Định Luật 5
ĐỊNH LUẬT1 ĐỊNH LUẬT2 ĐỊNH LUẬT3 ĐỊNH LUẬT4 ĐỊNH LUẬT5 ĐỊNH LUẬT6 ĐỊNH LUẬT7
TẠI SAO NGƯỜI TA ĐỀ KHÁNG UY QUYỀN?
Đề kháng uy quyền là điều tự nhiên! Nhưng biết như thế không luôn luôn đưa ra được những câu trả lời thực tiễn cho các vấn đề thực tế của các cấp lãnh đạo thuộc linh. Các mối liên hệ giữa con người với nhau trong bất kỳ một tổ chức Cơ-đốc giáo nào, cũng đều chịu ảnh hưởng lớn lao của các ý niệm về uy quyền mà số người ấy đang nắm giữ.
Một mục sư bạn bảo với tôi về ước muốn “làm ngay lại” một Hội thánh vốn có một lịch sử thiếu chủ tọa. Ông ta nói, vấn đề là tình trạng thiếu uy quyền. Các tín đồ không đáp lại với uy quyền của quý vị mục sư tiền nhiệm. Ông ta sẽ thay đổi mọi việc đó. Ông ta chỉ giữ được chức vụ có sáu tháng mà thôi.
Đôi khi lý do con người đề kháng được tìm thấy ngay trong đời sống của người lãnh đạo. Nhiều lúc khác, việc người lãnh đạo là ai chẳng quan hệ gì, vấn đề đề kháng được hình thành ngay trong con người.
Một thí dụ về đề kháng uy quyền xảy ra trong một Hội thánh mà tôi quen biết. Ngôi nhà thờ đã được thiết lập từ 25 năm trước nay phải bị bán đi. Suốt 25 năm ấy, Hội thánh đã có một số mục sư, nhưng đã chẳng có ai có thực quyền cả.
Một người từng đầu tư một số tiền lớn cho công việc ngay từ lúc bắt đầu, đã trở thành một thứ “bố già” thuộc linh. Ông ta có các giấy tờ hợp pháp của ngôi nhà thờ giữ ở nhà mình, và có các chìa khoá của ngôi nhà. Những gì ông ta nói trong những buổi họp của Hội thánh ấy đều được xem là đúng - chẳng hề có ai đặt câu hỏi gì. Khi Hội thánh bắt đầu sa sút, chẳng có ai nhận ra vấn đề là do chính người ấy. Họ đổ lỗi đó cho các mục sư. Cuối cùng, Hội thánh sa sút đến chỗ chỉ còn một ông ấy. Mọi người đều rời bỏ Hội thánh. Thật đáng buồn.
Vấn đề về uy quyền này rất quan trọng, nhưng lại có rất ít người muốn giải quyết nó, hay thông báo cho nhiều tổ chức Cơ-đốc giáo biết để đối phó với nó.
Uy Quyền Là Gì?
Từ điểm Webster’s liệt kê các nghĩa sau đây của từ ngữ uy quyền:
1. Quyền hợp pháp hay phải lẽ; một thứ quyền để truyền lệnh hay hành động; quyền xét xử.
2. Một người, ban trị sự hay uỷ ban có quyền trong một lãnh vực nào đó.
3. Chính phủ; những người thực thi quyền lực hay mệnh lệnh.
4. Người được nêu tên hay viện dẫn để hậu thuẫn cho các ý kiến hành động,biện pháp, v.v. do đó là
a. lời chứng, người chứng
b. một tiền lệ, một quyết định trước đó của một toà án
c. một quyển sách hay tác giả của nó
d. lời biện minh; lời bảo đảm.
5. Quyền lực do ý kiến hoặc cách đánh giá; ảnh hưởng của một nhân vật, một cấp bậc cao hơn về phương diện tâm lý hay tinh thần, hay điều gì giống như thế.
Khi xét kỹ các định nghĩa này, dường như chúng nhằm mô tả điều mà mọi người đều nói về uy quyền. Vấn đề của tất cả các định nghĩa trên đây đều liên quan với nguồn gốc hay nền móng của mọi uy quyền. Thế thì uy quyền tối hậu là gì? Nếu cái gọi là “uy quyền” còn phải trình các ủy nhiệm thơ của mình cho một cá nhân, tập thể hay tổ chức, đặc chế khác, thì nó không thể là uy quyền tối hậu. Nếu “quyền” để có được uy quyền của chúng ta là điều được cấp cho, ban cho chúng ta, thì chúng ta không phải là uy quyền tối hậu.
Các Vấn Đề Trong Xã Hội Tạo Ra Việc Đề Kháng Uy quyền
Ngày nay, thiên hạ thắc mắc đặt vấn đề đối với uy quyền (và các nhà cầm quyền) gay gắt hơn bao giờ hết. Có người bảo rằng xã hội chúng ta đang gặp “khủng hoảng uy quyền”. Uy quyền đang bị suy giảm, cũng như việc thực thi quyền hành trong mọi lãnh vực của xã hội, kể cả các trường học, Hội thánh, công cuộc kinh doanh và chính quyền (ở mọi cấp bậc). Có rất ít người tôn trọng uy quyền, và các quyền của cá nhân được đề cao nhằm loại trừ phần uy quyền đã khiến cho các quyền ấy có thể có được ngay từ đầu.
Đã có gì trục trặc? Tại sao người ta lại không đáp lại với uy quyền? Tại sao phần đông người ta lại thắc mắc đặt vấn đề đối với quyền cai trị và lãnh đạo của các nhà cầm quyền? Tại sao các cấp lãnh đạo lại phải trải qua một giai đoạn khó khăn như thế để đối phó với những người đang ở dưới quyền lãnh đạo của họ? Sau đây là một vài lý do mà người ta đưa ra:
Con cái vô kỷ luật.
Khi đã không còn một mẫu mực kỷ luật thống nhất từ phía những người làm cha làm mẹ đối với con cái họ nữa, thì một tinh thần nổi loạn phát triển. ChCn 29:15 dạy: “Roi vọt và sự quở trách ban cho sự khôn ngoan; còn trẻ phóng túng làm mất cỡ cho mẹ mình”. 29:17 thêm: “Hãy sửa phạt con ngươi, thì nó sẽ ban sự an tịnh cho ngươi, và làm cho linh hồn ngươi được khoái lạc”. 22:6 vạch rõ cho chúng ta thấy tầm quan trọng của trách nhiệm làm cha mẹ, khi nêu rõ: “Hãy dạy cho trẻ thơ con đường nó phải theo; dầu khi nó trở về già, cũng sẽ không hề lìa khỏi đó”.
ChCn 19:18 chỉ ra sự cần thiết phải răn dạy sớm: “Hãy sửa phạt con ngươi trong lúc còn sự trông cậy; nhưng chớ toan lòng giết nó”. Các bậc làm cha làm mẹ viện lẽ họ quá yêu thương con để có thể sửa phạt chúng, chỉ chứng minh được điều trái lại mà thôi. 13:24 làm sáng tỏ vấn đề này: “Người nào kiêng roi vọt ghét con trai mình; song ai thương con ắt cần lo sửa trị nó”.
Lý do khiến trẻ con cần sửa phạt (kỷ luật) được chép trong 22:5 “Sự ngu dại vốn buộc vào lòng con trẻ; song roi vọt sẽ làm cho sự ấy lìa xa nó”. Có một vấn đề là nhiều người làm cha mẹ không phân biệt được kỷ luật (răn dạy) với uy quyền. Biểu đồ sau đây sẽ giúp chúng ta thấy được chỗ khác nhau, và việc sửa phạt trẻ con có liên hệ như thế nào với lòng kính trọng và cách đáp lại của chúng với uy quyền.
Một đứa trẻ lớn lên dưới chế độ “trừng phạt” sẽ tỏ ra chống đối uy quyền nhiều hơn là đứa trẻ được kỷ luật phải lẽ. Việc thiếu kỷ luật cũng được chứng minh là làm hại cho các thái độ của đứa trẻ trong đời sống sau này. Nếu cha mẹ cho con mình tất cả mọi sự, nó sẽ muốn hoặc đòi hỏi đủ thứ, rất có thể là trong đời sống sau này của đứa trẻ ấy, nó sẽ chống lại với uy quyền.
Ngày nọ, có một người đến văn phòng của tôi để nói về một người làm công cho ông ta, vốn là một Cơ-đốc nhân nhưng không chịu vâng phục uy quyền của ông ta. Ông chủ này muốn làm điều thật phải lẽ. Tôi
Nếu không có các lý tưởng đạo đức tuyệt đối ,
sẽ không thể nào tránh được sự sụp đổ trong uy quyền và việc thiên hạ đáp ứng lại với nó được cơ hội trò chuyện với chàng thanh niên nổi loạn kia và phát giác ra rằng cậu ta xem ông chủ như cha mình vậy. Cha cậu ta chẳng bao giờ kỷ luật cậu ta, còn thuở ấu thời, cậu ta luôn tìm sự đáp ứng của cha mẹ bằng cách nổi giận hoặc hờn dỗi.Chàng thanh niên này có những thái độ thù ghét chủ mình và rất tức giận bởi không thể làm theo ý mình như hồi còn ở nhà trong thời gian mình được trưởng dưỡng. Tôi khuyên cậu ta, hoặc phải biết vâng phục uy quyền, hoặc sẽ phải mất việc. May thay cậu ta đã đáp ứng rất tốt. Nhiều vấn đề trong công tác lãnh đạo có thể truy nguyên từ cách răn dạy không đúng cách ở nhà của những người giờ đây phải làm việc chung với nhiều người khác. Giải pháp đích thực cho vấn đề này là quay trở về với các nền móng trong gia đình. Hãy dạy dỗ và kỷ luật đúng theo Lời Thượng Đế.
Các vấn đề trực tiếp trong khi làm việc chỉ có thể được giải quyết bằng việc chính đương sự phải nhận ra vấn đề và sẵn sàng vâng phục uy quyền. Điểm này phải cần đến quyền năng và sự kiểm soát của Đức Thánh Linh. Một người muốn chiến thắng cách kỷ luật không thích hiệp nhiều năm trong gia đình là việc khó, nhưng không phải là không thể thực hiện được. Một kiểu mẫu về vâng phục Thượng Đế và uy quyền có thể thắng hơn kiểu mẫu đề kháng và nổi loạn. Xã hội thất bại trong việc truyền dạy các lý tưởng đạo đức tuyệt đối. Chẳng có gì là khó hiểu trong việc vấn đề này ảnh hưởng đến vấn đề uy quyền như thế nào. Một tiêu chuẩn luân lý đạo đức tương đối sẽ dẫn tới một triết lý nhân bản, ở đó “cái ta” là uy quyền và là cái xác định thế nào là đúng hay sai về mặt luân lý đạo đức.Xã hội ngày nay bảo rằng: “Hễ bạn thấy điều gì là tốt, thì hãy làm đi”, đã kết luận rằng người có trách nhiệm xác định bất kỳ một lời nói hay hành vi nào là đạo đức chẳng ai khác hơn là chính bạn! Chúng ta thường được bảo cho biết rằng nếu tất cả mọi người đều nhất trí về một điều gì đó, thì điều đó trở thành đúng. Hay nếu ít nhất, mọi người đều đầu phiếu cho nó, thì nó là đúng!
Nếu không có các lý tưởng đạo đức tuyệt đối, thì điều không thể trách được sẽ là sự sụp đổ của uy quyền, và người ta sẽ không đáp ứng lại với uy quyền nữa. Ta có thể tìm được một thí dụ cho việc này trong RoRm 10:3 Phao-lô nói: “Họ không biết đường lối Thượng Đế vạch sẵn cho con người đến bậc công chính, lại cố gắng lập công đức theo luật pháp chứ không theo đường lối Ngài”.
Trong bầu không khí trí thức của các trường cao đẳng và đại học ngày nay, mỗi câu khẳng định hay định đề có thể bị thắc mắc đặt thành vấn đề. Chẳng có gì còn được gọi là đúng, sai, phải, trái nữa. Câu trả lời hôm nay là: “Cái đó còn tuỳ!”. Luân lý đạo đức rất uyển chuyển, tùy thuộc vào hoàn cảnh hoặc tình hình trong đó mọi sự việc xảy ra.
