Định Luật 3
ĐỊNH LUẬT1 ĐỊNH LUẬT2 ĐỊNH LUẬT3 ĐỊNH LUẬT4 ĐỊNH LUẬT5 ĐỊNH LUẬT6 ĐỊNH LUẬT7
BẠN CÓ PHẢI LÀ MỘT CẤP LÃNH ĐẠO ĐƯỢC ÂN TỨ CỦA CHÚA CỨU THẾ KHÔNG?
Chúng ta đang cần loại lãnh tụ nào cho Hội Thánh ngày nay? Chúa Giê-xu không còn tại thế nữa, nhưng ở thiên đàng. Ngài đang xây dựng Hội thánh Ngài. Ngài biết Hội Thánh cần được lãnh đạo, nên hoạch định bốn loại lãnh tụ. Họ được đề cập trong Eph Ep 4:11, đó là: các sứ đồ, các nhà tiên tri, các nhà truyền đạo và mục sư - giáo sư. 4:7 gọi các phẩm cách để lãnh đạo đó là ân tứ.
Các Ân Tứ Lãnh Đạo
Có thể nào sau khi đã học tập nghiên cứu các nguyên tắc quản trị và các kỹ thuật lãnh đạo, học hỏi mọi điều cần phải biết, nhưng bạn vẫn chưa đủ điều kiện để làm một lãnh tụ giỏi, hay không? Lẽ dĩ nhiên là rất có thể! Nhưng tại sao? Có nhiều lý do. Một lý do quan trọng có thể liên quan với các ân tứ thuộc linh. Vấn đề là: Bạn có phải là một cấp lãnh đạo có ân tứ của Chúa Cứu Thế hay không? Và: Làm thế nào để bạn biết được mình là một người như thế?
Hãy bắt đầu bằng câu hỏi các cấp lãnh đạo có ân tứ đó được yêu cầu phải làm những gì. Trong 4:12, Thánh Kinh vạch rõ rằng bốn loại lãnh tụ ở đây sở dĩ được phân phối như thế là “để chúng ta phục vụ đắc lực cho Ngài, cùng nhau xây dựng Hội thánh, là thân thể Ngài”. Thật hết sức đơn giản, nhưng nói như thế có nghĩa gì? (Bản Anh văn ở đây có thể dịch ra là “để trang bị các thánh đồ cho công tác phục vụ...”).
Trang bị cho một ai đó có thể lấy thí dụ từ giới ngư dân để minh họa. Lúc các ngư dân vào thời của Thánh Kinh vá lưới, từ ngữ “trang bị” đã được sử dụng. Các lưới được cột chặt vào nhau để cá không thể thoát ra. Từ ngữ này cũng được dùng chỉ hai mảnh vật liệu được nối liền lại với nhau. Trang bị có nghĩa là bạn phải sắp xếp con người lại với nhau để họ có thể thực hiện một công tác quan trọng.
Thư IITi 2Tm 3:16, 17 cho chúng ta biết rằng Kinh thánh có kế hoạch trang bị cho người của Thượng Đế để thực hiện mọi việc lành. Từng tín hữu có thể tiếp tay xây dựng Thân thể Chúa Cứu Thế (gồm nhiều tín hữu khác) khi người ấy đã được trang bị đầy đủ. Người ấy đã được trang bị bằng Kinh thánh.
Công tác mà các tín hữu thực hiện để gây dựng người khác được gọi là “công tác phục vụ”. Thư IPhi 1Pr 4:10, 11 dường như cho thấy việc này ám chỉ cách sử dụng các ân tứ thuộc linh. Mỗi tín hữu ít nhất cũng được một ân tứ thuộc linh. Muốn sử dụng nó thật phải lẽ và có hiệu quả, người ấy cần được trang bị bằng kiến thức về Lời của Thượng Đế. Công tác được giao phó đã được phân phối cho bốn lãnh tụ được ân tứ của Eph Ep 4:11, các vị có trách nhiệm trang bị. Hậu quả là Thân thể của Chúa Cứu Thế sẽ được trang bị cả về số lượng lẫn về chất lượng.
Nhiều cấp lãnh đạo Cơ-đốc giáo sở dĩ bị thất bại trong công tác của họ, bởi vì họ đang làm những điều không phản ảnh đúng loại người mà Thượng Đế đã thiết kế để họ phải trở thành. Nói khác đi, thay vì công tác trong lãnh vực mà họ có các ân tứ, họ lại tìm cách làm những điều mà họ chẳng hề được trang bị để thực hiện.
Nếu bạn hiện đang phục vụ ở cương vị lãnh đạo trong công việc của Hội thánh, bạn thuộc vào loại nào trong số bốn loại lãnh tụ có ân tứ đó? Phải chăng bạn là sứ đồ? Nhà tiên tri? Nhà truyền đạo? Là mục sư - giáo sư? Bạn thích hợp với chức vụ nào?
Phải Chăng Bạn Là Một Sứ Đồ
Phải chăng Chúa Giê-xu chỉ có đúng 12 sứ đồ mà thôi? Vâng. Thế thì, làm thế nào để một người hiện nay có thể trở thành sứ đồ? Dễ thôi! Từ ngữ “sứ đồ” có nghĩa là người được sai phái. Rõ ràng là đã có nhiều người hơn từng được sai phái đi truyền giáo, chứ không phải chỉ có Mười Hai Sứ Đồ đặc biệt đã từng sánh bước với Chúa Giê-xu lúc Ngài còn tại thế.
Xin xem ICo1Cr 15:5-7 chỗ Phao-lô nói rằng Chúa Cứu Thế hiện ra cho mười hai sứ đồ, sau đó là cho “các sứ đồ”. Ngoài 12 vị sứ đồ, còn có tên vài vị sứ đồ khác nữa. Phao-lô (GaGl 1:1), Ê-pháp-ra (Phi Pl 2:25, bản NASB dịch là “sứ giả”), Ba-na-ba (Cong Cv 4:36), Tít (IICo 2Cr 8:33, bản NASB dịch là “sứ giả”); Si-la và Ti-mô-thê (ITe1Tx 1:1; 2:6), Anh-đô-ni và Giu-ni (RoRm 16:7); Gia-cơ, em Chúa (GaGl 1:19).
Một số các sứ đồ được dùng đặc biệt để viết các sách trong Thánh Kinh. Với các vị ấy, Thượng Đế có sự tiếp xúc đặc biệt và trực tiếp. Lời truyền dạy của các vị đã trở thành nền móng của Hội Thánh (Eph Ep 2:20). Các nhân vật này được gọi là “các sứ đồ thánh và tiên tri của Ngài” (3:5). Từ ngữ “thánh” có nghĩa là “riêng biệt” hay “được biệt riêng ra”.
Một vài nhóm sứ đồ và tiên tri đã được biệt riêng ra để viết Kinh điển. Ngày nay, thành phần sứ đồ ấy hoặc 12 sứ đồ cùng đi với Chúa Giê-xu không còn cần thiết nữa. Tên của Mười Hai Sứ Đồ sẽ vĩnh viễn trở thành đặc biệt (Mat Mt 19:28 và KhKh 21:14). Kinh điển đã hoàn tất.
Các sứ đồ khác đã được đề cập ở phần trên - những người khác đã được “sai phái” vốn không phải là các bạn thân đặc biệt từng sánh bước với Chúa Giê-xu, cũng không phải các vị đã viết Kinh điển. Thế các vị làm gì? Các vị là giáo sĩ vào thời của Thánh Kinh. Cũng như Phao-lô, các vị đã du hành từ nơi này sang nơi khác, thiết lập các Hội thánh và gây dựng tín hữu mới. Các vị ấy chịu trách nhiệm lãnh đạo việc phát triển trong các Hội thánh mới đó. Chính vì lý do ấy mà Phao-lô dạy Ti-mô-thê và Tít bổ nhiệm (hay chọn) các trưởng lão (giám mục) trong từng hội thánh mỗi nơi. Đó là công tác của một sứ đồ (Xem Cong Cv 14:21-28 để có một phần phân tích đầy đủ về những gì các vị sứ đồ hay nhà thiết lập hội thánh này đã làm).
Bạn có thể gọi các vị ấy là sứ đồ ,
người thiết lập Hội thánh , giáo sĩ tiền phong ,
hay thế nào tùy ý , nhưng dù sao chúng ta
vẫn còn cần đến những người như thế .
Ngày nay, chúng ta vẫn còn cần đến các sứ đồ theo ý nghĩa này. Có lẽ từ ngữ ấy đã bị thay đổi để có một danh từ mới, nhưng các vị vẫn còn cần thiết. Với hơn hai tỉ người trên thế giới vẫn chưa được nghe Phúc Âm của Chúa Cứu Thế, chúng ta vẫn còn cần đến những nhà tiên phong thuộc loại này. Bạn có muốn du hành đây đó không? Bạn có thích được niềm vui xây dựng một điều gì đó ngay từ phần nền móng trở lên không? Bạn có thích bắt đầu một việc gì đó, nuôi dưỡng nó, rồi giao nó lại cho người khác, không?
