìm mình xuống dưới nước phù hợp với ý nghĩa đồng chết,
đồng chôn và đồng sống lại với Đấng Christ.
Sự đổ nước hoặc rảy nước chỉ diễn tả sự rửa sạch và sự biệt riêng.
Người tín đồ dìm mình xuống nước là dấu hiệu công khai tuyên bố với thế gian là người ấy đã chết, đã chôn, và đã sống lại và nay đang sống cho Chúa Jêsus.
Cô-lô-se 2:12 "Anh em đã bởi phép báp tem được chôn với Ngài, thì cũng được sống lại với Ngài bởi đức tin... "
Hội thánh Tin lành Việt nam hành lễ báp tem theo phương thức dìm mình xuống nước.
IV. KHI NÀO MỘT NGƯỜI ĐƯỢC BÁP TEM?
Không phải là khi tôi muốn được tha tội, không phải là khi tội quyết định trở thành người Tin lành. Không phải do các lý do xã hội hoặc công việc, hoặc do kết hôn với người có đạo.
1. Khi một người đủ lớn để hiểu biết ý nghĩa lễ báp tem và đủ điều kiện nhứt định.
Hội thánh đầu tiên có làm báp tem cho trẻ em không? Tân ước có ký thuật về ba gia đình được làm báp tem :
Người đề lao thành Phi-líp. Công vụ 16.
- Nhà Sê-pha-na - 1 Cô-rinh-tô 1:16.
- Nhà Ly-đi-a - Công vụ 16:15.
Nhưng không thất nhắc đến thiếu nhi.
Công vụ 8:12 "Cả đàn ông đàn bà đều chịu báp tem."
Một số người thích dâng con trẻ cho Chúa hơn là làm báp tem cho con trẻ.
Nếu một em bé qua đời mà chưa chịu báp tem có bị hư mất không? Không! Lễ báp tem không hề cứu rỗi hay đoán phạt trẻ em. Sự cứu rỗi thông qua Đấng Christ chứ không qua báp tem. Công vụ 4:12.
Con trai Đa-vít trong II Sa-mu-ên 12:15-23 đã chết chưa chịu cắt bì và chưa báp tem, nhưng Đa-vít nói "Ta sẽ đến với nó." Ta chắc rằng Đa-vít lên thiên đàng là nơi ông hy vọng gặp lại con.
KẾT LUẬN:
Qua lễ báp tem, tôi công khai tuyên bố đứng về phía Đức Chúa Trời, và sự công bình chống nghịch với ma quỉ và tội lỗi.
Báp tem là một thách thức cho các quyền lực của sự tối tăm. Tôi đang sống cho Chúa Cứu thế Jêsus.
Báp tem là hành động thuộc linh kêu gọi ân điển.
Đức Chúa Trời ban sức mạnh để chiến thắng.
Báp tem là một mạng lịnh. Tôi phải vâng theo và đầu phục.
Nếu Chúa Jêsus cần được báp tem để làm trọn mọi việc công bình thì chắc tôi cũng rất cần.
Chúng ta hãy cầu nguyện và kiên trì tìm cầu lễ báp tem và đời sống đắc thắng.
LỜI GIỚI THIỆU:
Lễ tiệc thánh là thánh lễ do chính Chúa Jêsus sáng lập. Ma-thi-ơ 26:26-29 Chúa Jêsus chỉ dự lễ nầy một lần với các sứ đồ trong đêm Ngài bị nộp. Câu chuyện tiệc thánh đầu tiên được các sách Phúc âm kể lại và qua lời tường thuật ta có thể nhắc lại theo thứ tự sau đây:
1. Các sứ đồ họp nhau ở bàn ăn, nhưng họ nói lên cuộc tranh luận ai là lớn hơn hết (Lu-ca 22:24-30).
2. Để dạy họ bài học yêu thương, phục vụ nhau, Chúa rửa chơn cho họ (Giăng 13:1-20).
3. Chúa Jêsus tuyên bố một người trong bọn họ sẽ phản Ngài (Ma-thi-ơ 26:21-23).
4. Điều nầy gây nên sự ngạc nhiên và mỗi người đều đặt câu hỏi: "Lạy Chúa, có phải tôi không? " (Ma-thi-ơ 26:21-23).