Tâm trạng của phần đông người ta ngày nay là không muốn có ai bảo mình nên làm gì, hay một việc gì đó là điều phải làm. Điều này gợi ý về một “việc phải làm” hay một đòi hỏi đạo đức nào đó, và đòi hỏi phải có một uy quyền đạo đức đàng sau nó! Người ta thường bảo: “Ai nói như thế?” hay “Thế ông ta cho rằng mình là ai?” Hoặc “Điều gì khiến ông ta cho rằng mình có uy quyền ở đây?” Bầu không khí nổi loạn và đề kháng này đang phát triển mạnh, mà nhiều người gọi là “khoảng chân không đạo đức”.
Thất bại trong việc truyền dạy các nguyên tắc về uy quyền.
Một số điểm đáng trách có thể quy cho các tổ chức giáo dục đã không dạy đúng các nguyên tắc về lãnh đạo và uy quyền. Uy quyền, quyền lãnh đạo và quản lý là các chủ đề rất được nhiều người quan tâm chú ý, nhưng cách thức mà các chủ đề ấy được truyền dạy trong phần lớn các trường học khiến nhiều người nghi ngờ và thắc mắc đặt vấn đề đối với việc khẳng định vai trò dành cho quyền lãnh đạo.
Ngày nay, ngồi tại một địa vị có uy quyền liên đới nhiều với sự chỉ trích và công kích. Khi phân tích tại sao sự việc lại quả đúng là như thế, nhiều người đã chỉ vào các giáo trình truyền dạy phương pháp quản lý. Các quyền cá nhân đã được đề cao đến mức các nhà cầm quyền luôn luôn xuất hiện như “những kẻ xấu”.
Những vụ công kích người có uy quyền thường xảy ra trong các trường cao đẳng và các lớp đại học. Mọi người dường như “có quyền muốn nói gì thì nói”. Người ta lường gạt lừa dối nhau, chẳng buồn tuân thủ luật pháp chi cả. Nếu bạn có thể tống khứ nó đi, thì dường như làm như thế là phải, là đúng. Cho nên chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi hiện nay đang có khủng hoảng về uy quyền!
Các cấp lãnh đạo thất bại trong việc nêu gương tốt.
Những chuyện tai tiếng trong đời sống các nhà cầm quyền dường như có xu hướng làm suy giảm việc người ta đáp ứng lại với uy quyền. Nếu cuộc đời một người lãnh đạo không phản ảnh đúng điều ông ta nói, thì rất khó được tín nhiệm và tin cậy trong vấn đề thực thi quyền hành của người ấy. Đây chắc chắn là một lời chỉ trích có giá trị và một số những điều trách cứ phải đổ lên vai các nhà cầm quyền.
ChCn 29:2 chép: “Người liêm chính cai trị, dân sự hân hoan; kẻ ác nắm quyền, dân chúng lầm than”. Tân ước nhấn mạnh trên các phẩm cách của những người có địa vị lãnh đạo - họ phải nêu gương tốt. Lẽ dĩ nhiên cách ăn ở cư xử đạo đức như thế khẳng định là phải có các lý tưởng đạo đức tuyệt đối để chúng ta căn cứ vào đó mà thẩm định, và các lý tưởng tuyệt đối đó có uy quyền đạo đức.
Đề cập các giáo sư giả và các cấp lãnh đạo vô đạo, Thánh Kinh chép:
“Như vậy, Chúa biết giải cứu người tin kính khỏi cơn cám dỗ; còn kẻ vô đạo đến ngày phán xét sẽ bị Ngài hình phạt. Ngài đặc biệt nghiêm khắc với những kẻ sống buông thả theo dục vọng xấu xa, những kẻ kiêu căng, liều lĩnh, dám khinh mạn cả các bậc tà linh cường bạo” (IIPhi 2Pr 2:9-10).
Trong câu 8 sách của mình, Giu-đe thêm: “Thế mà những kẻ lầm lạc kia cứ sống mãi cuộc đời gian ác, làm nhơ nhuốc thân thể, khinh bỉ mọi uy quyền và chế giễu cả các bậc tà linh cường bạo”. Đặc điểm của các giáo sư giả này là khinh dể và khước từ uy quyền.
Khuynh hướng tự nhiên muốn nổi loạn.
Một số người không thích thừa nhận sự thật này, nhưng ta tìm thấy nó nhiều lần trong Thánh Kinh. Con người vốn tội lỗi, và các hành động của người bị bản tính tội lỗi và vị kỷ cai trị. Bản tính ấy vốn có ngay từ khi chúng ta được sanh ra đời. Trong Thi Tv 51:5, Đa-vít nói: “Con sinh ra giữa đời gian ác, được hoài thai trong cảnh tội ô”. Eph Ep 2:1-3 tả vẽ như khắc hoạ vấn đề này:
“Trước kia tâm linh anh em đã chết vì tội lỗi gian ác. Anh em theo nếp sống xấu xa của người đời, vâng phục Sa-tan, bạo chúa của đế quốc không gian, hiện đang hoạt động trong lòng người chống nghịch Thượng Đế. Tất cả chúng ta một thời đã sống sa đoạ như thế, chiều chuộng ham muốn xác thịt và ý tưởng gian ác của mình. Vì bản tính tội lỗi đó, chúng ta đáng bị Thượng Đế hình phạt như bao nhiêu người khác”.
IGi1Ga 1:8 chép: “Nếu chúng ta chối tội là chúng ta tự lừa dối và không chịu nhìn nhận sự thật”. Sự việc dường như hết sức rõ ràng là vấn đề này vốn không phải chỉ là của các bậc làm cha mẹ, các nhà cầm quyền, các định chế, các tiêu chuẩn luân lý đạo đức trong xã hội bên ngoài con người mà thôi. Vấn đề ấy vốn nằm ngay trong lòng chúng ta! Bản tính của chúng ta vốn là phản loạn. Chúng ta sẵn sàng hướng tới “cái ta” và tội lỗi, chứ không phải là vâng phục uy quyền đạo đức.
Chúng ta không muốn ai bảo chúng ta nên làm gì - điều đó trái với bản tính chúng ta! Phao-lô mô tả nan đề của con người:
“Dù biết Thượng Đế nhưng họ chẳng tôn vinh hay tri ân Ngài. Họ suy tư trong vòng lẩn quẩn, tâm hồn bị sa lầy trong bóng tối. họ tự nhận là khôn ngoan nhưng hoá ra mê muội. Thay vì thờ phượng Thượng Đế vinh quang hằng sống, họ tôn thờ thần tượng con người phù du, đến cả hình tượng chim, thú hay loài bò sát” (RoRm 1:21-23).
1:30 thêm rằng, theo bản tính người ta hay “phao vu, ghét Thượng Đế, xấc láo, kiêu căng, khoác lác, ưa tìm cách làm ác mới mẻ, nghịch cha mẹ”. Khi mô tả những ngày sau rốt, Phao-lô cho chúng ta biết rằng loài người sẽ “khoe khoang, hợm hĩnh, phỉ báng, nghịch cha mẹ” (IITi 2Tm 3:1-5). Vâng, vấn đề là ở trong lòng người ta. Theo bản tính và hành động, chúng ta vốn là tội nhân.
Trong ITe1Tx 4:1-8 Phao-lô mô tả các nguyên tắc và lời dạy của Thượng Đế về thói quen sống vô đạo. Trong câu 8, ông đưa vào một câu thật hấp dẫn về việc khước từ : “Vậy ai không tuân lệnh này, không phải bác bỏ lời người ta, nhưng khước từ Thượng Đế, Đấng ban Thánh Linh Ngài cho anh em”. Điểm muốn nói ở đây, là trước hết, sự phản loạn và khước từ của chúng ta được hướng vào chính Thượng Đế.
Các tổ chức Cơ-đốc giáo có thể gặp
chia rẽ , bất trung và phản chống uy quyền
quan trọng nếu bản tính tội lỗi của
những người làm việc trong đó không được
Đức Thánh Linh cai trị kiểm soát .
Tạ ơn Thượng Đế, vì đã có một giải pháp cho sự phản loạn trong lòng của mọi người chúng ta! Tội lỗi chúng ta đã được huyết báu của Chúa Giê-xu trả giá để mua rồi, và chúng ta có thể được cứu rỗi nhờ công lao của Ngài trên thập tự giá và sự sống lại của Ngài. Điều này đòi hỏi chúng ta phải có đức tin vào những gì Thượng Đế đã làm cho chúng ta, chứ không phải vào những gì chúng ta có thể làm cho Ngài. Chúng ta phải tin vào Chúa Cứu Thế Giê-xu để được cứu.
Khi được “tái sinh” chúng ta nhận một bản tính mới từ Thượng Đế, khiến chúng ta biết hướng về Ngài. Bản tính mới này luôn luôn xung đột với bản tính cũ của chúng ta (vốn chưa được cất đi cho đến khi Chúa Cứu Thế tái lâm). Việc hiểu rõ và đáp ứng lại với uy quyền giữa các tín hữu phải lớn hơn là giữa những người không tin Chúa.
Lẽ dĩ nhiên là các tín hữu có thể để cho bản tính cũ của họ nắm thế áp đảo để trở thành điều mà Thánh Kinh gọi là “xác thịt”. Các tổ chức Cơ-đốc giáo có thể gặp chia rẽ, bất trung và đề kháng uy quyền nếu bản tính tội lỗi của những người làm việc trong đó không được Đức Thánh Linh kiểm soát. Bí quyết để có một tổ chức kiến hiệu, trong đó có sự đáp ứng và tôn trọng uy quyền, là một đời sống đầy dẫy Đức Thánh Linh. Một phần của trái của Thánh Linh, là đức “tự chế”. Khi chúng ta được Đức Thánh Linh cai trị kiểm soát, chúng ta sẽ không thoả mãn các tham muốn của xác thịt (kể cả việc nổi loạn và không vâng phục uy quyền) theo GaGl 5:16.
Các Vấn Đề Về Tổ Chức
Gây Ra Việc Đề Kháng Uy Quyền
Thêm vào vấn đề căn bản của bản tính tội lỗi cũ và các thất bại của những bậc cha mẹ, xã hội, trường học, v.v.. có một số vấn đề thực tiễn trong mỗi tổ chức, có thể dẫn tới các vấn đề về uy quyền. Nhận ra chúng sớm và làm một điều gì đó để đối phó với chúng, có thể cứu người lãnh đạo khỏi nhiều trường hợp đau lòng.
Không xác định trách nhiệm.
Khi các tín đồ không biết họ phải làm gì, họ sẽ chán nản thất vọng và đề kháng uy quyền. Khi các lằn ranh về trách nhiệm không được rõ ràng trong công việc được giao, các tín đồ sẽ có xu hướng dẫm lên chân người khác! Có sự trùng lấp, tạo ra các thái độ như: “Đó không phải là công việc của tôi”, hay “chẳng ai bảo tôi làm việc ấy cả” hoặc “đó là vấn đề của bạn, không phải của tôi”.
Việc phân nhiệm cần bắt đầu từ cấp trên. Trước khi được biết vị lãnh tụ chóp bu làm gì, chúng ta không thể trù hoạch các công việc cho cấp dưới ông ta.
Xác định trách nhiệm không cần thiết phải dài dòng hay quá chi tiết. Nó phải đề cập những điều cơ bản này: điều trông mong phải làm là gì, phải chịu trách nhiệm với ai, có trách nhiệm với ai, đâu là các quyền hạn, v.v...
Không được lãnh đạo theo dõi sát.
Đây là một lời than phiền phổ biến. Khi một người có một yêu cầu với cấp lãnh đạo nhưng yêu cầu đó lại không được biết đến, hay bỏ qua, các thái độ chống đối sẽ phát triển ngay tức khắc. Các cấp lãnh đạo phải học tập theo dõi thật sát các vấn đề có ảnh hưởng đến tín đồ của mình.
Một trong các thành viên trong ban giám đốc của chúng tôi có ý chống đối, và điều đó bắt đầu bộc lộ. Khi đối phó với vấn đề, tôi học biết được vấn đề chính là tôi. Ông ta đã trình các kế hoạch cho tôi, nhưng tôi đã không chịu hành động ngay, cũng không cho biết tôi muốn giải quyết việc ấy như thế nào. Ông ta bối rối là phải. Ông ta phải luôn vâng phục, nhưng phản ứng của ông ta là điều có thể hiểu được.