Tôi tìm được niềm vui làm công tác của một sứ đồ hay người thiết lập Hội thánh. Tôi đã phải mất nhiều thời gian hơn thánh Phao-lô, thế nhưng việc ấy cũng dễ hiểu thôi - tôi không phải là thánh Phao-lô! Tôi đã phải dành ra khoảng ba năm rưỡi để thiết lập một Hội thánh tại Columbus, Ohio. Đã có rất nhiều điều vui (cũng như một số chuyện đau đầu). Nhờ Thượng Đế ban phước, nhiều người đã được cứu, các cấp lãnh đạo được phát triển và Hội thánh đang tăng trưởng. Cấp lãnh đạo hiện tại đang hoạt động với công việc ấy giỏi hơn tôi nhiều, nhưng tôi đã có mặt tại đó khi mọi sự chỉ mới bắt đầu. Thật là điều đáng vui mừng! Thật là một đặc ân.
Bạn có thể gọi các vị ấy là sứ đồ, nhà thiết lập Hội thánh, giáo sĩ tiền phong, hay thế nào tùy ý, nhưng dù sao chúng ta vẫn còn cần đến những người như thế! Bạn có quan tâm đến công tác ấy không? Thượng Đế có đặt ước muốn đó trong lòng bạn không? Nó có vương vấn bạn, chiếm lấy phần lớn số thì giờ của bạn, không? Thế điều gì vẫn còn giữ bạn lại?
Phải Chăng Bạn Là Một Nhà Tiên Tri?
Nếu giữa một vài nhóm người nào đó mà bạn đưa ra câu hỏi: “Bạn có phải là một nhà tiên tri không?” thì đó là một câu nói đùa. Nếu bạn tưởng rằng một nhà tiên tri là người tiên báo tương lai, thì chắc chắn là họ không cần thiết cho ngày nay. Thánh Kinh đã dạy đủ cho chúng ta về tương lai và các sự việc sẽ biến chuyển như thế nào rồi. Nhưng ý niệm về nhà tiên tri là một người tiên báo tương lai, là một sản phẩm của thời trung cổ.
Từ ngữ tiên tri có nghĩa là “nói trước (mặt)”. Chẳng những nó ám chỉ người nói một việc trước khi nó xảy ra, mà theo cách dùng phổ biến vào thời của Thánh Kinh, nó còn có thể ám chỉ người lên tiếng trước một đám đông quần chúng. Trong xã hội cổ thời, nhà tiên tri là diễn giả nói trước công chúng. Các nhà tiên tri là những người mà ngày nay chúng ta gọi là nhà truyền đạo. Trong Hội thánh tại An-ti-ốt, có cả các nhà tiên tri lẫn các giáo sư (xem 13:1). Nhà tiên tri là những người truyền giảng, công bố chân lý của Thượng Đế.
Thượng Đế dạy các nhà tiên tri những gì phải nói ra. Trong thông điệp của họ, có một ý nghĩa về tính cách cấp bách và quan trọng. A-rôn là một nhà tiên tri, và dưới quyền điều khiển, hướng dẫn của Thượng Đế, ông chỉ là người phát ngôn của Môi-se mà thôi (xem XuXh 7:1). Có một số nhà tiên tri trong Tân Ước tiên báo tương lai (A-ga-bút, xem Cong Cv 11:28), trong khi nhiều vị khác chỉ chuyển bức thông điệp đem đến sự khích lệ và sức mạnh cho các tín hữu mà thôi (Giu-đa và Si-la, 15:32).
Chủ đích của việc nói tiên tri là nói với người ta để xây dựng, khuyến giục và an ủi (Xem ICo1Cr 14:3). Ân tứ này cũng được dùng để đem niềm tin đến cho người chưa tin Chúa (xem 14:24).
Tôi từng nghe một bà nọ, khi đề cập một diễn giả được mời đến giảng cho Hội thánh chúng tôi, nói: “Ông ấy là một nhà truyền đạo, nhưng không phải là một giáo sư!”. Tôi cũng từng nghe có người nói ngược lại: “Ông ấy là một giáo sư nhưng không phải là nhà truyền đạo”. Có lẽ chúng ta phải xét đến vấn đề các ân tứ trước khi phê bình quá khe khắt các loại hình thuộc linh khác nhau. Nếu nói tiên tri liên quan với nói trước mặt chứ không phải là nói (báo) trước, thì có lẽ nó tương đương với cách nói là truyền đạo ngày nay, chứ không phải với những người báo trước tương lai.
Nếu chức vụ của nhà tiên tri là diễn giả nói trước công chúng, trước những đám quần chúng đông đảo, thì chúng ta rất dễ hình dung ra nhu cầu về các nhà tiên tri cũng như về các mục sư - giáo sư thi hành chức vụ trong một chi hội địa phương. Ta có thể kết luận rằng hễ một Hội thánh càng phát triển (đám quần chúng càng đông đảo) thì càng cần thiết phải có nhà “truyền đạo kiểu mẫu” có thể giao lưu tiếp xúc có hiệu quả với cả đám đông quần chúng đông đảo đó.
Các “giáo sư kiểu mẫu” thích hợp với những nhóm ít người hơn và các lớp học. Cả các nhà truyền đạo lẫn giáo sư đều cần thiết. Theo một ý nghĩa thì người giảng cũng dạy, mà người dạy cũng giảng nữa. Một đàng thì chú trọng vào nội dung (giáo sư), một đàng thì chú trọng vào phần áp dụng (truyền đạo). Người này quan tâm đến vấn đề truyền thụ (giáo sư), người kia thì quan tâm đến phương pháp truyền thụ (truyền đạo).
Theo thiển ý (không phải là giáo lý, chỉ là một chút suy nghĩ thôi!) thì trong Hội thánh của chúng ta và trong cả ban giám đốc mục vụ của chúng ta, có cả hai loại chức vụ này. Chúng ta có những người am hiểu Lời Chúa và họ là các giáo sư giỏi (cả già lẫn trẻ) nhưng lại gặp khó khăn khi làm công tác truyền thông trước một đám quần chúng đông đảo. Điều này ảnh hưởng đến toàn diện sự trình bày của họ.
Chúng ta có những người khác rất thích “giảng” cho một đám đông người, hoặc tại tòa giảng hay ngoài bãi biển, trong một làng đại học với hàng trăm sinh viên. Một số dường như được ân tứ tiếp xúc để truyền thông và tạo động cơ thúc đẩy, trong khi nhiều người khác lại nổi bật hẳn lên trong việc sưu tầm, nghiên cứu và dạy dỗ. Trong Hội thánh, có đất dụng võ cho cả hai loại chức vụ này. Đã đến lúc chúng ta phải nhận thức mình có ân tứ gì. Có rất nhiều lãnh vực, nhiều người và nhiều chức vụ rất khác nhau cần sự giải thích trong Thánh Kinh.
Phải Chăng Bạn Là Một Nhà Truyền Đạo?
Thánh Kinh chỉ gọi một mình Phi-líp là nhà truyền đạo (xem Cong Cv 21:8). Ông vốn là một trong bảy chấp sự đầu tiên đã được chọn trong 6:1-15 để giúp các sứ đồ phân phối lương thực cho các quả phụ đang có nhu cầu. Ông là một người đạo đức và trung tín phục vụ tại Hội thánh Giê-ru-sa-lem. Tuy nhiên, Thượng Đế đã hướng dẫn ông vào chức vụ truyền giảng Phúc Âm tại Sa-ma-ri (xem Công 8) cũng như tại nhiều nơi khác nữa. Cuối cùng ông định cư tại Sê-sa-rê với cả gia đình.
Phi-líp đã làm gì? Ông truyền giảng Chúa Cứu Thế, ông nói cho những người khác biết về Chúa Giê-xu. Ông giảng đạo cho nhiều người trong xứ Sa-ma-ri cũng như cho một hoạn quan người Ê-thi-ô-bi trên đường từ Giê-ru-sa-lem trở về nước, trên chiếc xe ngựa của ông ta. Nhà truyền đạo là người giảng Phúc Âm. Niềm vui lớn nhất của ông là nói cho người khác biết làm thế nào để trở thành một Cơ-đốc nhân, và đưa họ tới chỗ biết rõ Chúa Cứu Thế. Phi-líp cũng làm báp-tem cho những ai đáp lại bức thông điệp của ông. Dù sao thì đây cũng là một phần tối quan trọng của Lời Ủy Thác Quan trọng của Chúa chúng ta (xem Mat Mt 28:19, 20).
Trong ban giám đốc của tôi, có nhiều người mà tôi tin là những nhà truyền đạo. Còn trong số các thành viên của Hội thánh chúng tôi, lại càng có nhiều người hơn nữa. Qua nhiều năm tôi đã nhận xét và thấy có một số điểm về những con người cá biệt này. Họ không thích ngồi tại bàn giấy cả ngày, trừ khi lúc họ đang nói chuyện với một ai đó về Chúa Cứu Thế. Họ thuộc hạng người có khuynh hướng hướng-tới-người-khác. Họ thích được đứng giữa nhiều người vây quanh mình. Họ thích trò chuyện với mọi người bất chấp gặp họ ở đâu. Họ luôn tìm đến với nhiều người, và nhiệt tâm của họ lây lan sang nhiều người khác.