5. Chúa Jêsus phán rằng kẻ phản bội đang ăn chung với họ (Giăng 13:21,22).
6. Phi-e-rơ ra dấu cho Giăng xin hỏi Chúa (Giăng 13:23-25).
7. Chúa Jêsus tỏ ra dấu hiệu. Ngài nhúng bánh đưa cho Giu-đa (Ma-thi-ơ 26:23).
8. Giu-đa đi ra giữa sự ngạc nhiên của mọi người (Giăng 13: 26-30).
9. Chúa Jêsus lấy bánh, chúc phước, bẻ ra và trao cho các môn đồ ăn (Lu-ca 22:19)
10. Chúa Jêsus lấy chén, chúc phước và trao cho các môn đồ uống (Lu-ca 22:20).
11. Mọi người hát thánh ca và đi đến vườn Ghết-sê-ma-nê (Ma-thi-ơ 26: 30-36).
I. NGÀY NAY TA CÓ THỂ HÀNH LỄ TIỆC THÁNH Y NHƯ LỄ TIỆC THÁNH ĐẦU TIÊN KHÔNG?
Nếu chúng ta phải theo cách hành lễ Tiệc thánh đầu tiên thì những điều sau đây là cần thiết:
1. Vào buổi tối. Ma-thi-ơ 26:10.
2. Tổ chức trên phòng cao. Lu-ca 22:12.
3. Ăn bánh không men. Ma-thi-ơ 26:17.
4. Phải bẻ bánh ra. Lu-ca 22:19.
5. Phải dùng một ổ bánh và một ly nước nho. Ma-thi-ơ 26:26,27. Giáo hội Chánh thống Đông phương áp dụng phương thức nầy.
6. Phải nằm dựa vào bàn. giăng 13:23-26.
7. Phải tổ chức sau bữa ăn tối. Ma-thi-ơ 26:26.
8. Không có đàn bà dự, chỉ có Chúa Jêsus và các sứ đồ.
II. MỤC ĐÍCH CỦA LỄ TIỆC THÁNH :
Chúng ta không dự lễ Tiệc thánh để tiếp nhận sự tha tội. Thánh lễ không có quyền lực ban sự tha tội. Chúng ta dự tiệc thánh là vâng lời dạy của Chúa (1 Cô-rinh-tô 11:24). Chúng ta dự tiệc thánh trong sự mong đợi Chúa sớm tái lâm (1 Cô-rinh-tô 11:26). Chúng ta dự lễ tiệc thánh để phô bày sự chết của Chúa. Không ai dự tiệc thánh vì mình xứng đáng. Tất cả là nhờ ân điển Chúa mà chúng ta được sanh ra trong gia đình của Đức Chúa Trời. Không ai dự tiệc thánh mà lòng kiêu ngạo được. Chúng ta dự tiệc thánh với hai tâm trạng, một là cảm biết sự bất xứng của chúng ta, hai là lòng tin cậy của chúng ta. Nếu chúng ta là con cái thật của Đức Chúa Trời, chúng ta phải dạn dĩ đến bàn tiệc thánh để thông công và để thêm sức mạnh.
Chúng ta đừng xa lánh tiệc thánh vì sợ Chúa. Ngài mời gọi chúng ta đến và chúng ta không nên từ chối với Ngài niềm vui thông công của chúng ta.
Ở bàn tiệc thánh - Chúa đến gần thông công với chúng ta như bủa ăn ờ làng Em-ma-út.
III. AI CÓ THỂ DỰ TIỆC THÁNH?
Chỉ những người được sinh ra trong gia đình của Đức Chúa Trời, mới có quyền ngồi vào bàn tiệc thông công với Chúa. Những người vô tín và người thiên nhiên thuộc về "bàn tiệc của quỉ" (1 Cô-rinh-tô 10:21). Một số Hội thánh có luật là chỉ tín đồ chịu báp tem rồi mới được dư tiệc thánh. Hội thánh Tin lành Việt nam theo luật nầy.