Chẳng có giải thích.
Khi các quyết định có ảnh hưởng đến đa số những người làm việc cho bạn mà không kèm theo lời giải thích, thì các thái độ chống đối bắt đầu phát triển. Các cấp lãnh đạo phải học tập chia xẻ với mọi người tại sao mình phải làm như đang làm. Không phải tất cả mọi người đều sẽ nhất trí, nhưng mọi người đều vui vẻ vì ý kiến của họ đã được lắng nghe, và cấp lãnh đạo sẵn lòng giải thích. Khi những người làm việc cho bạn là những người sau cùng được nghe về các quyết định đã được đưa ra, họ sẽ cảm thấy mình bị bỏ qua, và người lãnh đạo đã không đánh giá họ cao lắm.
Vấn đề dường như hết sức đơn giản - đổi qua đổi lại một vài chức vụ, sắp xếp lại người làm, thế nhưng tất cả đều không được giải thích. Bạn thử đoán xem - Tôi đã có vấn đề đấy! Tôi đã phải khó khăn lắm để giải thích thật chi tiết với tất cả mọi người có liên quan với việc chuyển đổi này! Đó là lỗi của tôi, chứ không phải của họ. Dù vấn đề có vẻ nhỏ nhặt đối với tôi, nhưng không phải là hoàn toàn không có hậu quả đối với họ.
Tỏ ra thiên vị.
Việc này thường xảy ra luôn. Chỉ cần bắt đầu trả lương cho một thành viên trong ban giám đốc cao hơn một người khác cùng cấp bậc, thế là bạn sẽ thấy ngay việc chống lại uy quyền. Hãy giao cho một thành viên trong ban giám đốc một văn phòng tốt hơn một người khác cũng có cùng một cấp bậc trách nhiệm, bạn sẽ gặp vấn đề ngay, trừ phi mọi người đều tán đồng, yêu thương và sẵn sàng. Lẽ dĩ nhiên là khi các văn phòngï đều khác nhau, và bạn phải có những quyết định không làm vui lòng tất cả mọi người, nhưng bạn biết dành thì giờ để bàn bạc qua, chắc chắn bạn sẽ được giúp ích!
Tỏ ra thiên vị có thể được nhìn thấy do số thì giờ người lãnh đạo dành cho một người cá biệt nào đó trong ban giám đốc nhất là khi đó không phải là công việc chung. Con người vốn rất nhạy cảm, và người lãnh đạo phải thông cảm với cách cảm nghĩ của người khác. Các cấp lãnh đạo phải tỏ ra yêu thương và quan tâm đến tất cả mọi người, không thiên vị.
Đòi hỏi làm việc phụ trội mà không yêu cầu.
Khi một cấp lãnh đạo chỉ đơn giản bảo với một người làm công điều ông ta muốn người ấy làm nhưng công việc ấy vốn không phải là công việc thường xuyên của người ấy, thì một thái độ đề kháng có thể dễ dàng phát triển. Người làm công kia bắt đầu cảm thấy cấp lãnh đạo ấy không thật sự quan tâm hay hiểu rõ các cảm nghĩ của mình. Lẽ tự nhiên là những người làm công phải sẵn sàng tuân theo các đòi hỏi của ông chủ (Thánh Kinh dạy như thế), nhưng các cấp lãnh đạo thuộc linh sẽ tạo dễ dàng hơn cho mình nếu biết thôi đòi hỏi và bắt đầu thỉnh cầu.
Nếu một người lãnh đạo cần một người làm ở lại và làm thêm giờ phụ trội, thì phải thỉnh cầu, chứ không phải đòi hỏi. Một câu hỏi như: “Anh có thể giúp tôi làm cho xong việc này bằng cách làm thêm giờ hôm nay không?” sẽ tốt hơn câu: “Anh sẽ phải ở lại để làm thêm giờ hôm nay, hầu hoàn tất dự án này” rất nhiều. Khi một cấp lãnh đạo cần một người làm một việc không phải là phần việc của người ấy, thì nói: “Xin anh giúp tôi việc này; tôi biết đó không phải là công việc của anh, nhưng tôi thật sự cần được anh giúp” sẽ tốt hơn là bảo: “Anh phải làm việc này cho xong càng sớm càng tốt”.
Người lãnh đạo làm như thế, tức là đang xây dựng cho tương lai. Người khác sẽ đáp ứng nhanh chóng hơn khi bạn có nhu cầu, khi biết là bạn đang thỉnh cầu, chứ không phải là đòi hỏi họ. Có lẽ bạn có quyền đòi hỏi đấy; nhưng nếu bạn chịu suy nghĩ điều này, thì năng suất có thể sẽ cao hơn khi có bầu không khí thương yêu và ân cần.
Một điều cuối cùng về vấn đề này: Phải chắc chắn là bạn đã tỏ lòng thành thật cám ơn cho nỗ lực phụ trội đó. Lòng tri ân dẫn tới việc được đáp ứng sốt sắng hơn. Một trong những dạng thức đền bù cho người làm việc thường hay bị quên lãng là câu: “Cám ơn anh nhiều lắm”. Nó có giá trị hơn tiền bạc rất nhiều!
Các vấn đề về tổ chức có thể tạo ra việc chống đối uy quyền. Xin đừng để chúng cứ tiếp tục. Nên học tập đối phó với chúng thật nhanh chóng. Mọi người đáp ứng lại với các cấp lãnh đạo biết quan tâm đến họ và các cảm nghĩ của họ.
BẢNG KIỂM ĐIỂM CỦA NGƯỜI LÃNH ĐẠO
1. Có người nào đó chống lại uy quyền của bạn không? Họ là ai? Bạn có biết tại sao không?
2. Bạn đối phó với người chống đối uy quyền của bạn như thế nào?
3. Bạn có nêu gương tốt trước mặt tha nhân, khiến người khác sốt sắng đáp ứng lại với uy quyền của bạn không? Tại sao?
4. Bạn có mô tả thật đầy đủ công việc mà chính bạn phải làm hay không? Còn cho các bạn đồng công của bạn? Chúng có được viết ra giấy không?
5. Bạn có luôn luôn đáp ứng tức khắc các yêu cầu của người khác không?
6. Bạn có dành thì giờ giải thích các quyết định của bạn, khi chúng có ảnh hưởng đến người khác không?
7. Có bao giờ bạn tỏ ra thiên vị không? Hãy kể ra một thí dụ gần đây.
8. Bạn có thói quen đòi hỏi chứ không phải là thỉnh cầu không? Đâu là chỗ khác nhau?
LÀM THẾ NÀO ĐỂ BẠN CÓ ĐƯỢC UY QUYỀN?
Uy quyền rất thiết yếu cho việc điều hành hữu hiệu bất kỳ một tổ chức nào. Nó vẫn hiện hữu, cho dù có được thừa nhận hay không. Nó thường nằm trong một góc, mà không được những người có tước vị và chức vụ chú ý. Làm thế nào để một người có được uy quyền? Nó từ đâu đến?
Nền Móng Của Uy Quyền
Nền tảng của mọi uy quyền là Thượng Đế. Nếu không có Thượng Đế, cũng không có nền tảng đạo đức cho uy quyền. Nếu không có Thượng Đế, người ta không thể thiết lập tính cách đứng đắn, phải lẽ đạo đức. Nếu không có Thượng Đế mọi sự đều tương đối và tuỳ thời chóng qua. Nếu không có Thượng Đế, cũng chẳng có các tuyệt đối.
Thượng Đế là nguồn gốc của uy quyền.
Trước khi có bất cứ vật gì, Thượng Đế đã có rồi. Thánh Kinh đã không dài dòng chứng minh sự hiện hữu của Thượng Đế, mà chỉ khẳng định sự kiện ấy thôi. Đấng đã tạo nên chúng ta có quyền bảo chúng ta phải làm gì. Mọi uy quyền trên thế gian này đều có trách nhiệm phải tính sổ, phải khai trình cách hành quyền ấy với chính Thượng Đế. Nhiều vấn đề về quản lý có thể được làm sáng tỏ, nếu nguyên tắc này được thừa nhận và áp dụng.
Thánh Kinh dạy rằng Thượng Đế là vua của tất cả, và Vương quốc Ngài bao trùm mọi sự và mọi người (xem DaDn 4:3, 34; 6:26; 7:14). Vua Đa-vít bảo rằng Thượng Đế là đầu của tất cả, và Ngài cai trị tất cả (xem ISu1Sb 29:11, 12). Mọi sự đều do Ngài mà có.
RoRm 9:21 dạy rằng Ngài là người thợ gốm còn chúng ta là đất sét; Ngài có quyền nắn ra chúng ta theo hình thức nào tuỳ ý Ngài. Thi Tv 24:1-10 nhắc nhở chúng ta rằng đất và mọi sự ở trong đó đều thuộc về Đức Giê-hô-va. RoRm 11:36 dạy rằng mọi sự đều do Ngài mà có, đều được Ngài điều hành và nhằm vào mục tiêu tối hậu là chính Ngài. Thi Tv 103:19 dạy rằng Thượng Đế cầm quyền tể trị trên tất cả.
Các cấp bậc uy quyền được Lời Chúa mặc khải.
Thượng Đế cũng xác định các cấp bậc của uy quyền đang hiện hữu trong xã hội. Đức Chúa Cha đã ban đặc quyền cho Con Ngài, là Chúa Cứu Thế Giê-xu (xem GiGa 17:2). Uy quyền của Chúa Cứu Thế ảnh hưởng đến nhiều lãnh vực của đời sống chúng ta. Trong hôn nhân, Chúa Cứu Thế là đầu của tất cả những người chồng, còn người chồng là đầu của vợ mình. Trong Hội thánh Chúa Cứu Thế là Đầu. Trong việc kinh doanh, các chủ nhân được nhắc nhở về Ông Chủ của họ trên thiên đàng (xem Eph Ep 6:9).
Uy quyền của Thượng Đế đã được diễn tả rõ ràng trong các trang viết của Thánh Kinh, khiến bộ sách ấy trở thành quyển sách chỉ dẫn số một về uy quyền. Thánh Kinh vang lên đầy uy quyền với những câu khẳng định như: “Đức Giê-hô-va phán vậy” và “Có Lời của Đức Giê-hô-va phán cùng tôi như vầy” Thánh Kinh đòi hỏi chúng ta phải tuân thủ và vâng phục những gì sách ấy dạy. Lý do vì đó là Lời của Thượng Đế. Thượng Đế là nguồn gốc tối hậu của mọi uy quyền.
Một trong những vấn đề chủ yếu trong việc xác lập nguyên tắc về uy quyền trong đời sống một người, là mối liên hệ của người ấy với Thượng Đế. Nếu người ầy không chịu thừa nhận Thượng Đế là thấy rằng mình chẳng cần chi phải vâng phục các cấp bậc uy quyền mà Thượng Đề đã thiết lập trong Lời Ngài.
Vâng phục uy quyền.
Thượng Đế đã thiết lập uy quyền trong hôn nhân, gia đình, chính quyền,
Nếu bản thân bạn không thể vâng phục
uy quyền , thì không thể trông mong
tha nhân vâng phục bạn
việc kinh doanh và Hội thánh. Mỗi tín hữu được khuyến giục phải vâng phục các nhà cầm quyền mà Thượng Đế đã thiết lập.
Một trong những chiếc chìa khoá để có được uy quyền là học tập vâng phục. Điều hầu như đã trở thành một định lý, ấy là mức độ uy quyền trong đời sống một người có thể trực tiếp truy nguyên từ mức độ người ấy vâng phục các uy quyền mà Thượng Đế đã đặt trên đời sống người ấy. Nếu bản thân bạn không thể vâng phục uy quyền, thì không thể trông mong tha nhân vâng phục bạn. Thượng Đế hứa đề cao người biết học tập vâng phục (xem Gia Gc 4:10).