Đại khái, sở trường của các nhà truyền đạo không phải là sưu tầm tra cứu. Họ phải tự ép mình để sưu tầm nghiên cứu. Mọi người đều phải học hỏi nghiên cứu Thánh Kinh, nhưng đối với họ, việc này không xảy ra dễ dàng. Họ yêu mến Lời Chúa và thường xuyên sử dụng nó, nhưng điều lý thú đối với họ không phải là ngồi lại trong một văn phòng để học hỏi nghiên cứu Lời Chúa suốt cả tiếng đồng hồ! Nếu họ ra đi luôn mấy tuần lễ mà chẳng đưa được một ai đến với Chúa Cứu Thế cả, họ sẽ chán nản và buồn phiền. Ước muốn quan trọng nhất của họ là thấy người ta được biết Chúa Cứu Thế. Họ là những tấm gương lớn cho toàn thể chúng ta trong phương pháp chia sẻ đức tin của mình với người khác. Tôi cũng nhận thấy họ đưa được nhiều người đến với Chúa Cứu Thế hơn là những nhân viên khác trong ban giám đốc, nhưng có được các ân tứ khác.
Ta đừng tìm cách khiến cho tất cả mọi người
đều nghĩ y như ta trong vấn đề phục vụ Chúa .
Thay vào đó , ta phải thừa nhận có nhiều điểm
khác nhau để tìm cách gây dựng lẫn cho nhau .
Phần bạn thì thế nào? Bạn có phải là một nhà truyền đạo không? Bạn có thích trò chuyện với người ta về Chúa không? Bạn có cảm thấy thất vọng khi không có được cơ hội để làm như thế không? Bạn có yêu thương người ta không? Bạn có thích thà trò chuyện với một người, còn hơn là làm việc tại một bàn giấy không? Những câu hỏi này và nhiều câu hỏi khác nữa phải được đặt ra cho tất cả những ai tin rằng mình được ân tứ truyền giảng Phúc Âm. Tất cả các Cơ-đốc nhân đều có trách nhiệm làm chứng đạo nhưng không phải mọi người đều được Thượng Đế ban cho ân tứ truyền giảng Phúc Âm. Những người được ân tứ ấy sẽ giúp ích được rất nhiều trong công tác huấn luyện người khác về phương pháp làm chứng đạo.
Điều cũng quan trọng là phải để cho các nhà truyền đạo được tự do thi hành chức vụ của họ. Ngày nọ, có một tín đồ thường trong Hội thánh chúng tôi dường như được ân tứ truyền giảng Phúc Âm, tỏ ra rất thất vọng. Ông ta được một Cơ-đốc nhân khác bảo rằng nếu ông ta không dạy được cho những người mà ông ta đưa đến với Chúa Cứu Thế để họ cũng trở thành các môn đồ của Chúa, là ông ta không vâng lời Chúa. Ông ta kể lại cho tôi về công việc làm và số thì giờ mà ông ta có thể có được. Ông tâm sự với tôi rằng trong mấy tháng vừa qua, ông đã đưa được tám người đến với Chúa Cứu Thế. Ông ta không có thì giờ để huấn luyện họ trở thành môn đệ Chúa, ông không thấy có ước muốn ấy.
Tôi đã đến với người từng bảo ông ta phải huấn luyện cho những người mình đưa đến với Chúa trở thành các môn đệ Ngài, và giải thích rằng những người được ân tứ truyền giảng Phúc Âm như thế phải được dành cho quyền tự do để thực hiện chức vụ ấy, và nhiều người khác có thể tiếp tay trong việc đào tạo số người mới tin Chúa kia trở thành môn đệ Chúa - nghĩa là chính ông ta phải làm công việc ấy! Ông ta đã thấy được vấn đề, là tức khắc bắt đầu giúp người anh em kia của mình để thỏa mãn các nhu cầu của những người mới tin Chúa nọ. Mọi người chúng ta đều cần thiết cho Thân thể Chúa Cứu Thế, nhưng các ân tứ của chúng ta vốn khác nhau. Chúng ta đừng tìm cách khiến cho tất cả mọi người đều nghĩ y như chúng ta trong vấn đề phục vụ Chúa. Thay vào đó, phải thừa nhận có nhiều điểm khác nhau để tìm cách gây dựng lẫn cho nhau.
Phải Chăng Bạn Là Một Mục Sư - Giáo Sư?
Phải chăng mục sư và giáo sư đều như nhau cả, và tất cả quí vị mục sư đều có trách nhiệm làm giáo sư? Có thể có những người là giáo sư nhưng không thể là mục sư hay không? Vì các ân tứ vốn khác nhau cả về thể loại lẫn trong cách thức chúng được sử dụng, chúng ta cần thận trọng để đừng quá độc đoán trong việc sử dụng các ân tứ. Tuy nhiên, Eph Ep 4:11 dạy rằng mục sư với giáo sư vốn như nhau. Trong Hi văn, cấu trúc của câu này đòi hỏi phải có bốn cấp lãnh đạo có ân tứ được đề cập, chứ không phải là năm. Ít nhất là trong văn cảnh này, một vị mục sư cũng chính là một giáo sư, và một giáo sư cũng chính là một mục sư.
Mục sư là một người chăn chiên, có trách nhiệm cung cấp lương thực và bảo vệ chiên mình. Để có thể cung cấp luơng thực, vị ấy phải là một giáo sư về Lời Chúa. Không phải tất cả quí vị mục sư đều có ân tứ thuộc linh để dạy dỗ được đề cập trong RoRm 12:7, nhưng tất cả quí vị mục sư đều có trách nhiệm phải dạy dỗ, không phải tất cả quí vị trưởng lão trong một Hội thánh đều là một mục-sư-giáo-sư (xem ITi1Tm 5:17), nhưng vị nào là mục sư cũng phải là giáo sư.
Mấy năm trước đây, có một thanh niên trong ngành phục vụ của chúng tôi cảm thấy Thượng Đế gọi mình vào chức vị lãnh đạo như một mục-sư-giáo-sư. Tôi khích lệ anh ta hãy bắt đầu chức vụ của mình trong chi hội địa phương, là nơi có nhiều người theo dõi quan sát, và các hoài bão cũng như ân tứ của anh ta sẽ được nhiều người khác xác nhận. Tất cả các lớp học Thánh Kinh mà anh ta tham gia với tư cách giáo sư đều giảm về sỉ số. Mọi người đều tỏ ra độ lượng, nhưng thành thật mà nói, thì anh ta không có khả năng dạy dỗ.
Cuối cùng, anh ta đã đến hỏi tôi về vấn đề này. Chúng tôi đã trò chuyện với nhau và thảo luận về tầm quan trọng của các ân tứ thuộc linh. Chúng tôi ghi nhận rằng điều quan trọng là phải nhận thức được mình không có những ân tứ nào để có thể bắt đầu tập trung chú ý vào các ân tứ mà chúng ta có. Anh ta đã hiểu ra vấn đề! Bây giờ, anh ta đã có được một chức vụ rất tốt, nhưng không phải là mục sư - giáo sư. Tôi vẫn thường tự hỏi chẳng hay anh ta sẽ bị thất vọng, chán nản như thế nào trong đời sống, nếu hồi đó, tôi cố gắng thuyết phục anh ta phải trở thành một mục sư - giáo sư, bất chấp chức vụ của anh ta trong lãnh vực ấy có chứng minh điều gì đi chăng nữa!
Rõ ràng việc ghép hai từ ngữ mục sư - giáo sư chung với nhau để mô tả chức vụ của một lãnh tụ có ân tứ, là một việc làm khôn ngoan. Một số quí vị giáo sư vốn không hề muốn phục vụ người ta với tư cách mục sư. Họ không có “tấm lòng của một người chăn chiên”. Một số người có lòng thông cảm và thương người của một vị mục sư, lại không thích dạy dỗ hay nghiên cứu Lời Chúa. Thế quân bình là điều vô cùng quan trọng.
Các mục tiêu của một vị mục sư - giáo sư tập trung vào việc khiến cho các tín hữu tăng trưởng để đạt mức trưởng thành. Một số lãnh tụ bộc lộ việc họ thiếu tấm lòng của một vị mục sư - giáo sư bằng những gì khiến họ quan tâm chú ý. Nếu mục tiêu chủ yếu trong chức vụ của bạn là thiết lập nhiều Hội thánh, thì có lẽ bạn là một vị sứ đồ, nếu mối bận tâm hàng đầu của bạn là đưa nhiều người về với Chúa, thì có lẽ bạn là một nhà truyền đạo; nếu bạn có lòng yêu thương người ta và mong ước truyền giảng, quảng bá Lời Chúa cho những đám quần chúng đông đảo, thì có lẽ bạn là một nhà tiên tri, và nếu bạn thích làm việc với một nhóm người mà bạn gọi là bầy chiên của mình để theo dõi chăm sóc cho họ tăng trưởng để đạt đến trưởng thành và bắt đầu phục vụ, gây dựng lẫn cho nhau, thì có lẽ bạn là một mục sư - giáo sư.
Chức vụ lãnh đạo trong Hội thánh của Thượng Đế đặt cơ sở trên tài năng. Nhưng tài năng đó phải là của Thượng Đế ban cho. Các ân tứ là kết quả của ân sủng. Chúng ta chẳng làm được gì cả để xứng đáng có được hay chiếm đoạt được các ân tứ ấy. Chúa Cứu Thế ban các lãnh tụ có ân tứ đó cho Hội Thánh, và Ngài trang bị họ bằng uy quyền và tài năng của Ngài để phục vụ, quản trị người khác.