Hầu hết các giáo phái Tin lành đều hoan nghinh các tín hữu tốt ở các giáo phái khác đến tham dự Lễ tiệc thánh với họ.
Một số giáo phái khắc khe chỉ dành riêng Tiệc thánh cho các thuộc viên Hội thánh của họ mà thôi. Các tín đồ bị kỷ luật dứt phép thông công không được phép dự tiệc thánh trong một thời gian cho đến khi được phép trở lại.
IV. TỰ XÉT LẤY MÌNH LÀ ĐIỀU KIỆN TIÊN QUYẾT KHI DỰ TIỆC THÁNH :
1 Cô-rinh-tô 11:28 "Mỗi người phải tự xét mình, vì như thế mới ăn bánh uống chén."
2 Cô-rinh-tô 13:5 "Chính anh em hãy tự xét để xem mình có đức tin chăng? Hãy tự thử mình..."
Thi 26:2 "Đức Giê-hô-va ơi, xin hãy dò xét và thử thách Tôi. Rèn luyện lòng dạ tôi"
Thi 139:23 "Đức Chúa Trời ơi, xin hãy tra xét tôi và biết lòng tôi. Hãy thử thách tôi và biết tư tưởng tôi."
Người dự tiệc thánh phải cầu nguyện: "Xin Chúa chiếu ánh sáng soi xét của Lời Ngài trên con."
Tự xét lấy mình có nghĩa là cẩn thận suy xét, tìm kiếm và thử nghiệm.
1. Tôi phải xét ai? Có phải vị Mục sư? Có phải ông chấp sự? Có phải vợ tôi? Hay người hàng xóm? - Không. Tôi phải tự xét chính mình.
2. Tại sao tôi phải tự xét lấy mình?
a. Vì đây là mạng lịnh trực tiếp rõ ràng của Kinh thánh.
b. Vì ăn bánh không xứng đáng sẽ đem lại sự phán xét, sự yếu đuối, sự bệnh tật và sự chết sớm. Đây phải là sự tự xét tìm kiếm tội lỗi,và quăng xa tội lỗi trong sự thống hối ăn năn.
3. Tôi tự xét lấy mình như thế nào?
Tôi có thể tự hỏi các câu hỏi sau đây:
a. Tôi có thực lòng tin Chúa không? Công vụ 26:31.
b. Tôi có thực sự tái sanh trong gia đình của Chúa chưa? Giăng 3:3-7.
c. Có tội nào tôi chưa xưng ra trong đời sống tôi? Tôi tự ti, tôi tự cao? Tham lam? Không vâng lời? Biếng nhác? Không vâng lời? Yêu thích tội lỗi? Yêu mến thế gian? Tư tưởng tôi có trong sạch không? Tôi có làm chứng về Chúa liên tục không? Tôi có trung tín đọc Kinh thánh và cầu nguyện không? Tôi có giữ lời hứa cầu nguyện cho cá nhân nào đó không?
d. Tôi có hết lòng ăn năn tội không? Xưng tội mà không ăn năn là chuyện đùa giỡn.
e. Tôi có tự hứa trong lòng sẽ sống đời sống thánh khiết hơn không?
f. Tôi có yêu Chúa hết lòng,hết sức, hết linh hồn tôi không? Lu-ca 10:27a
g. Tôi có yêu kẻ lân cận như mình không? Lu-ca 10:27b
h. Tôi có tha thứ cho kẻ phạm tội nghịch cùng tôi không? Ma-thi-ơ 6:14-15, 5:23-24.
i. Tôi có hết lòng vâng theo mạng lịnh Chúa dành riêng cho tôi không? Chẳng hạn giảng Tin lành? Tôn vinh Chúa? Giúp người nghèo? Dạy Kinh thánh? Làm chứng đạo? Dâng phần mười?
j. Tôi có vâng lời chuẩn bị tấm lòng cho bữa lễ tiệc thánh này không?