Phần lớn vấn đề đáp ứng lại với uy quyền nằm trong các ý niệm sai lầm của người ta về uy quyền. Các ý niệm này thường cai trị, kiểm soát việc người ta đáp ứng lại, tuy người ấy không hề ý thức việc ấy.
Các Ý Niệm Sai Lầm Về Uy Quyền
Một vài vấn đề mà mọi người phải gặp khi công tác tốt với tha nhân và dưới quyền lãnh đạo của người khác, là do có các ý niệm sai lầm về uy quyền mà họ đã quen rồi. Sau đây là vài ý niệm sai lầm như thế.
Uy quyền từ cảm thức nội tâm.
Chúng ta thường nói về các nhân vật “có uy quyền” - tức là những người dường như vốn có uy quyền bẩm sinh. Họ cảm thấy như thế, và người chung quanh họ cũng cảm thấy như thế. Uy quyền này có thể nảy sinh từ cách một người nói năng, ăn mặc hoặc liên hệ với những người khác.
Nhưng đây chỉ là uy quyền tưởng tượng mà thôi, chưa phải là uy quyền có thật. Nó do bản thân người ấy bảo những người chung quanh người ấy tưởng tượng ra. Có khi nó vốn là hậu quả của một ý thức tự hào hoặc tự tin. Nó cũng có thể bắt nguồn từ sự bất an, khiến một người bày tỏ các thái độ và hành vi có tính cách thị uy. Nhiều khi cách nói dài, nói to tiếng của chúng ta cho thấy sự bất an hay tự cao, tự hào của mình.
Uy quyền do quyền làm chủ
Ý niệm sai lầm này cho rằng việc thực thi uy quyền có thể được một cá nhân theo đuổi nó học tập hay tích luỹ mà có. Những người tin như thế sẽ dành nhiều thì giờ đọc sách và nghiên cứu các nguyên tắc quản lý và cầm quyền, tin rằng số kiến thức này sẽ đem đến cho họ quyền lực hay khả năng hành quyền trên tha nhân.
Nhiều khi ý niệm sai lầm này được đặt trên cơ sở là những gì mà một người đã mua hay được thừa kế. Người ấy có một ý thức rất thật rằng kẻ sở hữu là người có quyền. Tuy nhiên, nếu chỉ sở hữu suông, thì không thể bảo đảm cho uy quyền hữu hiệu - nhất là trong lãnh vực lãnh đạo thuộc linh. Bạn có thế lực do tiền bạc đem đến, nhưng điều đó không có nghĩa là bạn có quyền lãnh đạo hay quyền thuộc linh.
Uy quyền trên cơ sở ý muốn của đa số.
Niềm tin phổ biến này tiêu biểu cho đường lối “dân chủ” để làm mọi việc. Rắc rối là ở chỗ đầu phiếu cho một ai đó vào một địa vị có uy quyền tự nó, không đem uy quyền đến. Nếu có 100 người đầu phiếu bầu một lãnh tụ mà 51 người đầu phiếu thuận và 49 người đầu phiếu chống, thì người ấy được chọn. Thí dụ cá biệt này cho thấy sự nguy hiểm của phương pháp thiết lập uy quyền này.
Để bù trừ cho vấn đề này, nhiều tổ chức tôn giáo đòi đa số là hai phần ba khi tuyển chọn các cấp lãnh đạo. Điều này cũng không bảo đảm được cho một lãnh tụ thuộc linh đã được chọn hoặc uy quyền thuộc linh sẽ được thực thi.
Phương pháp này thường đặt cơ sở trên danh tiếng hay người được nhiều người biết rõ và có ít vấn đề nhất. Muốn sử dụng cách làm này, nhiều yếu tố khác phải được xét đến trước - đó là chỉ để thảo luận thật vắn tắt mà thôi. Rất có thể rằng đa số cũng sai lầm. Khi người ta không được đầy dẫy Thánh Linh, hay không sống một cuộc đời đạo đức tin kính, hoặc không đặt các ý kiến của mình trên cơ sở là các định chuẩn của Thánh Kinh, thì rất khó cho họ có được những quyết định đúng.
Uy quyền căn cứ trên sự thừa nhận.
Quan điểm này hàm chứa một chân lý hết sức quan trọng: Khi chẳng có ai đáp lại uy quyền của một cá nhân nào đó, thì sẽ có việc nghi ngờ đặt vấn đề về tài năng quản lý hay cai trị của người ấy. Nhưng việc không có người đáp ứng, không bảo đảm được rằng một người nào đó không phải là lãnh tụ.
Một người vợ phải phục quyền chồng, bất chấp người chồng có thực thi quyền ấy phải lẽ hay không. Điều này cũng nghiệm đúng với trách nhiệm của con cái đối với cha mẹ, người làm công đối với chủ, v.v.. Vấn đề có thể là do thái độ của những người ở dưới uy quyền ấy. Thành tích phục tùng trong quá khứ của họ cũng có thể ảnh hưởng đến cách đáp ứng lại với uy quyền của họ.
Nhiều cấp lãnh đạo trông mong những người dưới quyền họ bảo đảm cho địa vị và uy quyền của họ. Loại lãnh đạo này rất không an tâm và cứ tiếp tục như thế cho đến khi phát giác được cơ sở thật sự của uy quyền. Người ấy sẽ có khuynh hướng thoả hiệp và khoan dung những tình hình đáng lẽ không nên có chỉ vì không muốn xúc phạm đến những người dưới quyền mình, số người mà cách đáp ứng của họ bảo đảm cho uy quyền của ông ta.
Uy quyền căn cứ trên chức vụ hay tước vị.
Điều này đang chiếm thế vượt trội trong xã hội ngày nay, khiến người ta ngạc nhiên tự hỏi đến bao giờ thì nó mới bị bài trừ và chôn vùi. Nó khiến cho người ta mưu tìm một chút tước vị hay chức vụ nào đó để tự
Một chức vụ cao và phần trang hoàng
hoa mỹ cho nó thường được thiên hạ
cho là “quyền hành ”. Đây là điều dại dột
và không phải là uy quyền đích thực !
hào, do đó, tự cảm thấy mình quan trọng và có uy quyền. Nhưng tất cả các tước vị cao trong thế gian cũng không thể đem đến cho bạn thứ uy quyền mà Thượng Đế mô tả trong Lời của Ngài.
Trong thế giới kinh doanh ngày nay, “thăng quan tiến chức” là một yếu tố chủ chốt làm động cơ thúc đẩy người ta, nhất là khi được lương cao bổng hậu, và thêm vào đó là những món lợi lớn. Lắm khi chúng ta để cho những “chiếc nạng” đó chống đỡ mình và tin rằng mình có một mức độ quyền hành nào đó. Nhưng uy quyền đích thực vốn có cơ sở là những nguyên tắc khác hẳn.
Thỉnh thoảng có được nhiều tước vị tiêu biểu cho công tác mà một người đang thực hiện là quan trọng nhưng khi chúng bị lợi dụng để tạo cho người ta một ý thức về uy quyền, thì đó chỉ là một việc phí thì giờ mà thôi. Uy quyền đích thực không đến chỉ vì ban tặng cho ai đó một tước vị suông. Nó cũng không đến bằng loại văn phòng ông ấy có hay các vật dụng chung quanh ông ta. Tầm cỡ của một văn phòng hay sự trang trí tỉ mỉ của nó thường được người ta cho là “quyền hành”. Đây là điều dại dột và không phải là uy quyền đích thực!
Thật không phải là một ý dở nếu các ủy viên ban chấp hành nên chuyển đổi văn phòng để dạy nguyên tắc này. Cũng là ý hay khi một ủy viên chấp hành giao văn phòngï của mình cho một người có ít quyền hạn hơn để nhận một văn phòng nhỏ hơn. Nếu càng có nhiều ủy viên chấp hành chịu làm như thế, sẽ càng có ít vấn đề hơn trong các mối liên hệ giữa mọi người với nhau, và có nhiều sự hiểu biết hơn về thế nào là uy quyền đích thực. Có lẽ những người thiết kế các văn phòng (đặc biệt trong các tổ chức Cơ-đốc) phải làm cho chúng hoàn toàn giống nhau về kích thước và trang trí nội thất!
Nền Tảng Thật Sự Của Uy Quyền Thuộc Linh
Các uy quyền thuộc linh có cơ sở là các yếu tố mà chính Thượng Đế mặc khải trong Lời thành văn của Ngài. Tài năng để bạn có được ảnh hưởng lớn trên đời sống nhiều người khác vốn lệ thuộc các yếu tố này. Ảnh hưởng mà Thượng Đế muốn bạn có và thực thi đối với người khác vốn được xây dựng trên những gì của chính bạn, với tư cách một con người.
Danh tiếng của bạn là điều mà người khác nghĩ về bạn; bản tính của bạn là điều mà Thượng Đế biết về bạn. Càng có thể nói được nhiều hơn về các yếu tố này, chắc chắn bảng liệt kê này sẽ càng được thêm nhiều các yếu tố đó hơn. Mong rằng vài nguyên tắc sau đây sẽ hướng dẫn mọi người chúng ta vào sự hiểu biết đúng về uy quyền.
Vâng phục chính Thượng Đế.
Gia Gc 4:7 chép: “Hãy phục tùng Thượng Đế”. Câu 10 dạy: “Hãy hạ mình xuống trước mặt Chúa, thì Ngài sẽ nhắc anh em lên”. Con đường đi lên là con đường đi xuống! Khiêm hạ và phục tùng là nền tảng đích thực của uy quyền thuộc linh. Lượng uy quyền thuộc linh trong đời sống tỷ lệ thuận với thái độ khiêm hạ và phục tùng Thượng Đế và Lời Ngài của chúng ta.
Trên đường đi, cần phải có rất nhiều trắc nghiệm để thấy chúng ta phục tùng Thượng Đế như thế nào. Lắm lúc chúng ta sẽ gặp cám dỗ thoả hiệp hay vi phạm Lời Chúa vì một thú vui trong chốc lát hay một lợi lộc nào đó. Những lúc như thế là những chiếc chìa khoá của uy quyền thuộc linh mà chúng ta sẽ có được. Nếu chúng ta không thuận phục Thượng Đế, sẽ có rất nhiều khả năng những người dưới quyền chúng ta sẽ chẳng vâng phục chúng ta!
Một nếp sống đạo đức tin kính.
HeDt 13:7 chép: “Anh em hãy nhớ đến những người dìu dắt và truyền dạy Lời Chúa cho mình. Hãy nghĩ đến kết quả tốt đẹp của đời sống họ và học tập lòng tin Chúa của họ”. Cần lưu ý rằng cách những người theo các cấp lãnh đạo đáp ứng lại với những gì các cấp lãnh đạo nói, là căn cứ vào cách ăn ở của các cấp lãnh đạo ấy. Ýù niệm “Hãy thực hành điều bạn giảng” luôn luôn được Kinh điển nhấn mạnh. Các cấp lãnh đạo không được tin cậy và tôn trọng căn cứ vào nếp sống tin kính đạo đức sẽ có rất ít uy quyền thuộc linh trên đời sống người khác.
Phao-lô viết trong ITe1Tx 1:5 “Vì chúng tôi công bố Phúc Âm cho anh em, không phải với lời nói suông nhưng với quyền năng Thánh Linh và niềm tin quyết. Ngay nếp sống chúng tôi cũng giúp anh em hiểu rõ Phúc Âm”. Ông nói thêm:
“Lời chúng tôi truyền giảng không có gì sai quấy, xấu xa hay lười dối. Nhưng được Thượng Đế tín nhiệm uỷ thác, chúng tôi công bố Phúc Âm, không phải để thoả mãn thị hiếu quần chúng, nhưng để làm hài lòng Thượng Đế, Đấng dò xét lòng người. Anh em đã biết, chúng tôi chẳng bao giờ tâng bốc, cũng không dùng lời đường mật để che đậy lòng tham, Thượng Đế chứng giám cho lòng chúng tôi. Chúng tôi cũng không cầu mong anh em hay mọi người khen ngợi” (2:3-6).
Tình yêu thương của bạn dành cho các tín đồ.