Điều quan trọng là bạn phải tự khám phá ra là mình có được một ân tứ nào trong số bốn ân tứ dành cho các cấp lãnh đạo đó. Nó sẽ tức khắc bảo cho bạn biết mình phải phát triển loại chức vụ nào. Nó sẽ hướng dẫn cuộc đời bạn và cất khỏi bạn nhiều chán nản thất vọng do cố gắng trở thành một cái gì đó hay một người nào đó, vốn không phù hợp với người mà đáng lẽ bạn phải trở thành.
BẢNG KIỂM ĐIỂM CỦA NGƯỜI LÃNH ĐẠO
1. Bạn có tin rằng Thượng Đế đã chọn bạn làm một lãnh tụ cho Hội Thánh Ngài không? Hãy viết ra vài lý do cho thấy tại sao bạn lại cảm nghĩ như thế.
2. Bạn có ước muốn của một vị sứ đồ, là thiết lập nhiều Hội Thánh và đào tạo nhiều cấp lãnh đạo để thay thế bạn khi bạn rời khỏi đó không?
3. Bạn có tin rằng Thượng Đế đã kêu gọi bạn để truyền giảng Phúc Âm không?
4. Bạn có phải là một diễn giả thành công trước công chúng không? Bạn có thể truyền giảng như thế nào?
5. Bạn có thích nói về Chúa Cứu Thế cho nhiều người biết hay không? Họ thường trả lời bạn như thế nào?
6. Bạn có thích chia sẻ đức tin của mình với người chưa tin Chúa, hơn là dành càng nhiều thì giờ hơn để gây dựng các tín hữu khác, hay không?
7. Bạn có muốn phục vụ một nhóm tín hữu mà bạn có thể gọi là của riêng mình, hay không?
8. Bạn có khuynh hướng tập trung chú ý vào việc giúp cho các tín hữu đạt đến mức trưởng thành, hơn là chỉ tập trung chú ý đem sự cứu rỗi đến cho những người chưa tin Chúa mà thôi hay không?
9. Bạn có yêu thích truyền dạy Lời Chúa, và học hỏi nghiên cứu để thi hành chức vụ ấy, hay không?
CÁC ÂN TỨ THUỘC LINH CÓ GIÚP ÍCH GÌ KHÔNG?
Trong số rất nhiều ân tứ thuộc linh được liệt kê trong Tân Ước, có hai ân tứ liên quan với chức vụ lãnh đạo. Một là ân tứ mà chúng ta sẽ gọi là chính ân tứ lãnh đạo (xem RoRm 12:8), có khi cũng được dịch ra là “cai trị” hay “quản lý”. Ân tứ kia sẽ được chúng ta gọi là ân tứ quản trị (xem ICo1Cr 12:28).
Từ nhiều năm nay, tôi chú ý thấy những khác biệt lớn trong phong cách lãnh đạo của những người tham gia công tác phục vụ. Tôi đã cố tìm ra các thành phần chung có thể sẽ giúp chúng ta gây dựng các nhà lãnh đạo cho tương lai. Nhưng tôi thường gặp phải ngõ cụt! Tuy nhiên, có một vài yếu tố cơ bản vẫn còn được tôi chú ý. Tôi thường không dám chắc tại sao lại có những việc như thế, nhưng chúng vẫn có mặt ở đấy. Tôi xin giải thích điều tôi muốn nói!
*Một số nhà lãnh đạo là những người làm động cơ thúc đẩy, có một số là những nhà tổ chức.
*Một số làm việc rất giỏi trước mặt mọi người, một số khác lại làm việc rất giỏi tại bàn giấy.
*Một số luôn luôn làm việc “tùy hứng”, một số khác cần một biểu đồ hay phần mô tả công việc phải làm.
*Một số đòi hỏi phải có những mục tiêu cụ thể, một số khác thích giải quyết các vấn đề hiện tại.
*Một số rất ít quan tâm đến các chi phí, một số khác luôn luôn phải có tiền trước mặt mình.
*Một số cậy uy quyền của người khác, một số khác tự tạo lấy uy quyền cho mình.
*Một số tổ chức bằng số người vây quanh mình, một số khác tổ chức tùy theo công việc và nhiệm vụ.
*Một số hay cau có, quạu quọ, một số rất điềm tĩnh, trầm lặng.
*Một số đầy dẫy ý kiến mới, một số khác dành thì giờ để cân nhắc các ý kiến.
*Một số chẳng theo thời biểu nào cả, một số khác rất có kỷ luật.
*Một số bày biện lộn xộn đầy bàn giấy, một số khác thì chẳng chê trách vào đâu được.
*Một số làm cho số người chung quanh vui cười thích thú, một số khác lại khô khan, khắc khổ, khiến người chung quanh bối rối, lúng túng.
*Một số rất thích trò chuyện, một số khác rất ít nói.
Bảng liệt kê có thể cứ được kéo dài ra. Giữa mọi người, có nhiều điều khác nhau kỳ lạ. Thế nhưng, mỗi người đều là một nhà lãnh đạo. Phong cách tuy có khác nhau, nhưng tất cả đều đem lại nhiều kết quả.
Chúng ta có thể học hỏi được gì từ những điều này. Chỗ khác nhau là có thật. Xin chớ quá khe khắt mà phê bình, chỉ trích cách lãnh đạo của người khác. Có lẽ sau khi nghiên cứu các khúc sách mô tả ân tứ lãnh đạo, chúng ta sẽ dễ thông cảm hơn với những phong cách lãnh đạo khác nhau.
Bạn Có Ân Tứ Lãnh Đạo Không?
RoRm 12:8 mô tả “ai lãnh đạo, hãy tận tâm”. Từ ngữ lãnh đạo do hai từ ngữ ghép lại, “đứng” (stand) và “trước” (before). Đứng trước người khác là ý gốc của ân tứ lãnh đạo này. Nó chỉ một người thúc đẩy giục giã những người khác, và nhìn thấy công tác lãnh đạo trước hết là trong mối liên hệ của nó với tha nhân, chứ không phải là với các công tác. Nó được sử dụng tám lần trong Tân Ước, cũng như vài lần trong bộ Cựu Ước Hi văn.
Trong Tân Ước, nó ám chỉ người cha trong gia đình (xem ITi1Tm 3:4, 12), các vị giám mục (xem 3:5), các chấp sự (3:12), các trưởng lão
Thánh Kinh dạy rằng người có ân tứ trợ giúp
là người muốn giúp đỡ tha nhân bằng cách
thỏa mãn các nhu cầu của họ .
(5:17), và các tín hữu thỏa mãn các nhu cầu của những người thiếu đói và làm việc lành (Tit Tt 3:8, 14). Từ ngữ này vốn đã được sử dụng trong văn học Hi Lạp trước thời Chúa Cứu Thế, theo nghĩa là chủ trì hay hướng dẫn các buổi họp. Một ý niệm khác nữa là bảo vệ, che chở. Từ đó, nó còn có nghĩa là phụ tá, giúp đỡ và chăm sóc người khác. Xin chúng ta hãy xét kỹ vài sự kiện liên hệ đến ân tứ này.
Nó xảy ra trong sinh hoạt gia đình.
Phương diện này của chức vụ lãnh đạo là một phẩm cách phải có của các trưởng lão (giám mục) và chấp sự, vốn có cơ sở trên sinh hoạt trong gia đình của họ (ITi1Tm 3:4, 5, 12). Nó ám chỉ cách một người đối xử với con cái mình. Người ấy lãnh đạo chúng bằng cách chuyên tâm giữ chúng tuân thủ kỷ luật. Chuyên tâm ám chỉ thái độ của một người có một chủ đích nghiêm túc, đứng đắn, và biết tự trọng.
Con cái của một người sẽ phản ảnh cách chúng hiểu về địa vị của cha mình. Người cha phải phản ảnh một thái độ nghiêm túc đối với gia đình mình, coi trọng các nhu cầu về kỷ luật, dạy dỗ, và tạo động cơ thúc đẩy phải lẽ, đúng đắn của chúng. Chúng phải trông cậy vào quyền lãnh đạo của người cha.
Một ý nghĩa về tính cách cấp bách.
Chúng ta đã ghi nhận là Phao-lô kết hợp phương diện này của công tác lãnh đạo với việc chuyên tâm (RoRm 12:8). Phần mô tả ân tứ thuộc linh này gồm một câu đơn giản, đưa ra để giúp chúng ta nhận ra loại chức vụ lãnh đạo đã được Đức Thánh Linh ban cho. Mấy chữ “chuyên tâm” hàm ý “hối hả, vội vàng” hay “mau lẹ”. Người có ân tứ này được chú ý về “sự mau lẹ” mà người ấy đáp ứng các nhu cầu hiện hữu. Những người chần chừ lần lữa khi cần đáp ứng các nhu cầu của tha nhân, chứng minh rõ ràng là ân tứ thuộc linh ấy đã không có mặt, hoặc là họ đã không vâng theo những thúc giục từ Linh của Thượng Đế.
Muốn giúp đỡ.
Ân tứ lãnh đạo nẩy sinh từ ước muốn đáp ứng các nhu cầu (Tit Tt 3:8-14). Tương phản với những người xem chức vụ lãnh đạo là quyền ra lệnh cho người khác, Thánh Kinh dạy rằng người có ân tứ này là người muốn giúp đỡ người khác bằng cách đáp ứng các nhu cầu của họ.