V. NHỮNG YÊU CẦU CỦA LỄ TIỆC THÁNH :
Bánh và nước nho chỉ là tượng trưng cho Thân và Huyết Chúa. Chúng ta không chủ trương thuyết Biến thế nghĩa là bánh và nước biến thành thịt thật và huyết thật của Chúa, hoặc thuyết cho rằng thịt và huyết của Chúa có hiện diện (ngự vào), trong bánh và nước nho khi hành lễ. Chúng ta tin rằng bánh và nước nho chúng ta dự lễ cũng là bánh và nước nho y như nguyên chất của nó, nhưng chỉ là tượng trưng là hình bóng về thân và huyết mà thôi.
Bánh không men tượng trưng cho tội lỗi được bỏ đi. Từ đó chúng ta tin rằng sau khi dự lễ chúng ta phải sống đời sống trong sạch, thánh khiết hơn.
VI. CÁC KẾT QUẢ CỦA LỄ TIỆC THÁNH:
Người tín đồ được tinh sạch và thánh hóa khi tự xét lấy mình và cầu xin huyết Chúa không chỉ xóa sạch tội lỗi trong lòng, mà còn xóa sạch cả ước muốn phạm tội nữa.
Người tín đồ được tăng cường sự thông công với Chúa và với anh em khác.
Người tín đồ được gây dựng bồi linh khi suy gẫm về sự chết và sự tái lâm của Đấng
Christ.
KẾT LUẬN:
Sau lễ tiệc thánh chúng ta sẽ đi đâu? Có người đi ra chợ, đến quán rượu hay bàn cờ bạc? Điều này hoàn toàn sai.
Các môn đồ đã đi ra, đã chối Chúa, đã bỏ Ngài chạy trốn cứu thân sau khi dự tiệc thánh. Chúng ta sau khi dự tiệc thánh phải đến nơi cầu nguyện. Xin Chúa cho ơn phước Lễ Tiệc thánh có chiều sâu sắc hơn trong ta. Chúng ta phải tiến tới trong đời sống thuộc linh đắc thắng mỗi ngày trong Đấng Christ. Mỗi người tín đồ phải thường xuyên đến bàn tiệc thánh cách dạn dĩ nhưng khiêm nhường. Chúng ta phải dự tiệc trong tinh thần trông đợi "Cho đến khi Ngài đến."
Hãy nhớ lại Lời Chúa Jêsus "Hãy làm diều này để nhớ Ta " Khi tham dự lễ, chúng ta hãy nhớ suy nghĩ đến sự giáng sinh, sự báp tem, chức vụ cứu người, sự thăng thiên, sự cám dỗ, các phép lạ, các lời dạy bảo, sự thống khổ
Ghết-sê-ma-nê, sự xử án, sự chế giễu, hành hạ, sự chết, sự chôn, sự sống lại, sự thăng thiên,
sự tái lâm và sự cầu thay hiện tại của Ngài bên hữu Đức Cha. Hãy đầy dẫy tâm trí bạn với chính mình Ngài.
LỜI GIỚI THIỆU:
I Giăng 1:7 "nhưng, nếu chúng ta đi trong sự sáng láng cũng như chính mình Ngài ở trong sự sáng láng, thì chúng ta giao thông cùng nhau."
I Giăng 1:3"... hầu cho anh em cũng được giao thông với chúng tôi. Vả, chúng tôi vẫn được giao thông với Đức Chúa Cha và với Con Ngài là Đức Chúa Jêsus Christ."
Ý nghĩa thế tục của sự thông công ở đây liên hệ đến tình bằng hữu: Tình đồng chí,
tình bạn thân. Trong Anh văn, chữ thông công là fellowship. Có người nói: Fellowship nghĩa là "two fellows in the same ship " (hai người ở trên cùng một chuyến tàu). Thật ra, điều nầy không đúng vì các hành khách trê cùng một chiếc thuyền có khi không thể nói chuyện với nhau được vì họ không có cái gì chung với nhau.
(Người Việt nam có câu: đồng hội đồng thuyền" để diễn tả người chung lý tưởng ở thế gian).