Thiên hạ đáp ứng tốt hơn với uy quyền có tình yêu thương. Con cái đáp ứng uy quyền của cha mẹ khi chúng được trả lại bằng mối quan tâm do tình yêu thương. Sửa phạt mà không có tình thương có thể tạo ra sự nổi loạn chứ không phải là sự vâng phục. Trong 2:3-12 Phao-lô đề cập uy quyền và ảnh hưởng của ông giữa các tín hữu ở đấy. Để nêu rõ nét tương phản giữa nếp sống của ông với các động cơ thúc đẩy sai lầm của nhiều người khác, ông nói:
“Dù chúng tôi xứng đáng được vinh dự ấy, vì là sứ đồ của Chúa Cứu Thế. Nhưng chúng tôi đã sống giữa anh em cách dịu dàng như người mẹ âu yếm săn sóc con cái. Chúng tôi yêu mến anh em, sẵn lòng chia xẻ với anh em, không những Phúc Âm của Thượng Đế, nhưng luôn cả tâm hồn chúng tôi; vì anh em là người thân yêu của chúng tôi. Anh em cũng biết, chúng tôi đối xử với mỗi người trong anh em như cha với con”.( 2:7, 8, 11)
Mối quan tâm do tình yêu thương của bạn đối với tha nhân sẽ làm gia tăng uy quyền và ảnh hưởng của bạn trong đời sống của họ.
Tấm lòng của một người đầy tớ.
Chúa Giê-xu đề cập loại uy quyền mà các vua và các nhà cầm quyền người ngoại quốc sử dụng. Trong Mac Mc 10:42 Ngài đề cập đến thế nào họ “bắt dân phải phục mình”. Nhưng loại uy quyền thuộc linh của Ngài thì khác:
“Nhưng giữa các con không ai làm điều đó. Trái lại ai muốn làm lớn phải làm tôi tớ người khác. Ai muốn lãnh đạo, phải làm nô lệ mọi người. Các con nên theo gương ta, vì ta đến trần gian không phải để cho người phục vụ, nhưng để phục vụ người, và hy sinh tính mạng cứu chuộc nhiều người”.
Ước muốn và ý chí phục vụ tha nhân của chúng ta là chìa khoá của uy quyền thuộc linh của chúng ta. Các cấp lãnh đạo thuộc linh nên tìm cách khiến cho những người làm việc dưới quyền mình phục vụ càng hữu hiệu hơn. Phải phục vụ họ về mọi phương diện có thể làm được. Phải cố gắng biến các điều kiện và hoàn cảnh ảnh hưởng đến công tác của họ được lý thú càng nhiều càng tốt. Phải tạo cơ hội và thách thức họ tăng trưởng và phát triển công tác của mình mà không tìm cách triệt tiêu sự tăng trưởng ấy vì các lý do vị kỷ.
Các Phương Cách Để Có Được Uy Quyền
Uy quyền thuộc linh là loại uy quyền quan trọng nhất. Điều này không có nghĩa rằng các loại uy quyền khác là không quan trọng hay không có thật. Trong sinh hoạt vợ chồng, chồng là người cầm quyền. Đó là uy quyền có thật, nhưng không nhất thiết là uy quyền thuộc linh. Vợ phải đáp ứng lại với uy quyền của chồng mình, cả khi chồng không vâng lời Chúa (xem IPhi 1Pr 3:1-6). Tuy nhiên sự đáp ứng của người vợ và phước hạnh của người chồng sẽ càng tốt đẹp hơn nhiều khi uy quyền của người chồng cũng là uy quyền thuộc linh, có cơ sở là các nguyên tắc mà chúng tôi vừa nêu ở phần trên.
Thế thì, một người có thể có được uy quyền như thế nào? Các tư tưởng sau đây đều rất thực tế và nảy sinh trong lãnh vực của từng trải cá nhân. Chúng được thêm vào với những gì đã được đề cập liên hệ với uy quyền thuộc linh. Khi chúng ta được đặt vào những địa vị có uy quyền trong bất luận lãnh vực nào trong những lãnh vực đã kể trên hay về một phương diện nào trong số đó, chúng ta cần tìm cách để có được uy quyền thuộc linh trong mọi việc chúng ta làm và nói.
Bằng cách đưa ra các quyết định.
Khi bạn quyết định lấy vợ, thì bạn tự động trở thành người có uy quyền trong đời sống vợ chồng. Đây là một địa vị mà Thượng Đế đã thiết lập trước rồi. Khi bạn quyết định có con cái, bạn tự động có uy quyền của người làm cha. Khi bạn quyết định đệ đơn xin một việc làm và bạn được thu nhận, thì có một mức độ uy quyền nào đó kèm theo công việc mà bạn đã nhận được.
Bằng cách được người khác uỷ quyền.
Khi ông chủ của bạn giao quyền cho bạn, uy quyền ấy đến với bạn nhờ sự uỷ nhiệm. Sở dĩ bạn có quyền là vì uy quyền của người chủ. Cách bạn sử dụng nó sẽ xác định mức độ quyền hạn của bạn trong đời sống nhiều người khác, tuy nhiên, sở dĩ bạn có được một quyền hạn nào đó, là vì nó đã được uỷ thác cho bạn.
Bằng việc thiết lập một chức vụ.
Khi một người phát triển một công việc gì đó ngay từ đầu, thì nó là con đẻ của người ấy. Sở dĩ người ấy có uy quyền, vì đã cho nó ra đời. Người ấy phải có các quyết định để chuyển quyền ấy cho người khác. Đây là vấn đề “giành phần” trước. Người ấy có quyền ưu tiên đòi hỏi nơi chức vụ đó vì người ấy đã bắt đầu nó.
Khi muốn có việc chuyển quyền trong một tổ chức hay một chức vụ cá biệt nào đó mà không có sự đồng ý của người đã sáng lập nó, thì điều không thể tránh được là sẽ có nhiều vấn đề nảy sinh. Thà bắt đầu một tổ chức phục vụ mới, còn hơn thay đổi tổ chức phục vụ cũ mà không có sự tán thành của người đã bắt đầu nó.
Chân lý này áp dụng cho một tập thể cũng như cho từng cá nhân. Khi một tập thế thiết lập một tổ chức phục vụ hoàn toàn mới, rồi một nhóm khác đến, tìm cách thay đổi mọi việc, lập tức sẽ có xung đột, và có nhiều vấn đề sâu sắc về uy quyền. Các tổ chức có thể thay đổi khi có việc chuyển quyền thích hợp. Nếu không, phải thiết lập một tổ chức phục vụ mới.
Nhờ tài trợ.
Đây có thể là một vấn đề nguy hiểm về uy quyền. Tiền bạc không thể mua được quyền lực, cho dù chúng ta có muốn hay không. Một người lãnh đạo khôn ngoan sẽ làm đủ cách có thể để giữ cho những người tài trợ không lợi dụng điều này để chuyên quyền.
Nếu bạn dùng tiền của mình để mua một vật gì đó thì việc mua bán đó bảo đảm cho bạn một mức độ uy quyền trên đồ vậy ấy. Vấn đề ở đây liên hệ với nguyên tắc về tư sản. Nếu bạn mua một miếng đất thì nó thuộc về bạn, sau đó, bạn có quyền quyết định cho tương lai của nó.
Trong tổ chức phục vụ Cơ-đốc, các tín hữu phải cẩn thận trong vấn đề tài trợ cho công việc Chúa mà không đòi hỏi mình phải có quyền khi món tiền ấy của mình được sử dụng. Những đóng góp cho công tác từ thiện không thể có những ràng buộc nào cả.
Một tặng phẩm không phải là một đặc quyền để nắm giữ. Một tặng phẩm đặt căn bản trên tình yêu thương, chứ không phải là ước muốn cai trị kiểm soát một người khác, hay một tổ chức.
Nhờ từng trải cá nhân.
Nếu bạn có nhiều từng trải trong một lãnh vực phục vụ nào đó, bạn sẽ trông mong được tham khảo ý kiến về kinh nghiệm và chuyên môn. Bạn trở thành người có quyền vì biết rõ về những gì mình nói.
Điều này biến thành vấn đề khi từng trải của bạn trở thành tiếng nói sau cùng. Khi bạn không cởi mở đối với các ý kiến mới, kinh nghiệm trong quá khứ của bạn có thể chọc tức thiên hạ thay vì giúp ích cho họ. Những câu như: “Làm như thế không được đâu; chúng tôi đã thử điều đó trước đây rồi!” có thể gây nguy hại trầm trọng cho uy quyền của bạn trước mặt nhiều người khác.
Từng trải có thể tăng thêm uy quyền cho bạn khi bạn biết ứng dụng chúng vào các tình hình mới, khiến chúng trở thành các sáng kiến khôn ngoan và hữu ích. Kinh nghiệm quá khứ của bạn càng giúp ích được cho người ta trong hiện tại nhiều bao nhiêu, thì uy quyền của bạn sẽ càng lớn hơn bấy nhiêu.
Nên nhớ, uy quyền lớn nhất là uy quyền thuộc linh. Phải chắc chắn rằng loại uy quyền mà bạn đang chú trọng vào, là loại uy quyền tạo được nhiều kết quả thuộc linh và làm rạng danh Thượng Đế.
BẢNG KIỂM ĐIỂM CỦA NGƯỜI LÃNH ĐẠO
1. Bạn có thiết lập các mối liên hệ phải lẽ với Thượng Đế, như nguồn gốc tối hậu của uy quyền không? Hãy mô tả bạn thấy việc ấy xảy ra như thế nào?
2. Tùng phục uy quyền của Thượng Đế có phải là một vấn đề trong đời sống của bạn không?
3. Xem lại đoạn “Các ý niệm sai lầm về uy quyền”. Bạn có nhận thấy có vấn đề nào trong số đó cũng là một vấn đề trong đời sống của bạn không? Có những vấn đề nào mà bạn cần phải chú ý ngay tức khắc?
4. Trên thang điểm từ 1 đến 10, bạn cho điểm việc bạn thuận phục Thượng Đế như thế nào?
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
Phản loạn
5. Trên thang điểm từ 1 đến 10 bạn cho điểm nếp sống đạo đức tin kính của mình như thế nào?
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
Nếp sống theo đời
6. Bạn có thật sự yêu thương những người mà mình lãnh đạo không? Họ có thể nói như thế nào?
7. Bạn sẵn sàng làm tôi tớ cho người khác đến mức độ nào?
8. Xem lại đoạn “Các phương pháp để có được uy quyền” nếu bạn đang có địa vị có quyền, bạn đã đạt được địa vị ấy như thế nào?
9. Bạn có dành vinh quang cho Thượng Đế khi có nhiều kết quả thuộc linh không?
CÁCH ĐÁP ỨNG VỚI UY QUYỀN
Có thể nêu ra rất nhiều lý do cho thấy tại sao đáp ứng lại với uy quyền của một người lãnh đạo là một việc rất khó khăn. Liệt kê các khó khăn ấy là việc đặc biệt dễ dàng khi chúng ta không thích trực diện với trách nhiệm phải đầu phục và đáp ứng lại với uy quyền. Chẳng hạn như, khi một người lãnh đạo:
1. Cố tìm cách đàn áp và hù doạ bạn.
2. Muốn mình phải luôn luôn đúng.
3. Muốn lợi dụng và lạm dụng bạn tuỳ ý ông ta.
4. Chẳng quan tâm gì đến những gì xảy ra cho bạn.
5. Tin rằng các chức vụ tưởng tượng, lương cao bổng hậu, và các tước vị nghe ra rất quan trọng đem đến cho người ta uy quyền và sự kính trọng.
6. Chẳng bao giờ tỏ ý tán thành những gì bạn đã làm.
7. Không biết tên của bạn
8. Cướp công của người khác.
9. Tây vị và kỳ thị.
10. Nói dối với bạn và lường gạt người khác.
Bảng liệt kê có thể được kéo dài thêm. Nhiều cấp lãnh đạo không đáng được những người làm việc dưới quyền hay làm việc cho họ sẵn lòng thuận phục. Nhưng đó có phải là một lý do hay lời biện minh cho việc bạn đáp ứng kém đối với uy quyền của họ không?