Muốn hoàn thành việc này (3:1) ta phải tự dấn thân vào điều mà Tít gọi là “việc thiện”. Điều này phù hợp với lời chỉ giáo thường xuyên của Chúa chúng ta, rằng những ai muốn được địa vị có uy quyền nhất, phải học tập phục vụ tha nhân.
Có điều rất lý thú, là hãy tìm xem Thánh Phao-lô đã tin rằng các việc thiện quan trọng như thế nào. Trong 2:7, Thánh Phao-lô nói: “Chính con hãy làm gương sáng về các việc lành”. Rồi trong 2:14, ông bảo rằng một trong số các chủ đích của sự cứu chuộc, là để có người “sốt sắng làm việc thiện”. 3:1 vạch rõ chúng ta phải “sẵn sàng làm mọi việc thiện”. Và lẽ dĩ nhiên, lời răn bảo trong 3:8, 14 kết hợp “việc thiện” với từ ngữ “lãnh đạo” của chúng ta, và nhấn mạnh rằng các việc thiện ấy sẽ đáp ứng các nhu cầu cấp bách trong đời sống của những người mà người lãnh đạo chịu trách nhiệm.
Chăm sóc người khác.
ITi1Tm 3:5 đặt từ ngữ lãnh đạo (cai trị) song đôi với từ ngữ chăm sóc (tề gia). Lãnh đạo có nghĩa là chăm sóc người khác. Từ ngữ “chăm sóc” hàm ý hướng tâm trí vào đối tượng mình chăm sóc. Nó gợi ý quan tâm do yêu thương và chắc chắn là bảo vệ nữa.
Chính âm thanh của từ ngữ
“quản trị ” (administration )
đủ khiến cho nhiều người run sợ rồi ...
Nhưng đó là việc phải làm !
Câu chuyện về người Sa-ma-ri nhân từ trong LuLc 10:1-42 là một thí dụ rất hay, minh họa cho việc này. Trong hai câu 34,35, cùng một từ ngữ đã được dùng trong ITi1Tm 3:5 cũng được sử dụng và được dịch là “săn sóc”. Sau khi người Sa-ma-ri nhân từ đã chăm sóc cho kẻ bị thương, ông ta đưa người ấy đến quán trọ, và theo câu 35, ông ta đã trao cho chủ quán một số tiền và nói: “Hãy săn sóc nạn nhân”. Rồi ông ta còn hứa trả thêm bất cứ loại phụ phí nào khác nữa.
Thí dụ về việc chăm lo săn sóc cho người khác này bao gồm vấn đề cung cấp vật liệu và tài chính, do đó, gồm luôn các nhu cầu thuộc thể. Rõ ràng là những người có ân tứ lãnh đạo thuộc linh cũng phải lo cho các nhu cầu thuộc linh của những người dưới quyền lãnh đạo của mình nữa.
Một người có trách nhiệm lo lắng chăm sóc gia đình phải cung cấp các nhu cầu, bảo vệ mọi người để luôn luôn không gặp nguy hiểm và duy trì kỷ luật cũng như nắm quyền kiểm soát với tư cách người lãnh đạo gia đình. Một lãnh tụ thuộc linh cũng phải chăm lo săn sóc cho những người mà mình chịu trách nhiệm. Cần phải có một ý thức rõ về thẩm quyền và các mệnh lệnh, nhưng dường như yếu tố khiến mọi người phải đáp lại quyền lãnh đạo của người ấy lại đặt trên những phẩm chất của người ấy trong sinh hoạt gia đình cũng như sự quan tâm trong tình yêu của người ấy với những người chung quanh.
Một lãnh tụ giỏi là người biết che chở bảo vệ cho người thuộc quyền của mình, và quán triệt câu “tình yêu thương che đậy vô số tội lỗi”. Người ấy lo lắng chăm sóc cho các nhu cầu cá nhân của những người mà mình lãnh đạo, luôn luôn tìm cầu điều lợi ích, tốt lành cho họ. Người ấy nổi tiếng về các “việc thiện” của mình do biết tìm cách thỏa mãn các nhu cầu của đời sống người ta.
Nếu tất cả những ai đang có địa vị lãnh đạo phải tìm cách phát triển các nguyên tắc này, thì có một số người vốn chỉ đơn giản được Thượng Đế ban cho ân tứ ấy mà thôi. Các lãnh tụ ấy không lãnh đạo người ta bằng cách huấn luyện, giáo dục hay tài năng tự nhiên, nhưng là nhờ ân phúc Thượng Đế và chức vụ có một không hai của Đức Thánh Linh. Thật đáng vui mừng biết bao khi được làm việc với những người mà chúng ta thấy cuộc đời và tính khí của họ vốn do Đức Thánh Linh cai trị, kiểm soát, cũng như với những người vốn được Đức Thánh Linh ban ân tứ trong chức vụ lãnh đạo.
Các ân tứ để thúc đẩy giục giã.
Những người được ân tứ lãnh đạo thường là người thúc đẩy giục giã người khác. Người ấy làm việc với ước muốn được thấy mọi người tăng trưởng và phát triển. Người ấy lãnh đạo là để đáp ứng các nhu cầu. Khi có một nhu cầu, người ấy sẽ đáp ứng ngay. Người ấy thích đặt các chỉ tiêu cho người khác để tự mình thực hiện chúng cho họ. Người ấy cảm thấy mình hoàn thành công tác khi các mục tiêu ấy được hoàn tất. Người ấy tổ chức công việc trước nhất là qua người khác. Người ấy dành phần lớn thì giờ lãnh đạo của mình để trò chuyện với mọi người, giúp họ thấy rõ các vấn đề của họ và làm thế nào để họ có thể thành công hơn.
Có một thành viên trong ban giám đốc của chúng tôi là người khớp đúng với bức tranh này, đến văn phòng tôi để thảo luận về chức vụ của ông. Cả câu chuyện giữa chúng tôi đều liên quan đến các mục tiêu mà ông ta tự đặt ra cho mình và cho những người khác. Thật là lý thú và hồi hộp. Thượng Đế đã tạo ra ông ta như thế, và ông ta đang thực hiện một công tác phi thường. Ông ta thấy rõ tài năng và giá trị của mình qua các mục tiêu mình đã đặt ra. Bao lâu các mục tiêu của ông ta còn được đặt trên cơ sở là các mục tiêu đúng theo Kinh Thánh và thuộc linh, Thượng Đế sẽ ban phước cho chức vụ lãnh đạo của ông ta.
Bạn Có Ân Tứ Quản Trị Không?
Chính âm thanh của từ ngữ “quản trị” đã đủ khiến cho nhiều người run sợ rồi! Quản trị là một từ ngữ “kinh khủng” nhưng rất cần thiết trong mọi tổ chức. Nó là một công tác bạc bẽo, rất ít được người khác khen ngợi. Nhưng đó là việc phải làm!
Người làm công tác quản trị mà không có ân tứ trong lãnh vực ấy, chẳng bao lâu sẽ gặp rắc rối. Họ chán nản thất vọng vì phải đương đầu với quá nhiều chuyện chi li nhỏ nhặt và than phiền là có quá nhiều việc phải làm. Họ trì hoãn chần chờ. Công việc cứ chất chồng trên họ. Dường như họ chẳng bao giờ có đủ thì giờ để hoàn tất mọi việc. Họ tỏ ra căng thẳng với mọi người, họ bối rối, họ bị ý thức về trách nhiệm đè nặng lên người. Họ muốn bỏ cuộc (và nếu là người khác, chắc đã phải làm như thế rồi!).
Từ ngữ “quản trị” trong ICo1Cr 12:28 được dùng ba lần trong Tân Ước và vài lần trong bộ Cựu Ước Hi văn. Nó có nghĩa là “lái một chiếc tàu”. Nó ám chỉ người hoa tiêu hay người lái tàu. Từ ngữ “hướng dẫn” thường được dùng để mô tả công tác của người này.
Cùng một từ ngữ ấy cũng được dùng trong ChCn 12:5 của bộ Cựu Ước Hi văn để ám chỉ kẻ ác: “Tư tưởng người nghĩa chỉ là công bình, song “mưu luận” kẻ ác đều là giả dối”. Trong cả sách Châm ngôn, từ ngữ này có ý niệm là lời khuyên, nhất là có liên quan với việc hướng dẫn hay điều khiển.
Ngoài Thánh Kinh, từ ngữ ấy được dùng trong các văn phẩm của Plato để ám chỉ một người am hiểu các giờ trong ngày và mùa tiết trong năm, bầu trời, các vì sao, các luồng không khí, vv... Lẽ dĩ nhiên là kiến thức này rất hữu ích để giữ cho một chiếc tàu chạy đúng đường. Ý niệm “Hoa tiêu” hiện đại của chúng ta rất phù hợp với công việc này. Chúng ta học hỏi được nhiều điều về ân tứ quản trị theo cách mà từ ngữ này đã được dùng trong các nguồn vừa kể.
Định đường đi.
Những người có ân tứ quản trị chịu trách nhiệm định đường đi hay hướng dẫn chúng ta. Đời xưa tuy người lái tàu không phải là chủ nhân của chiếc tàu, người ấy có trách nhiệm lèo lái nó. Cũng có thể người ấy không phải là thuyền trưởng (Cong Cv 27:11). Nhiều khi chúng ta lẫn lộn trách nhiệm và bổn phận phải khai trình của người chủ tàu, với người được thuê để lo mọi việc trên chiếc tàu để đưa nó đến đúng nơi cần phải đến.