Nhưng, sự thông công Cơ đốc còn có ý nghĩa sâu xa hơn, ngọt ngào hơn sự thông công thế tục rất nhiều. Sự thông công Cơ đốc là sự giao thông thiêng liêng, là sự cùng chia xẻ, cùng tham dự, cùng thông phần với nhau.
Các sinh viên trong một Đại học có thông công với nhau vì họ có ít điều chung với nhau (cùng trường, cùng sở thích), nhưng sự thông công Cơ đốc có tính độc đáo hơn nhiều, nó liên hệ nhiều hơn, nó bao gồm đến cả cuộc đời chung: Mọi người tín đồ đều có cùng một Cha (Giăng 1:13), được mua chuộc bằng cùng một giá (1 Cô-rinh-tô 6:20) là thành viên của cùng một thân thể (Cô-lô-se 1:18), được dạy dỗ bởi cùng một Thánh Linh (Giăng 16:13), cùng bước đi trên một con đường (2 Cô-rinh-tô 5:7), cùng phục vụ một chủ (Ma-thi-ơ 23:8), cùng thừa hưởng chung một gia tài, một cơ nghiệp (Rô-ma 8:17).
I. NỀN TẢNG CỦA SỰ THÔNG CÔNG :
Bước đi trong sự sáng là điều kiện của sự thông công (I Giăng 1:7). Tội lỗi phá vỡ sự thông công: Sự thông công có thể được phục hồi nhờ sự ăn năn và xưng tội.
Ê-sai 59:2 "Ấy là sự gian ác các ngươi làm xa cách mình với Đức Chúa Trời."
I Giăng 1: 7b cung ứng cho ta công thức của sự phục hồi mối thông công nhờ huyết báu của Đấng Christ tẩy sạch mọi tội dơ chúng ta.
Huyết báu của Chúa không tự động rửa sạch, nhưng nếu chúng ta xưng tội mình, ăn năn nhìn nhận mình có tội thì huyết Chúa có linh nghiệm tẩy sạch mọi tội lỗi của chúng ta. (I Giăng 1:9).
Bước đi trong sự sáng có nghĩa là bước đi trong sự vâng phục ý chỉ của Đức Chúa Trời, hằng ngày bước theo chân Chúa. Bước theo chân Chúa chúng ta sẽ không phạm tội.
(I Phi-e-rơ 2:21,22).
Sự thông công còn căn cứ trên mối liên hệ thân mật trong tình gia đình đối với Đấng Christ và gia quyến của Ngài.
Nếu hai người không đồng ý với nhau, thì há cùng đi chung được sao? (A-mốt 3:3).
Chắc chắn là không. Họ phải đồng ý với nhau trên:
1. Nơi gặp gỡ - thập tự giá.
2. Hướng đi - về thiên đàng.
3. Mục đích - sự thánh khiết với Đấng Christ.
4. Tốc độ bước đi - theo dấu chân của Chúa.
II. CHÚNG TA THÔNG CÔNG VỚI AI?
1. Với Đức Cha và Đức Con:
- I Giăng 1:3. Chúng ta được sinh ra trong gia đình của Đức Chúa Trời, và thành viên thực sự của gia đình chúng ta phải có sự thông công từ lòng đến lòng.
- 1 Cô-rinh-tô 1:9 "Đức Chúa Trời là thành tín. Ngài đã gọi anh em được thông công với Con Ngài là Đức Chúa Jêsus Christ, Chúa chúng ta." Sự kêu gọi căn bản là để thông công hơn là hy sinh hay phục vụ.
2. Với các tín hữu khác:
I Giăng 1:3,7 Thông công với các sứ đồ, các môn đồ, các tín hữu. Các Cơ đốc nhân đều yêu thích được cùng nhau nói chuyện, cùng nhau cầu nguyện, ca hát cùng nhau, khóc cùng nhau, mọi sự cùng nhau. Các Cơ đốc nhân đều thích cùng nhau nói về mọi việc của Đấng Christ và chia xẻ lời làm chứng về kinh nghiệm theo Chúa của nhau. Chúng ta rất cần sự thông công cùng nhau này để tăng cường sức mạnh thuộc linh và khuyến khích nhau trên đường theo Chúa. Một Cơ đốc nhân cô độc có thể bị thiếu đói và mất dẫn sức sống thuộc linh.