An đã trải qua một giai đoạn khó khăn trong công việc. Chủ anh luôn luôn đe doạ anh, và dường như An cũng không thể làm vui lòng chủ trong các dự án mà anh được giao cho làm. Anh ấp ủ một tinh thần cay cú đối với chủ và bắt đầu chê bai chỉ trích ông ta. Bằng những biện pháp nhỏ, có khi lớn nữa, anh bộc lộ thái độ nổi loạn của mình. Ngày đáng sợ đã đến. Hôm ấy là chiều thứ sáu, ngày điển hình để những ông chủ cho một người làm thôi việc.
An rất ngạc nhiên, không phải vì mình bị đuổi, mà vì chủ anh đối chất anh về cái gọi là sự thuận phục Cơ-đốc của anh, và nhắc nhở anh về lời truyền dạy của Thánh Kinh là phải tùng phục uy quyền. Ông chủ bảo nếu anh không chịu thay đổi thái độ, anh sẽ cứ tiếp tục gặp rắc rối bất luận anh đi làm ở đâu.
An rất ngạc nhiên vì anh không hề nghĩ rằng ông chủ của mình lại có chút liên hệ gì với Cơ-đốc giáo hay bất cứ một kiến thức nào về lời truyền dạy của Thánh Kinh. May cho An, là anh đã nhận được một số lời khuyên của một bạn thân là Cơ-đốc nhân, và bắt đầu nhìn thấy vấn đề phải thuận phục uy quyền, vì nó đang ảnh hưởng đến đời sống và các thái độ của anh.
Thánh Kinh Dạy Gì Về Sự Thuận Phục?
Uy quyền vốn đến từ Thượng Đế. Ngài không luôn khen ngợi các hành động của người cầm quyền, nhưng Ngài tôn trọng địa vị cầm quyền và đòi hỏi các tín hữu cũng phải làm giống như thế. Vấn đề được đưa ra khá mạnh mẽ trong RoRm 13:1-7
“Mọi người phải vâng phục chính quyền vì chẳng có chính quyền nào không do Thượng Đế thiết lập. Vậy ai chống chính quyền là chống lại mệnh lệnh Thượng Đế và sẽ bị hình phạt. Nhà cầm quyền không khiến cho người lương thiện kinh hãi, nhưng người gian ác phải lo sợ. Muốn khỏi sợ hãi nhà cầm quyền, anh em cứ làm điều ngay thẳng, và họ sẽ khen ngợi anh em. Họ là những người Thượng Đế sai phái để giúp anh em làm điều thiện; nhưng nếu anh em làm điều ác, hãy lo sợ, vì không thể trốn tránh hình phạt. Thượng Đế dùng họ để phạt kẻ làm ác. Vậy phải vâng phục chính quyền, chẳng những để khỏi bị hình phạt nhưng cũng vì lương tâm. Do đó, anh em nộp thuế, vì nhà cầm quyền phục dịch Thượng Đế khi họ thi hành nhiệm vụ. Phải trả hết mọi thứ nợ: trả thuế cho nhân viên thuế vụ, nộp quan thuế cho nhân viên quan thuế, kính sợ người đáng kính sợ, tôn trọng người đáng tôn trọng”.
Thánh Kinh dạy rõ ràng: “Mọi người phải vâng phục chính quyền”. Phao-lô còn viết: “Hãy nhắc nhở các tín hữu phải vâng phục nhà cầm quyền, tuân lệnh họ và sẵn sàng làm mọi viện thiện. Đừng nói xấu, tranh chấp, nhưng phải hiền hoà, nhã nhặn với mọi người” (Tit Tt 3:1, 2). Và IPhi 1Pr 2:13-17 cũng hàm chứa cùng một bức thông điệp ấy:
“Vì danh Chúa, anh em hãy vâng phục mọi luật lệ Nhà nước, dù là luật của Quốc hội, Chủ tịch Nhà nước, hay luật của các nhà chức trách địa phương vì họ được uỷ nhiệm để trừng phạt kẻ làm ác và tôn trọng người làm lành. Thượng Đế muốn anh em sống cuộc đời lương thiện để làm câm miệng những kẻ dại dột thường lên án Phúc Âm mà không biết quyền năng Phúc Âm có thể đem lại cho họ bao nhiêu hạnh phúc. Anh em đã thoát khỏi vòng kiềm toả của luật Mai-sen; như thế không có nghĩa là anh em được tự do làm điều quấy. Hãy sống như người tự do để luôn luôn làm theo ý muốn Thượng Đế”.
Một lần nữa, chúng ta phải “vâng phục” chính quyền, cả vì đó là những người được địa vị cầm quyền do nhà vua ban xuống cho những người thực hiện các chủ đích của mình, cũng như theo luật pháp và thể
Vâng phục sẽ được Thượng Đế ban thưởng ....
Tuy chẳng có ai khác thấy được thái độ
sẵn lòng vâng phục uy quyền (các nhà cầm quyền )
của bạn , nhưng Thượng Đế thấy .
chế mà các nhà cầm quyền đã được thiết lập. Nộp thế, tôn trọng các cấp lãnh đạo vâng phục nhà cầm quyền - bức thông điệp thật rõ ràng.
Ngoại lệ duy nhất là khi người cầm quyền vi phạm uy quyền của Thượng Đế. Theo Cong Cv 5:29 Phi-e-rơ và các sứ đồ khác đã chống lại và nhận chịu mọi hậu quả khi bị người cầm quyền cấm đoán bảo các vị bất tuân lời chỉ giáo rõ ràng của Thượng Đế. Các vị nói: “Chúng tôi phải vâng lời Thượng Đế hơn vâng lời loài người”.
Phục tùng là một nguyên tắc chỉ đạo mọi lãnh vực của đời sống chúng ta. Trong hôn nhân, vợ chồng phải thuận phục lẫn nhau, vợ phải phục tùng chồng, và chồng phải phục tùng vợ (Eph Ep 5:21-23; CoCl 3:18). trong gia đình, con cái được truyền dạy phải vâng phục cha mẹ, và làm như thế là phải, và đẹp lòng Chúa (Eph Ep 6:1-2; CoCl 3:20). Các tín hữu được dạy phải vâng phục các cấp lãnh đạo trong Hội thánh (HeDt 13:17), cũng như ngoài xã hội.
Thuận phục là thừa nhận rằng các nhà cầm quyền đều do Thượng Đế sắp xếp và vâng lời cũng là vì lý do ấy, cả khi bạn cho rằng các nhà cầm quyền có sai lầm. Nếu các nhà cầm quyền không vi phạm uy quyền của Thượng Đế, chúng ta phải vâng phục họ cả khi chúng ta không nhất trí với họ. Vâng phục và đáp ứng với nhà cầm quyền (uy quyền) vốn không phải là khuynh hướng tự nhiên của chúng ta. Chúng ta vẫn tưởng rằng mình đúng hoặc có một cách làm mọi việc tốt hơn. Chúng ta thắc mắc đặt vấn đề, thách thức, chê bai chỉ trích, chống trả và nổi loạn. Bản tính của chúng ta là muốn làm như thế. Chúng ta cần được Đức Thánh Linh cai trị kiểm soát.
Tại Sao Chúng Ta Lại Vâng Phục Nhà Cầm Quyền.
Chỉ một lý do là vì Chúa truyền dặn như thế. Nếu chúng ta yêu mến Ngài, thì phải giữ các điều răn (lệnh truyền) của Ngài (xem GiGa 14:15). Các lý do tiếp sau đây cũng đều xuất phát từ việc vâng theo lệnh truyền của Chúa. Nếu chúng ta không hiểu “tại sao”, chúng ta vẫn phải vâng lời Thượng Đế, tin cậy Ngài trọn vẹn về các lý do và kết quả.
Điều đó đẹp lòng Chúa.
Vâng lời cha mẹ là lệnh Thượng Đế truyền cho những người làm con - vì ‘điều đó đẹp lòng Chúa” (CoCl 3:20). Vợ được dạy phải thuận phục chồng, vì “theo đúng bổn phận của người tin Chúa” (3:18). Thuận phục là cách ăn ở cư xử đạo đức tin kính, phản ảnh quyền kiểm soát của Chúa trên đời sống chúng ta và do đó mà Ngài được tôn trọng.
Điều đó là đúng.
Eph Ep 6:1 dạy con cái phải vâng lời cha mẹ vì “đó là điều phải”. Thượng Đế xác định điều gì là phải, là đúng. Chúng ta chẳng cần gì phải bàn bạc hay tranh luận. Chúng ta phải làm điều phải, bất chấp chúng ta nghĩ gì, cảm thức hoặc ước muốn điều gì.
RoRm 13:5-7 dạy chúng ta rằng một trong các lý do khiến chúng ta phải vâng phục nhà cầm quyền, là vì “lương tâm”. Chính vì thế mà chúng ta nộp thuế để ủng hộ các nhà cầm quyền. Vì Thượng Đế đã truyền dạy chúng ta phải làm như thế, và vì đó là điều phải làm, cho nên chúng ta phải vâng lời để có được một lương tâm trong sạch - và điều này gồm luôn việc phải nộp các sắc thuế của chúng ta!
Vâng phục sẽ được sống lâu và hạnh phúc.
Eph Ep 6:3 dạy những người làm con rằng sự vâng lời của họ được kèm theo một lời hứa: “Nhờ đó con mới được phúc và sống lâu trên đất”.
Điều đó giúp chúng ta khỏi phải gặt hái các hậu quả nghiêm trọng.
RoRm 13:4-5 vạch rõ rằng nếu chúng ta làm ác và chống lại nhà cầm quyền, thì Thượng Đế ban cho nhà cầm quyền các quyền hình phạt, vì “Thượng Đế dùng họ để phạt kẻ làm ác”. Do đó, chúng ta được chỉ giáo phải vâng phục nhà cầm quyền “để khỏi bị hình phạt”.
Điều đó bảo vệ cho lời chứng của Đạo.
Tit Tt 2:5 dạy “vợ phải...tùng phục chồng, hầu cho Đạo Thượng Đế không bị xúc phạm”. Thánh Kinh dạy rõ ràng rằng người vợ phải vâng phục chồng. Nếu không làm như thế, thì cách ăn ở của người vợ khiến cho Đạo (Lời) Chúa bị mất tín nhiệm và bị chê bai. Trong 2:9 cũng dạy kẻ tôi tớ phải “vâng phục chủ trong mọi việc”, và lý do đưa ra là ‘để làm cho tôn quý Đạo Đức Chúa Trời, là Cứu Chúa chúng ta trong mọi đường”.
Phục tùng là ý chỉ của Thượng Đế.
Phi-e-rơ làm sáng tỏ điểm này trong IPhi 1Pr 2:5 “Anh em cũng đã trở thành những hòn đá sống, được Thượng Đế dùng xây nhà Ngài. Hơn nữa, anh em còn làm thầy tế lễ thánh, nên hãy nhớ Chúa Cứu Thế Giê-xu, dâng lên Thượng Đế những lễ vật đẹp lòng Ngài”. Thiên hạ vẫn hay bới lông tìm vết để chê bai nếp sống của người tín hữu. Nếu họ thù ghét Chúa Giê-xu, thì bạn cũng phải biết là họ cũng sẽ thù ghét chúng ta nữa (GiGa 15:18-21). Khi chúng ta phục tùng nhà cầm quyền, họ sẽ phải im lặng; họ chẳng có gì để chê bai hay công kích chúng ta.
Về phần các tôi tớ, Eph Ep 6:5 dạy: “tôi tớ phải vâng lời chủ...hết lòng làm theo ý muốn Thượng Đế”. Ý chỉ Thượng Đế là muốn chúng ta phải đầu phục, mà đầu phục với thái độ tận tuỵ và sự ao ước từ bên trong, chứ không phải chỉ là việc tuân thủ mặt ngoài mà thôi.
Vâng phục giúp đem người khác đến với Chúa
IPhi 1Pr 3:1-6 cho chúng ta một sự dạy dỗ tuyệt hảo liên quan đến việc thuận phục của vợ đối với người chồng không vâng theo Lời Chúa. Bà có thể đem chồng về với Chúa không bằng lời nói nhưng bằng sự thuận phục của mình. Thượng Đế gọi đó là “phẩm chất không phai tàn của tâm hồn dịu dàng, bình lặng, đó là thứ trang sức quí giá đối với Thượng Đế” (câu 4). Sự thuận phục “trang sức” hay “làm đẹp” con người và làm cho hấp dẫn.