Nếu chiếc tàu được hiểu là chi hội địa phương (như trường hợp vẫn thường xảy ra trong Hội Thánh nguyên thủy) thì chủ nhân của nó phải là Chúa, còn người lái tàu có thể là người chịu trách nhiệm hướng dẫn chi hội ấy. Người lái tàu phải cho chiếc tàu chạy đúng đường. Người ấy phải giữ để chiếc tàu khỏi chạy sai đường và khỏi gặp nhiều nguy hiểm trên đường đi.
Một người có ân từ này đưa ra những quyết định ảnh hưởng đến hướng đi, theo đó “chiếc tàu” (hay Hội Thánh) phải chạy. Rõ ràng, đó phải là chiều hướng mà Lời Chúa dạy nó phải theo! Do đó, người có ân tứ này phải quan tâm giữ cho Hội Thánh (hay bất luận một nhóm người nào trong đó) đi đúng theo những gì Lời Chúa dạy nó phải làm.
Đưa ra các quyết định.
Tất cả chúng ta đều nghe câu “Không còn đùn trách nhiệm cho ai”. Vấn đề là chuỗi mệnh lệnh phải dừng tại bàn giấy của một người nào đó, và quyết định cuối cùng được đưa ra. Khi sự an toàn của hàng hoá hành khách bị đe dọa thì viên hoa tiêu phải có thể đưa ra những quyết định giúp bảo đảm cho việc chiếc tàu sẽ đến được đúng nơi muốn đến thật an toàn.
Khả năng quyết định là một chức năng quan trọng của ân tứ quản trị. Nhiều khi nó có nghĩa là cắt giảm những phương pháp, đường lối hoạt động, các nhân viên, nguồn tài trợ, vv...để giữ cho “chiếc tàu” tiếp tục chuyến đi thật an toàn. Trong lúc mỗi người chúng ta thỉnh thoảng phải đưa ra những quyết định, dầu vậy không phải tất cả chúng
Những người được ân tứ quản trị ý thức được trách nhiệm phải khai trình về những gì xảy ra , trong khi những người được ân tứ lãnh đạo khiến cho các sự việc xảy ra .
ta đều được Thượng Đế ban cho ân tứ để đưa ra các quyết định có lợi cho nhiều người khác. Trong vấn đề này có rất nhiều điều phải mạo hiểm, và nguy cơ thất bại vẫn luôn luôn ở trước mặt bạn. Nhưng, số người có ân tứ ấy được Thượng Đế ban cho lòng can đảm và tài năng để đưa ra các quyết định đó.
Mục tiêu của các tín hữu là sự trưởng thành (CoCl 1:28). Do đó, những người được ân tứ quản trị cũng phải quan tâm đến các phương pháp và cách nào không thể đưa đi sai lạc mục tiêu ấy. Họ phải tập trung chú ý vào những gì sẽ đưa mọi người tiến đến sự trưởng thành.
Cá tính của người lái tàu.
ChCn 12:5 vạch rõ “mưu luận của kẻ ác là giả dối” (Xin xem lời than vãn của các lái tàu hay hoa tiêu của những chiếc tàu tại Ta-rê-si trong Exe Ed 27:25...). Trái lại, lời khuyên ngay thật và một nếp sống tin kính, đạo đức là những gì được đòi hỏi khiến cho các quyết định của những người lái tàu phù hợp với những gì họ cần phải quyết định. Những cách làm tội lỗi sẽ làm suy giảm tài năng đưa ra các quyết định đúng của bạn trong công tác lãnh đạo thuộc linh.
Một ý thức trách nhiệm.
Những người được ân tứ quản trị có một ý thức rõ rệt về trách nhiệm và bổn phận phải khai trình. Chắc chắn chúng ta sẽ thấy được điều đó nơi một chiếc tàu chở hàng hóa và hành khách. Thật tai hại biết bao khi có người đưa ra những quyết định có ảnh hưởng đến sinh mạng của nhiều người mà lại không ý thức được trách nhiệm của mình đối với những người ấy! Nhưng vấn đề thật sự ở đây liên hệ với trách nhiệm khai trình, ấy là người lái tàu lại không phải là chủ tàu, nhưng là người làm công và phải hoàn toàn chịu trách nhiệm khai trình với ông chủ về việc hàng hóa và hành khách phải được đến nơi an toàn.
Trong các vấn đề thuộc linh, thì chủ nhân là chính Chúa Cứu Thế. Điều này đã được nhấn mạnh rõ ràng trong HeDt 13:17 khi câu ấy chép: “Hãy vâng lời những người dìu dắt anh em và theo đúng lời hướng dẫn của họ, vì họ coi sóc linh hồn anh em và chịu trách nhiệm trước mặt Chúa. Hãy vâng phục họ để họ vui vẻ thi hành nhiệm vụ. Nếu họ phiền muộn, chính anh em cũng chịu thiệt thòi”. Đấng mà chúng ta có trách nhiệm phải tính sổ, phải khai trình, là chính Chúa. RoRm 14:12 chép: “Như thế, mỗi chúng ta đều sẽ khai trình mọi việc trong đời mình cho Thượng Đế”. Các cấp lãnh đạo phải trả lời cho Thượng Đế về các quyết định và lời chỉ dẫn mình đưa ra.
Trong những vùng biển đầy bão tố.
Chẳng có lúc nào ân tứ quản trị lại bức thiết hơn là vào những thời giông bão. Khi mọi sự đều êm trôi thì dường như chẳng có ai chú ý đến sự hiện diện của “người lái tàu”, cũng chẳng thấy việc lèo lái và lãnh đạo của người ấy là cần thiết. Nhưng khi sóng gió của cuộc đời ập đến, đánh mạnh vào bên hông của con tàu chúng ta, và giông bão cứ ngày càng gia tăng cường độ, thì chừng đó, mọi người mới nhận thấy sự cần thiết phải trông vào “người lái tàu” để lãnh đạo mình. Trắc nghiệm đối với ân tứ quản trị là tài năng “vượt qua cơn bão” và lái con tàu quay trở lại với đường đi đúng của nó.
Trên con đường phục vụ Thượng Đế có rất nhiều “cơn bão”. Nhiều Hội Thánh và tổ chức Cơ-đốc giáo thường như sắp bị chìm, hay ít ra thì dường như đang bị dồi dập nghiêng ngã bởi những lượn sóng khó khăn, thử thách. Trong những lúc như thế, các cấp lãnh đạo thuộc linh thật sự có ân tứ quản trị cần thiết vô cùng. Họ đem bình an đến cho tấm lòng của những người đang sống trong cảnh bị bão tố, và có những quyết định sẽ đưa con tàu vượt qua giông bão an toàn.
Những người có ân tứ quản trị ý thức được trách nhiệm của họ đối với sự việc xảy ra, trong khi những người có ân tứ lãnh đạo khiến cho các sự việc xảy ra. Nhà quản trị có thể viết mọi việc ra giấy dễ dàng hơn người được ân tứ lãnh đạo nhiều.
Có một vài loại công tác lãnh đạo lại là việc trò chuyện với mọi người. Nhà quản trị cần có thì giờ ở riêng ra, xa cách với mọi người. Người ấy phải suy nghĩ thật cẩn thận về những quyết định sắp phải đưa ra. Người có ân tứ lãnh đạo đáp ứng tức khắc với một nhu cầu, trong khi nhà quản trị cần thì giờ để suy nghĩ về các chi tiết và tác dụng đối với nhiều người khác. Người lãnh đạo tự hỏi tại sao chúng ta lại không thể làm việc ấy ngay bây giờ, nhà quản trị thì biết lý do tại sao.
Hai ân tứ này họp thành một toàn đội quan trọng! Hai người vẫn hơn một, miễn là họ hiểu rõ các ân tứ của nhau và biết dành cho mỗi người quyền tự do để thi thố các ân tứ ấy. Nhược điểm của nhà quản trị sẽ được ân tứ của người lãnh đạo bổ khuyết, và ngược lại. Họ rất cần cho nhau.
Tôi rất vui mừng vì được từng trải những cuộc tranh chấp giữa công tác lãnh đạo và công tác quản trị với một anh bạn thân trong chức vụ. Anh ấy với tôi đã cùng cộng tác với nhau suốt bảy năm. Giờ đây, anh đã có một ngành phục vụ của riêng mình và đang phát triển tốt. Chúng tôi đã học hỏi được rất nhiều về nhau và về những điểm khác nhau giữa chúng tôi. Thời gian và sự trưởng thành đã chỉ rõ cho chúng tôi thấy rất nhiều điểm tương đồng. Cả hai chúng tôi đều là cấp lãnh đạo. Cả hai chúng tôi đều thích dạy dỗ và truyền giảng.
Anh ấy thúc đẩy, giục giã người ta giỏi hơn tôi, và tôi học hỏi được nhiều điều ở anh. Tôi nghĩ rằng về một vài phương diện, tôi là một nhà quản trị giỏi hơn, và tôi mong là anh ấy đã học hỏi được ở tôi. Chúng tôi vẫn còn là bạn tốt với nhau (nếu bạn có ngạc nhiên!). Cả hai chúng tôi đều phấn đấu trong việc nghiên cứu các ân tứ thuộc linh, và thấy chúng vốn quan trọng như thế nào trong mối liên hệ giữa chúng tôi với nhau.