Vậy trước hết ta hãy tìm kiếm sự thông công với Chúa trong sự cầu nguyện và đọc Kinh thánh, rồi ta hãy thông công với các con trai con gái khác của Ngài. Sự thông công phản ánh trong gương mặt các thánh đồ.
III. TẠI SAO TA PHẢI THÔNG CÔNG VỚI NGƯỜI KHÁC?
Hê-bơ-rơ 10:25 "Chớ bỏ qua sự nhóm lại như mấy kẻ quen làm."
Sự thông công là luật lệ đã được Đức Chúa Trời qui định cho loài người. Đức Chúa Trời dựng nên loài người để lao động 6 ngày và nghỉ ngày thứ bảy để để nghỉ ngơi, thông công và thờ phượng.
Đức Chúa Trời thừa nhận nguyên tắc này trong sự sáng tạo vì Ngài phán trong Sáng 2:18 "Người đàn ông ở một mình thì không tốt, ta sẽ làm nên một người giúp đỡ giống như nó." Câu này chỉ về sự hôn nhân, nhưng nó cũng rất đúng với sự tăng trưởng của người tín đồ Cơ đốc.
Chúa Jêsus đã nhìn nhận nguyên tắc này khi Ngài sai các môn đồ ra đi từng cặp từng đôi. Mác 6:7. Thật ra, cũng có số ít tín đồ được trưởng thành trong khi sống một mình ở trong tù, nhưng đây chỉ là trường hợp ngoại lệ.
IV. CHÚNG TA CÓ SỰ THÔNG CÔNG NHƯ THẾ NÀO?
Thông thường chúng ta có sự thông công với nhau trong giờ thờ phượng của Hội thánh tại nhà thờ, nhưng chúng ta cũng có sự thông công trong buổi nhóm cầu nguyện, các buổi làm chứng...
Các sinh viên Đại học có sự thông công với nhau trong các nhóm học Kinh thánh và tiểu tổ cầu nguyện.
Sự thông công thường ngọt ngào nhất khi hai, ba người nhóm nhau lại như Chúa Jêsus dạy trong Ma-thi-ơ 18:20. Hai người đi cùng chuyến xe cũng có sự thông công vui vẻ. Hai tín đồ cùng làm một sở cũng có sự thông công với nhau. Chính Chúa Jêsus và hai môn đồ trên đường về làng Em-ma-út có sự thông công tuyệt vời. (Lu-ca 24:32). Chúa Jêsus đến gần họ và lòng họ được ấm áp, nóng nảy. Đây là sự thông công Cơ đốc. Công vụ 2:42 "Vả, những người ấy bền giữ lời dạy các sứ đồ, sự thông công của anh em, lễ bẻ bánh và sự cầu nguyện." Hội thánh đầu tiên sốt sắng thông công với Chúa và với nhau. Họ xem đó là điều tối cần.
Sự thông công không thể thụ động, nghĩa là không phải chỉ là đến dự một buổi nhóm. Sự thông công thực sự là khi ta đóng góp một cái gì đó cho buổi nhóm, nghĩa là "ban cho và nhận lãnh."
V. MỤC ĐÍCH CỦA SỰ THÔNG CÔNG :
1. Gây dựng cho nhau: Ngay cả khi ta không cần sự thông công gây dựng, ta cũng mắc nợ gây dựng người khác. Trong quá trình gây dựng người khác, ta cũng được phước.
2. An ủi lẫn nhau trong những giờ phút khó khăn trong cuộc sống. Nhiều nụ cười, cái bắt tay nồng ấm cũng làm nhẹ bớt gánh nặng và mối ưu tư trong lòng người khác. Chúng ta hãy cùng làm cho gánh nặng người khác vơi bớt đi.
3. Chia xẻ kinh nghiệm vì lợi ít chung, lời làm chứng của ta có thể ngăn cản người khác mắc phải lầm lỗi tương tự và chịu khổ như ta.