Điều đó khiến ta được phúc lành của Thượng Đế.
“Các bạn thanh niên hãy vâng phục quyền lãnh đạo của những bậc phụ lão. Tất cả các bạn hãy phục vụ nhau với tinh thần khiêm nhường, vì Thượng Đế ban phúc lành cho người khiêm nhường nhưng chống nghịch kẻ kiêu căng” (5:5).
Đây là thái độ khiêm nhường để tùng phục người khác, nhưng Thượng Đế sẽ đề cao bạn. Thượng Đế sẽ ban “phúc lành” đặc biệt cho những người biết khiêm tốn hạ mình.
Đầu phục sẽ được Chúa ban thưởng.
Sứ đồ Phao-lô viết:
“Tôi tớ phải vâng lời chủ, thành thật kính sợ vâng phục chủ như vâng phục Chúa Cứu Thế. Không phải chỉ lo làm vừa lòng chủ khi có mặt, nhưng luôn cố gắng phục vụ chủ như phục vụ Chúa Cứu Thế, hết lòng làm theo ý muốn Thượng Đế. Phải tận tâm phục vụ như tôi tớ của Chúa, chứ không phải của người ta. Nên nhớ Chúa sẽ tưởng thưởng mọi người tuỳ theo việc tốt lành họ làm, vô luận tớ hay chủ” (Eph Ep 6:5-8)
Thượng Đế sẽ ban thưởng cho người biết tùng phục - “Chúa sẽ tưởng thưởng” người ấy. Tuy chẳng có ai khác nhìn thấy bạn vâng phục nhà cầm quyền, Thượng Đế vẫn nhìn thấy. CoCl 3:22-25 cho thấy cùng cái nhìn xuyên suốt đó.
“Tôi tớ phải luôn luôn vâng phục chủ. Không phải chỉ lo làm đẹp lòng chủ khi có mặt, nhưng phục vụ với tấm lòng chân thành và tôn kính Chúa. Làm việc gì cũng nên tận tâm như làm cho Chúa chứ không phải cho người. Đừng quên Chúa sẽ tưởng thưởng anh em phần cơ nghiệp xứng đáng. Vì Chúa Cứu Thế mới thật là Chủ của anh em. Nếu anh em không tận tâm, Chúa sẽ báo trả, Ngài không hề thiên vị”
“Đừng quên Chúa sẽ tưởng thưởng anh em”. Sẽ có ngày chúng ta được nghe Chúa phán: “Tốt lắm con rất ngay thật trung thành”. Đề cập ngày tái lâm của Ngài, Chúa chúng ta hứa: “Này ta sẽ sớm đến, đem theo phần thưởng...” (KhKh 22:12).
Vâng Phục Nhà Cầm Quyền Như Thế Nào
Có hai từ ngữ mô tả việc đó: vâng lời và làm. Như chúng ta đã thấy, trong CoCl 3:22, tôi tớ (nô lệ, người làm công) được dạy phải vâng lời chủ. Điều này bao hàm “mọi sự”. Chẳng có gì được chừa lại cả. Chúng ta được dạy: “Làm việc gì cũng nên tận tâm như làm cho Chúa chứ không phải cho người”. Các thái độ của chúng ta đều rất quan trọng.
Về mặt tiêu cực, chúng ta được cảnh cáo không nên làm việc để làm đẹp lòng người ta, làm việc bởi vì chúng ta bị trông chừng và theo dõi. Tiếng tốt của chúng ta là điều người khác nghĩ về chúng ta; bản tính của chúng ta là điều mà Thượng Đế biết chúng ta vốn có. Bản tính của chúng ta được nhận biết rõ ràng hơn trong bóng tối, khi chẳng có ai chung quanh hay sẽ chẳng bao giờ có ai biết cả. Đó chính là con người thật của chúng ta.
Về mặt tích cực, chúng ta phải làm việc với “lòng chân thật”. Từ chân thật trong Hi-văn có nghĩa là “đơn” tương phản với từ ngữ “đôi”. Nó có nghĩa là chúng ta không nên có một ẩn ý nào khác; chúng ta không nên đạo đức giả. Chúng ta chỉ có một chủ đích và ước muốn duy nhất, là tôn vinh Thượng Đế bằng cách tùng phục trong việc chúng ta làm và đối với người có quyền trên chúng ta. Tận tâm vì chúng ta tận hiến cho Chúa. Chúng ta đang phục vụ Chúa, chứ không phải chỉ phục vụ những người cầm quyền trên chúng ta mà thôi.
BẢNG KIỂM ĐIỂM CỦA NGƯỜI LÃNH ĐẠO
1. Tại sao một số người chống lại uy quyền?
2. Hãy liệt kê vài lý do khiến một số người có địa vị có uy quyền không xứng đáng cho những người làm việc cho họ hoặc dưới quyền họ phải đầu phục.
3. Bạn có thể nêu ra các lý do nào để chúng ta phải vâng phục nhà cầm quyền?
4. Tại sao vâng phục nhà cầm quyền là ý chỉ của Thượng Đế?
5. Một người có thể “làm cho tôn quí đạo Đức Chúa Trời” như thế nào?
6. Hãy liệt kê các phương pháp theo đó bản thân bạn có thể chứng minh rằng mình vâng phục nhà cầm quyền.
7. Hãy mô tả các thái độ của bạn trong việc nộp thuế, và cách bạn có thể làm để càng được đẹp lòng Chúa hơn.
8. Khi vâng phục nhà cầm quyền, thì đâu là một số những điều nên tránh?
9. Khi nào thì chống lại uy quyền của loài người là đúng?
space� 5*o.e.. j..�h.e='mso-bidi-font-weight:normal'>ƯU TIÊN CHỦ YẾU
Như chúng ta đã thấy, động đơ thúc đẩy là điều hệ trọng đối với các cấp lãnh đạo. Chúng ta biết là cần phải có các động cơ thúc đẩy để sống tin kính trong mọi phương diện.
Động Cơ Thúc Đẩy Cao Nhất
ICo1Cr 10:31 dạy chúng ta “làm mọi việc anh em phải nhắm mục đích tôn vinh Chúa”. Ưu tiên chủ yếu của mỗi người lãnh đạo là tôn vinh Thượng Đế trong tư tưởng, lời nói và việc làm của chúng ta.
Thi Tv 29:1-2 chép: “Hỡi các con của Đức Chúa Trời, hãy tôn vinh Đức Giê-hô-va vinh hiển và quyền năng. Hãy tôn vinh Đức Giê-hô-va vinh hiển xứng đáng cho danh Ngài; hãy mặc trang sức thánh mà thờ lại Đức Giê-hô-va”. 96:7-9 nhắc lại lời răn bảo đó, còn 115:1 dạy thêm: “Hỡi Đức Giê-hô-va nhơn vì sự nhơn từ và sự chơn thật Ngài, sự vinh hiển chớ về chúng tôi, chớ về chúng tôi, bèn là đáng về danh Ngài”.
Sự vinh hiển thuộc về Chúa. Đặc tính của Thượng Đế xứng đáng được như thế. Cõi thọ tạo của Ngài cũng đòi hỏi chúng ta tôn vinh Ngài, như Thánh Kinh vạch rõ trong KhKh 4:9-11
“Mỗi khi các sinh vật tôn vinh, tung hô và cảm tạ Đấng ngồi trên ngai, là Đấng hằng sống đời đời, thì hai mươi bốn trưởng lão quỳ xuống trước mặt Ngài, thờ lạy Ngài, vứt mũ miện trước ngai và ca ngợi: Lạy Chúa là Thượng Đế của chúng con, Chúa đáng nhận vinh quang, vinh dự và uy quyền. Vì Chúa đã sáng tạo vạn vật. Do ý muốn Chúa, muôn vật được dựng nên và tồn tại”.
Thi Tv 19:1 “Bầu trời phản ánh vinh quang, không gian phô diễn tài năng Chúa Trời”. Khi loài người quan sát những điều kỳ diệu của công trình sáng tạo mà không tôn trọng và tôn vinh Thượng Đế, thì họ “không còn lý do chữa tội” (RoRm 1:20-23). Những điều “không thấy được” của Thượng Đế được nhìn thấy rõ bởi những gì Ngài đã tạo dựng.
Trong công trình sáng tạo của Thượng Đế, chúng ta nhận thấy vinh quang, quyền năng của bản tính đời đời của Ngài. Nếu chúng ta không đề cao và tôn vinh Thượng Đế và dâng lên Ngài sự cảm tạ, nhưng lại chuyển sự vinh hiển của Thượng Đế không hư hoại thành một phát minh của đôi tay thì thật đáng nhận cơn thịnh nộ và sự phán xét của Ngài. Chúng ta sẽ không còn lý do để tự bào chữa nữa.
Chúng Ta Có Thể Tôn Vinh Thượng Đế Như Thế Nào?
Nhưng thật ra, chúng ta có thể tôn vinh Thượng Đế như thế nào? Nếu đó là ưu tiên chủ yếu của các cấp lãnh đạo thuộc linh thì nó phải được thực hiện thế nào?
Thượng Đế được tôn vinh vì chúng ta được cứu rỗi.
Chẳng cần làm gì cả nhưng chỉ tin Phúc Âm mà thôi, là chúng ta đã tôn vinh Thượng Đế rồi! Tại sao thế? Chỉ vì một điều: nó đề cao ân sủng của Thượng Đế điều đã khiến cho mọi việc đó có thể có được. Phao-lô tiết lộ sự kiện quan trọng này về sự cứu rỗi của chúng ta:
“Trước khi sáng tạo trời đất, Thượng Đế đã chọn chúng ta trong Chúa Cứu Thế để thánh hoá chúng ta đến mức toàn hảo trước mặt Ngài. Do tình yêu thương, Thượng Đế đã hoạch định chương trình cho Chúa Cứu Thế Giê-xu xuống đời nhận chúng ta làm con cái Ngài, theo hảo tâm, thiện ý của Ngài. Chúng ta nên ca ngợi Thượng Đế về ân phúc Ngài ban cho chúng ta, vì chúng ta thuộc về Con yêu dấu của Ngài”. (Eph Ep 1:4-6).
Ân sủng Thượng Đế sở dĩ được tôn vinh khi chúng ta được cứu, bởi vì Ngài cứu chúng ta trên cơ sở là chính quyền chọn lựa tể trị của Ngài,
Thượng Đế muốn sử dụng chúng ta nhiều hơn
là chúng ta muốn mình được sử dụng .
chứ không phải do giá trị cá nhân hay công đức với tư cách là con người của chúng ta. 2:8-9 cho thấy chúng ta được cứu là bởi ân sủng của Thượng Đế, chứ không phải là do công đức của chính chúng ta.
Sự cứu rỗi của chúng ta cũng tôn vinh Thượng Đế vì chúng ta sở dĩ được cứu là bởi quyền năng Ngài, chứ không phải là nhờ chính tài năng của chúng ta. Phao-lô viết: “Chúng tôi đựng bảo vật này trong bình đất - là thân thể chúng tôi. Vậy quyền năng vô hạn ấy đến từ Thượng Đế chứ không do chúng tôi” (IICo 2Cr 4:7).
“Bảo vật” là “ánh sáng...giúp chúng tôi hiểu được vinh quang Thượng Đế sáng rực trên gương mặt Chúa Cứu Thế” (c.6). Nó được đựng trong các bình bằng đất tự chúng vốn chẳng có giá trị bao nhiêu, nhưng sở dĩ có giá trị là nhờ có bảo vật ở bên trong. Câu Kinh Thánh cho thấy phía sau mọi điều đó, là quyền năng của Thượng Đế. Thượng Đế được tôn vinh và tôn trọng, vì chỉ có quyền năng Ngài mới cứu được chúng ta, chứ không phải là chính tài năng của chúng ta. Chúng ta không làm gì cả để được trả công hay để xứng đáng được Thượng Đế cứu mình.