Có một số người có ân tứ, và một số người khác thì không. Chúng ta thường phải làm công việc của mình, cả khi chúng ta không có ân tứ trong lãnh vực đó. Trong hoàn cảnh ấy, thì chúng ta chỉ thực hiện một vai trò mà thôi. Theo một ý nghĩa thì mọi người chúng ta đều có thể thi hành công tác lãnh đạo, tin cậy Thượng Đế giúp đỡ mình. Nếu chúng ta có ân tứ lãnh đạo, công tác của chúng ta sẽ dễ dàng hơn. Tuy nhiên, mọi người chúng ta đều có thể học hỏi các nguyên tắc của những ân tứ này để nhờ chúng mà được lợi ích, nhờ sức Chúa ban.
BẢNG KIỂM ĐIỂM CỦA NGƯỜI LÃNH ĐẠO
1. Bạn có thích làm việc với người ta hơn là làm những công việc đặc thù (cụ thể) không? Đâu là một vài đầu mối bảo cho bạn biết bạn thích công việc nào?
2. Bạn có muốn đáp ứng ngay các nhu cầu khi vừa nhìn thấy chúng chăng?
3. Bạn có cảm thấy muốn lo lắng chăm sóc cho những người dưới quyền lãnh đạo của mình không?
4. Bạn có cảm thấy mình có trách nhiệm đối với các sự việc xảy ra không? Đối với bao nhiêu sự việc? Bạn có phải làm “mọi việc” không?
5. Lúc bị căng thẳng hay gặp khó khăn, bạn có đưa ra các quyết định thật nhanh chóng không?
6. Bạn có sẵn sàng “mạo hiểm” để có thể tăng trưởng thành người đứng đắn không? Bạn có thể kể ra ba thí dụ mới đây, trong đó bạn đã phải “mạo hiểm”?
CÓ THỂ DÙNG PHỤ NỮ LÀM LÃNH ĐẠO KHÔNG?
Dường như nêu câu hỏi này ra chỉ là một nỗ lực vô ích mà thôi. Sách báo cũng như các chương trình video trong xã hội ngày nay đầy dẫy những sự việc và hình ảnh minh chứng và nêu rõ vai trò lãnh đạo của phụ nữ. Không còn ai cho phép kỳ thị nữa, thế nhưng phụ nữ vẫn còn bị thua kém về lương bổng và các địa vị lãnh đạo then chốt.
Ngày nay, trong các tập đoàn lớn, ngày càng có nhiều phụ nữ giữ các địa vị quan trọng cả về phương diện chính trị lẫn chấp hành, như chưa hề có trước đây. Áp lực là trên nam giới để họ chấp nhận vai trò của các phụ nữ trong công tác lãnh đạo, và thừa nhận họ có quyền đảm nhiệm bất kỳ một vai trò nào mà theo truyền thống, nam giới vẫn nắm giữ.
Các Mối Bận Tâm Liên Tục
Nhưng không phải mọi việc đều tốt đẹp trong phong trào đòi hỏi cho nữ giới được hoàn toàn bình đẳng với nam giới. Dường như có một vài điểm đòi hỏi phải có cách đối xử khác nhau, như việc thai nghén và chức năng thân thể, và nhiều phụ nữ đang yêu cầu được thông cảm và nâng đỡ nhiều hơn nữa trong các mối bận tâm ấy.
Con số phụ nữ quay trở về với vai trò và trách nhiệm nội trợ ngày càng tăng, rõ ràng là đã gây bối rối cho nhiều phụ nữ từng bênh vực và đẩy mạnh quyền bình đẳng trong xã hội. Phụ nữ trong lực lượng lao động đã đòi hỏi sự gia tăng và phát triển của các trung tâm chăm sóc trẻ con và các vấn đề kèm theo đó trong việc trưởng dưỡng những trẻ con như thế, hiện chỉ mới được bắt đầu chú ý và đánh giá mà thôi.
Tỉ lệ li dị vốn cao hơn trong những gia đình mà cả chồng lẫn vợ đều đi làm, đồng thời lại cố tìm cách trưởng dưỡng con cái. Con số các cha mẹ độc thân đang gia tăng, nhưng đa số lại là các phụ nữ đã li dị và đã tham gia lực lượng lao động, nhưng trong một chừng mực nào đó, vẫn phải duy trì sinh hoạt gia đình vì con cái họ. Một số người đã mô tả các sự kiện này là “tai họa” và là “thảm kịch” cho gia đình người Mỹ.
Mối Liên Hệ Với Hội Thánh
Trong các Hội Thánh thuộc nền văn hóa của chúng ta (Hoa Kỳ), người ta đang ngày càng ý thức nhiều hơn vấn đề phụ nữ với các vai trò lãnh đạo. Việc tấn phong cho các phụ nữ vẫn tiếp tục là một vấn đề gây tranh cãi và chia rẽ trong nhiều hệ phái. Hàng trăm chi hội, nhất là trong các khu vực nông thôn, hiện có các phụ nữ làm mục sư.
Trong hai mươi năm qua, con số phụ nữ được đưa vào các ban quản trị mục vụ cứ ngày càng tăng. Các phụ nữ này phục vụ trong các công tác lãnh đạo, từ các chức vụ phục vụ thiếu nhi, đến các hiệu trưởng các trường cao đẳng và đại học Cơ-đốc giáo. Nhiều phụ nữ đã tham gia các mục sư đoàn của các Hội Thánh lớn với cương vị Giám đốc các Hội phụ nữ phục vụ.
Hàng ngàn các Hội Thánh vẫn còn thắc mắc đặt vấn đề đối với việc đưa các phụ nữ vào trong các ban trị sự Hội Thánh, tin rằng làm như thế là vi phạm lời truyền dạy của Thánh Kinh, trong khi hằng ngàn những Hội Thánh khác đã đưa phụ nữ vào trong ban trị sự của họ từ nhiều năm nay rồi. Vấn đề dường như vẫn còn tồn tại.
Trong một vài khu vực, cuộc chiến đấu đã kết thúc và phụ nữ đã được tiếp nhận trên cơ sở là bình đẳng với nam giới trong mọi lãnh vực của sinh hoạt và công tác lãnh đạo Hội Thánh.
Tuy nhiên, sự thật là hằng ngàn Cơ-đốc nhân vẫn còn vật lộn với vấn đề này, và không dám chắc về lời truyền dạy của Thánh Kinh liên hệ đến vấn đề này. Họ cũng chưa chịu thuyết phục về các kết quả thực tiễn của những quyết định như thế sẽ đem đến cho sinh hoạt và cách hành đạo của Hội Thánh.
Đâu Là Vấn Đề Căn Bản?
Vấn đề này của các Cơ-đốc nhân liên quan với cách chúng ta hiểu và lý giải những khúc sách then chốt trong Thánh Kinh đề cập mối liên hệ giữa nam và nữ giới. GaGl 3:28 khẳng định rõ ràng quyền bình đẳng trong mối liên hệ giữa chúng ta với Chúa Cứu Thế Giê-xu “Sự chia rẽ kỳ thị giữa Do Thái và nước ngoài, giữa nô lệ và tự do, giữa nam và nữ đã chấm dứt, vì chúng ta đều hợp nhất trong Chúa Cứu Thế Giê-xu”. Trong thân thể Chúa Giê-xu, không còn có kỳ thị giai cấp và giới tính nữa, ở đó, tất cả chúng ta đều là anh em, chị em với nhau trong Chúa, và bình đẳng với nhau dưới chân thập tự giá.
Những khúc sách quan trọng gây nhầm lẫn và tranh cãi là ICo1Cr 11:1-16; 14:26-39 và ITi1Tm 2:8-15. Thêm vào những khúc sách này, còn có nhiều vấn đề liên hệ trong RoRm 16:1-2; Eph Ep 5:22-33; CoCl 3:18-25; ITi1Tm 3:1-13; Tit Tt 1:5-9; IPhi 1Pr 3:1-7.
Các vấn đề liên quan với công tác lãnh đạo của phụ nữ trong Hội Thánh thuộc các loại sau đây:
1. Việc một phụ nữ phải thuận phục chồng.
2. Việc hạn chế trong công tác giảng và dạy.
3. Việc đòi hỏi phải giữ im lặng trong những buổi nhóm lại thờ phượng công cộng.
4. Phẩm cách của các trưởng lão, giám mục và chấp sự.
Phụ Nữ Có Phải Thuận Phục Đàn Ông Không?
Nhiều xã hội ở Trung Đông và các nước thuộc thế giới thứ ba sẽ trả lời ngay là “có” cho câu hỏi này. Nhiều lãnh tụ trong Hội Thánh trong quá khứ và hiện tại cũng cảm thấy rằng Thánh Kinh dạy như thế.
Thuận phục chồng họ hay đàn ông nói chung?
ICo1Cr 11:3 thường được viện dẫn như chứng cứ hiển nhiên rằng phụ nữ phải thuận phục đàn ông nói chung: “Nhưng còn điều này tôi muốn nhắc anh em. Người nam là đầu người nữ, Chúa Cứu Thế là đầu người nam, Thượng Đế là đầu Chúa Cứu Thế”.