4. Bày tỏ niềm vui mừng để mọi người cùng chia ơn xẻ phước với ta Thi 50:15. Kết quả vui mừng của sự cầu nguyện sẽ khích lệ người khác sót sắng cầu nguyện.
5. Khóc với kẻ khóc. Rô-ma 12:15 thông công bằng nước mắt, bằng sự chia buồn.
6. Khích lệ anh em yếu đuối về những sự mầu nhiệm trong Lời của Đức Chúa Trời. Khi bạn học, bạn chia xẻ bài học, bài học sẽ được ghi nhớ thêm và bạn thích học hỏi thêm.
7. Nhắc nhở người sa ngã, yếu đuối ăn năn quay về cùng Chúa. Sự thông công của bạn sẽ nhắc người sa ngã nhớ đến những ngày quí báu trong Chúa khiến người đó được thúc giục ăn năn quay về với Chúa và được hưởng phước.
VI. TA KHÔNG NÊN THÔNG CÔNG VỚI AI?
1. Với ma quỉ: 1 Cô-rinh-tô 10:20 "Tôi không muốn anh em thông đồng với các quỉ." Lời cảnh cáo nầy liên hệ đến việc tiếp xúc với thầy bói, đồng bóng, phù thủy, mọi hình thức cúng bái ma quỉ.
2. Các công việc vô ích của sự tối tăm: Ê-phê-sô 5:11 "Chớ dự vào công việc vô ích của sự tối tăm, thà quở trách chúng nó thì hơn." Điều nầy liên quan đến các câu lạc bộ ban đêm, các quán rượu, các băng cướp, các tổ chức vô thần (Giăng 3:19)
3. Các người vô tín, các việc không công bình, các việc tối tăm, Bê-li-an và người vô đạo. Danh sách nầy được thấy ở II Cô-rinh-tô 6:14-16. Chúng ta có thể có liên hệ làm ăn với người chưa tin Chúa, nhưng không phải là liên hệ thuộc linh. Chúng ta phải làm chứng cho người chưa được cứu, nhưng không nên dự vào công việc xấu xa của họ.
Vậy tôi phải thông công với ai được? Tốt nhất và ngọt ngào nhất là nên thông công với những người có cùng một đức tin như tanhững người Tin lành thuần nhất, chính thống.
VII. CÁC KẾT QUẢ CỦA SỰ THÔNG CÔNG CƠ ĐỐC :
1. Chúng ta học được việc bước đi trong ánh sáng của sự vâng theo ý Chúa. I Giăng 1:17.
2. Chúng ta học được sự chịu khổ cùng nhau. Phi-líp 3:10.
3. Chúng ta học cách cùng nhau phục vụ Chúa. Cô-lô-se 4:7.
4. Chúng ta học cách an ủi lẫn nhau. 1 Tê-sa-lô-ni-ca 4:18.
5. Chúng ta học cách cầu nguyện cùng nhau. 1 Tê-sa-lô-ni-ca 5:25.
6. Chúng ta học cách mang gánh nặng cho nhau. Ga-la-ti 6:2.
7. Chúng ta học cách vui với kẻ vui. Rô-ma 12:15.
8. Chúng ta được càng ngày lớn lên và làm vinh danh Chúa. 2 Phi-e-rơ 3:18.
KẾT LUẬN:
Chúng ta hãy bắt đầu một ngày bằng sự thông công với Chúa trong giờ tĩnh nguyện, cầu nguyện và đọc Kinh thánh. Hãy suy gẫm Lời Chúa suốt ngày. Hãy để Chúa đầy dẫy tâm linh ta, trước ta. Tiếp tục thông công với anh em tín hữu cùng đức tin nhưng cũng thường tiếp xúc với người chưa tin để tìm cơ hội nói về Chúa cho họ để họ cũng được cứu. Có cái gì khác nhau giữa việc nghe bài giảng hay trong Ra-đi-ô với việc đi nhóm tại nhà thờ? Điều khác biệt căn bản là sự thông công. Nghe giảng trong Ra-đi-ô là tốt, nhưng sáng Chúa nhật phải đi nhà thờ để giao thông với Chúa và Hội thánh của Ngài.