Thượng Đế cũng được tôn vinh do chúng ta được cứu, bởi vì việc ấy đề cao Con Ngài, là Chúa và là Cứu Chúa Giê-xu của chúng ta. Phi Pl 2:9-11 đã dạy rất rõ vấn đề này:
“Chính vì thế Thượng Đế đưa Ngài lên đến tội đỉnh. Ban cho Ngài danh vị cao cả tuyệt đối. Để dù ai ở trên trời, dưới đất. Hay dưới vực thẳm không gian. Mỗi khi nghe Danh Chúa Giê-xu. Tất cả đều quỳ gối tung hô. Tuyên xưng Ngài là Chúa tể vũ trụ. Và tôn vinh Thượng Đế là Cha”.
Thượng Đế được tôn vinh khi “mọi đầu gối” đều quỳ xuống và “mọi lưỡi” đều “tôn xưng”. Khi Chúa Cứu Thế được thừa nhận là Vua các vua và Chúa các chúa, thì Đức Chúa Cha được tôn trọng và tôn vinh. Chúa Giê-xu phán: “Con đã làm rạng rỡ vinh quang Cha trên đất hoàn tất mọi việc Cha uỷ thác” (GiGa 17:4). Chúa Giê-xu đã tôn vinh Cha Ngài, và Cha Ngài được tôn vinh khi Chúa Giê-xu được đề cao.
Chúng ta tôn vinh Chúa bằng sự thanh sạch đạo đức
ICo1Cr 6:18-20 chép thật mạnh mẽ:
“Hãy tránh gian dâm! Tội nào cũng còn ở ngoài thân thể; nhưng gian dâm là phạm ngay vào thân thể mình. Anh em không biết thân thể anh em là đền thờ Thánh Linh, và Ngài đang sống trong anh em sao? Thượng Đế đã ban Thánh Linh cho anh em nên anh em không con thuộc về chính mình nữa. Anh em đã được Thượng Đế chuộc với giá rất cao nên hãy dùng thân thể tôn vinh Ngài”.
Khi các cấp lãnh đạo tránh xa tội lỗi do tính dục, họ tôn vinh Thượng Đế trong thân thể mình. Thân thể chúng ta là công cụ để sử dụng cho việc lành, chứ không phải để làm ác. Phao-lô đã truyền cho Ti-mô-thê lời chỉ giáo quan trọng này:
“Nhưng nền tảng Thượng Đế đã đặt vẫn vững như bàn thạch. Trên nền tảng ấy ghi những lời: “Chúa biết người thuộc về Ngài” và: “Người kêu cầu Danh Chúa phải tránh điều gian ác”. Trong một ngôi nhà sang trọng, ngoài dụng cụ bằng vàng, bằng bạc cũng có dụng cụ bằng đất, bằng gỗ. Thứ dùng vào việc sang, thứ dùng vào việc hèn. Vậy người nào luyện mình cho tinh khiết sẽ như dụng cụ quý được dành cho Chúa, sẵn sàng làm việc lành. Con phải tránh dục vọng tuổi trẻ. Hãy hợp tác với người có lòng trong sạch, tin kính Chúa để theo đòi sự công chính, đức tin, yêu thương và bình an”. (ITi1Tm 2:19-22)
Tính cách hữu dụng và “năng suất” của đời sống một người lãnh đạo thuộc linh có liên quan với sự thanh sạch đạo đức. Thượng Đế muốn sử dụng chúng ta nhiều hơn là chúng ta muốn mình được sử dụng. Việc chúng ta sẵn sàng để Chúa sử dụng mình, phải được kết hợp với việc dấn thân xa lánh tội về tình dục. Nếu chúng ta không chịu làm như thế, Thượng Đế sẽ hạn hẹp tính cách hữu dụng của chúng ta.
Chúng ta tôn vinh Thượng Đế bằng lời ca tụng và cầu nguyện.
Chúa Giê-xu phán trong GiGa 14:13 “Các con nhân danh ta cầu xin bất cứ điều gì, ta sẽ làm cho để Cha được tôn vinh”. Trong 15:7-8, Chúa Giê-xu dạy chúng ta: “Nếu các con tiếp tục ở trong ta và lời ta ở trong các con, các con muốn xin gì được nấy. Các con kết nhiều quả, tỏ ra xứng đáng làm môn đệ ta, là các con đem vinh quang về cho Cha ta”.
Thi Tv 50:23 chép: “Kẻ nào dâng sự cảm tạ làm của lễ, tôn vinh ta”. Trong LuLc 17:11-19 qua câu chuyện chữa lành cho mười người cùi, Chúa Giê-xu dạy chúng ta về tầm quan trọng của việc tôn vinh và ca ngợi Thượng Đế. Tuy tất cả đều được chữa lành, chỉ có một người quay lại tôn vinh và tạ ơn Thượng Đế mà thôi. Ông ta là một người Sa-ma-ri. Chúa Giê-xu hỏi: “Ta chữa lành mười người tất cả, còn chín người kia đâu? Chỉ có người nước ngoài này trở lại tạ ân Thượng Đế sao?” (cc.17,18).
Thượng Đế được tôn vinh khi chúng ta ca tụng và tạ ơn Ngài vì chính Ngài, và vì tất cả những gì Ngài đã làm. Lời ca tụng phải luôn luôn có trên môi miệng tín hữu, huống chi trên môi miệng các cấp lãnh đạo thuộc linh của chúng ta, chúng còn phải có nhiều hơn biết bao!
Nếu ưu tiên chủ yếu là tôn vinh Thượng Đế, thì làm sao điều này có thể thành tựu được trong đời sống người lãnh đạo nếu người ấy chỉ dành quá ít thì giờ cho sự cầu nguyện và ca ngợi? Nguyện Chúa giúp chúng ta thấu hiểu những gì tôn vinh Ngài.
Thượng Đế được tôn vinh bằng các việc lành
Chúa Giê-xu phán:
“Các con là muối của nhân loại; nếu các con đánh mất phẩm chất của mình, làm sao lấy lại được? Các con sẽ trở thành vô dụng, bị vất bỏ và chà đạp như muối hết mặn. Các con là ánh sáng của thế giới, như một thành phố sáng rực trên đỉnh núi cho mọi người nhìn thấy trong đêm tối. Không ai thắp đèn rồi đậy kín, nhưng đem đặt trên giá đèn để soi sáng mọi người trong nhà. Cũng thế, các con phải soi sáng cho mọi người, để họ thấy việc làm tốt đẹp của các con và ca ngợi Cha các con trên trời”.
Các việc làm tốt đẹp của chúng ta tôn vinh Cha chúng ta trên trời. Chúng ta là “muối” và “ánh sáng” của thế gian này. Đời sống của chúng ta phải là những tấm gương sáng cho người khác nhìn thấy - đó là chủ đích của Thượng Đế. Ngài được tôn vinh khi chúng ta vì Ngài mà chiếu sáng!
Chúng ta tôn vinh Thượng Đế khi vì Ngài mà chịu khổ.
IPhi 1Pr 4:12-16 cho thấy chúng ta có thể tôn vinh Thượng Đế như thế nào khi chịu đựng những khó khăn hiện tại:
“Anh em thân yêu, gặp hoạn nạn thử thách, anh em đừng hoang mang, bỡ ngỡ như gặp phải một việc khác thường. Trái lại, hãy vui mừng, vì nhờ thử thách anh em được chia xẻ sự đau khổ với Chúa Cứu Thế, để rồi đến khi Ngài trở lại, anh em sẽ vui mừng tột bực, đồng hưởng vinh quang với Ngài. Khi bị chửi rủa nhục mạ vì Danh Chúa Cứu Thế, anh em được phúc lành bởi Thánh Linh vinh quang của Thượng Đế đang ngự trên anh em,. Đấng chịu khổ như kẻ giết người, trộm cắp, gây rối, hay quấy phá việc người khác. Nhưng nếu chịu khổ vìlàm môn đệ Chúa thì chẳng có gì phải hổ thẹn. Hãy tạ ân Thượng Đế vì mình được mang Danh Chúa”.
Lẽ dĩ nhiên, những người chịu chết vì chính nghĩa của Chúa Cứu Thế, đã tôn vinh Thượng Đế. Lúc Chúa Giê-xu tiên báo cái chết của Phi-e-rơ, Giăng đã viết: “Chúa ngụ ý cho biết ông phải chết cách nào để làm rạng danh Thượng Đế” (GiGa 21:19).
Do đó, cả trong sự sống lẫn sự chết, Thượng Đế đều được tôn vinh. Khi chúng ta vì Ngài chứ không phải vì chính các lỗi lầm sai trái của chúng ta mà chịu khổ - là chúng ta làm rạng danh Thượng Đế. Có thể chúng ta không biết tại sao mình lại phải chịu khổ, nhưng có một lý do để chúng ta luôn luôn giữ cho tấm lòng được vững bền và tâm trí được trong sáng, ấy là Thượng Đế muốn được rạng danh trong tất cả những gì chúng ta suy nghĩ, nói và làm. Khi chúng ta chịu khổ một cách bất công và vì đức tin của mình đặt vào Chúa Cứu Thế Giê-xu, thì Thượng Đế được tôn vinh.
Sử dụng các ân tứ thuộc linh trong chức vụ.
IPhi 1Pr 4:10-11 nhấn mạnh cách sử dụng và “quản lý” các ân tứ thuộc linh, và nhắc nhở chúng ta rằng chính việc ấy cũng quy vinh về cho Thượng Đế:
“Thượng Đế đã ban cho mỗi người chúng ta một khả năng riêng, hãy dùng để giúp đỡ nhau, như người quản nhiệm biết sử dụng ân phúc muôn màu muôn vẻ của Thượng Đế. Nếu anh em truyền bá Phúc Âm, hãy giảng đúng lời Thượng Đế. Nếu anh em phục vụ Hội thánh, hãy sử dụng tất cả năng lực Thượng Đế ban cho mình. Trong bất cứ việc gì, hãy làm sao cho Thượng Đế được tôn vinh qua Chúa Cứu Thế Giê-xu, Đấng đáng được vinh quang, quyền năng đời đời vô cùng. Thành tâm sở nguyện!”
Dù đó là ân tứ nói năng hay phục vụ, Thượng Đế sẽ được tôn vinh nếu chúng ta sử dụng nó vì lợi ích cho Ngài. Khi nói chúng ta phải chắc chắn là mình đang truyền bá Lời Chúa, chứ không phải chính các ý tưởng hay ý kiến riêng của chúng ta. Thượng Đế được tôn vinh bởi chính Lời Ngài. Khi phục vụ, chúng ta phải làm việc ấy bằng sức lực của Chúa. Khi việc ấy xảy ra thì Thượng Đế được tôn vinh.
Phao-lô viết chức vụ phục vụ lẫn nhau của chúng ta, việc chúng ta làm lẫn cho nhau trong Thân thể Chúa Cứu Thế Giê-xu, có thể tôn vinh Thượng Đế như thế nào.
“Cầu xin Thượng Đế kiên nhẫn và an ủi ban cho anh em tinh thần hợp nhất theo gương Chúa Cứu Thế Giê-xu, để anh em một lòng một miệng ca ngợi Thượng Đế là Cha Đấng Cứu Thế Giê-xu Chúa chúng ta” (RoRm 15:5, 6).
Sự đoàn kết hợp nhất của chúng ta với tư cách tín hữu tôn vinh Chúa khi chúng ta tìm cách phục vụ lẫn nhau, lợi dụng các ân tứ và tài năng của mình để gây dựng người khác, và như thế là tôn vinh Cứu Chúa kỳ diệu của chúng ta vậy.
BẢNG KIỂM ĐIỂM CỦA NGƯỜI LÃNH ĐẠO
1. Công việc được bạn dành ưu tiên chủ yếu là gì?
2. Tại sao chúng ta phải tôn vinh Thượng Đế?
3. Việc chúng ta được cứu rỗi tôn vinh Thượng Đế như thế nào?
4. Đời sống trong sạch, đạo đức tôn vinh Thượng Đế như thế nào?
5. Cầu nguyện và ca tụng Chúa có phải là một phần trong thời dụng biểu hằng ngày của bạn không? Nếu không bạn có thể làm gì để tăng cường phần dấn thân của bạn vào những việc ấy?
6. Bạn đã từng trải những khó khăn nào trong đó bạn thấy cách thức Thượng Đế được tôn vinh? Hãy giải thích việc đã xảy ra.
7. Các ân tứ thuộc linh tôn vinh Thượng Đế như thế nào?