Cả khúc sách này (11:1-16) bàn về mối liên hệ đặc biệt giữa người nam và người nữ trong buổi nhóm thờ phượng công cộng. Phụ nữ được khuyên bảo phải trùm đầu lại, còn đàn ông thì được dạy là không nên làm như thế. Có một trong những vấn đề được khúc sách này đề cập khá dài là về tóc, và những người học hỏi nghiên cứu cũng như các học giả Thánh Kinh đều tranh luận là chẳng hay khúc sách này đòi hỏi một việc trùm đầu theo nghĩa đen (đội nón hay mũ) hoặc sự kiện đơn giản là tóc của phụ nữ được dùng như khăn trùm đầu là đủ rồi.
Hai câu 14,15 dạy rõ ràng: “Theo lẽ tự nhiên, người nam để tóc dài là tự sỉ nhục. Nhưng người nữ để tóc dài là làm vẻ vang cho mình vì người nữ được tóc dài để che phủ đầu mình”.
Toàn thể cuộc thảo luận được căn cứ vào lời truyền dạy của câu 3 liên hệ với lời khẳng định “người nam là đầu người nữ”. Phải chăng Thánh Phao-lô dạy rằng toàn thể phụ nữ đều ở dưới quyền và phải chịu sự lãnh đạo của toàn thể đàn ông?
Eph Ep 5:22-24 dạy: “Vợ phải tùng phục chồng như tùng phục Chúa. Vì chồng là đầu vợ, như Chúa Cứu Thế là đầu Hội Thánh, Ngài cứu chuộc Hội Thánh, là thân thể Ngài. Cũng như Hội Thánh vâng phục Chúa Cứu Thế, vợ phải vâng phục chồng trong mọi việc”.
Câu “là đầu vợ” cũng giống như câu trong ICo1Cr 11:3, ngoại trừ ở đây, bản dịch Việt văn vạch rõ rằng từ ngữ chỉ “vợ” ám chỉ vợ của chính
Thánh Kinh dạy người vợ phải vâng phục
chồng mình , chứ không phải vâng phục
chồng của một người khác
hay bất kỳ một người đàn ông nào khác .
người đàn ông ấy. Từ ngữ Hi văn (gunaikes) có thể chỉ một phụ nữ nói chung, dù còn độc thân hay đã có chồng, hoặc một người vợ. Văn cảnh phải xác định cách dịch của bản Việt văn là đúng.
Thánh Kinh luôn luôn truyền dạy trước sau như một, mà không hề tự mâu thuẫn. Câu trong ICo1Cr 11:3 đề cập quyền lãnh đạo của người chồng trên chính vợ mình, chứ không phải là của toàn thể đàn ông trên tất cả phụ nữ! Thánh Kinh dạy người vợ phải vâng phục chồng mình, chứ không phải vâng phục chồng của một người khác hay bất kỳ một người đàn ông nào khác.
Trong buổi nhóm thờ phượng công cộng.
Cùng một vấn đề ấy cũng thấy có ở 14:26-39 là khúc sách đề cập cách dùng lời tiên tri và nói tiếng lạ trong các buổi nhóm thờ phượng công cộng trong nhà thờ. Chúng ta đọc thấy mấy câu 34-36 chép như sau:
“Đàn bà phải nín lặng trong đám hội của anh em, họ không có phép nói tại nơi đó, nhưng phải phục tùng cũng như luật pháp dạy. Nhược bằng họ muốn học khôn điều gì, thì mỗi người trong đám họ phải hỏi chồng mình ở nhà; bởi vì đàn bà nói lên trong Hội Thánh là không hiệp lẽ. Có phải là đạo Đức Chúa Trời ra từ nơi anh em, hoặc chỉ đến cùng anh em mà thôi chăng?”
Một lần nữa, văn cảnh vạch rõ chữ “phụ nữ” ám chỉ “các bà vợ” chứ không phải là phụ nữ nói chung. Lời răn bảo này đề cập người vợ phải vâng phục quyền lãnh đạo của chồng mình, và khuyên người ấy đừng lên tiếng trong một buổi họp mặt công cộng, vì làm như thế có phương hại đến vai trò và trách nhiệm của chồng mình với cuơng vị một người lãnh đạo trong gia đình. Việc phải làm là nên hỏi riêng chồng mình lúc còn ở nhà.
Cùng một vấn đề như thế cũng thấy có trong ITi1Tm 2:8-12
“Vậy, ta muốn những người đàn ông đều giơ tay thánh sạch lên trời, mà cầu nguyện khắp mọi nơi, chớ có giận dữ và cãi cọ. Ta cũng muốn rằng những người đàn bà ăn mặc một cách gọn ghẽ, lấy nết na và đức hạnh giồi mình, không dùng những tóc gióc, vàng, châu ngọc và áo quần quí giá, nhưng dùng việc lành, theo lẽ đương nhiên của người đàn bà tin kính Chúa. Đàn bà phải yên lặng mà nghe dạy, lại phải vâng phục mọi đàng. Ta không cho phép đàn bà dạy dỗ, cũng không được cầm quyền trên đàn ông, nhưng phải ở yên lặng”.
Khi Thánh Kinh chép “Phụ nữ...phải yên lặng học hỏi với tinh thần vâng phục” là ám chỉ việc một người vợ phải vâng phục chồng mình. Khi văn bản chép “Phụ nữ không được dạy dỗ hay cầm quyền trên đàn ông” ta phải hiểu “đàn ông” ở đây là chính người chồng của người phụ nữ ấy (như trong bản dịch trên đây).
Hi văn dùng hai từ ngữ để chỉ người đàn ông. Chữ thứ nhất (anthropos) chỉ người đàn ông nói chung. Chư kia (aner) đặc thù (cụ thể) hơn và rất cần thiết cho một văn cảnh, nếu cách lý giải ám chỉ “một người chồng”. Trong tất cả ba trường hợp, ICo1Cr 11:3; 14:34-36; ITi1Tm 2:11-12, từ ngữ Hi văn chỉ “chồng” đều do aner chứ không phải anthropos, mà ra.
Thượng Đế rất quan tâm đến mối liên hệ giữa một phụ nữ với chồng mình, và bức thông điệp ấy thật rõ ràng. Vợ phải vâng phục chồng mình, chứ không phải một người đàn ông nào khác. Sự vâng phục này không liên hệ đến các trách nhiệm nói chung là vâng phục nhà cầm quyền vốn là trách nhiệm chung của cả người nam lẫn người nữ, nó liên hệ với mối liên hệ đặc biệt và có một không hai với chính người chồng của người phụ nữ ấy. Bà ta không nên dành sự vâng phục có một không hai ấy cho bất cứ một người đàn ông nào khác, nhưng chỉ dành cho chồng mình mà thôi.
Hội Thánh không hề bác bỏ, xem thường hay thay đổi mối liên hệ của một người vợ với chồng mình. Có một số tôn giáo và giáo hội trọng nam khinh nữ đã tìm cách thuyết phục các bà vợ phải vâng phục các cấp lãnh đạo giáo hội y như họ vâng phục chính chồng họ vậy. Hậu quả luôn luôn là tai hại và làm tan vỡ đạo vợ chồng cũng như các mối liên hệ gia đình.
Phụ Nữ Có Thể Giảng Dạy Không?
Điều đầu tiên chúng ta cần đề cập là điểm khác nhau rõ ràng giữa “bục giảng” trên toà giảng của nhà thờ, hay tại một giảng đường, và “giá đứng dạy” trong một lớp học Trường Chúa Nhật. Một số các Hội Thánh cho phép phụ nữ dạy dỗ trong các lớp học của Hội Thánh, nhưng tin rằng cho phép một phụ nữ đứng sau tòa giảng của nhà thờ là sai lầm. Loại tư tưởng này chen vào, khiến cho vấn đề thêm rắc rối. Nhưng bục giảng hay giá đứng dạy đều chỉ là những vật dụng vô thưởng vô phạt, có thể được sử dụng và nhìn vào theo cách mà chúng ta cho là thích hợp. Thánh Kinh không có chỗ nào phân biệt việc này cả.
Như chúng ta đã ghi nhận, ICo1Cr 11:1-16 đề cập các phụ nữ “nói tiên tri” trong những buổi nhóm công cộng của Hội Thánh. Có người tin rằng điều này ám chỉ việc nhận được một mặc khải đặc biệt và trực tiếp do sự thúc giục của Thượng Đế vào chính khoảnh khắc ấy, và nó phải được chia sẻ tức khắc. Nhiều người khác hiểu từ ngữ “nói tiên tri” có nghĩa là truyền giảng trước công chúng.
Giới từ “trước” trong từ ngữ Hi văn có thể có nghĩa là “trước khi một việc gì đó xảy ra” hoặc “trước mặt” (đối mặt, đối diện) với một nhóm người hay một đám cử tọa. Quan điểm sau này vốn được sử dụng phổ biến nhất để lý giải bối cảnh của Thánh Kinh vào thời kỳ ấy. Cho dù việc nói trước công chúng là về các biến cố tương lai hay chỉ đơn giản là rao truyền điều Thượng Đế đã phán dạy, cho dù đó là sử ký của quá khứ hay tiên báo các biến cố tương lai, đều chẳng ảnh hưởng gì đến vấn đề của chúng ta ở đây. Sự kiện là phụ nữ đã có tham gia công tác truyền giảng Lời Chúa trong hội chúng đông người của Hội Thánh.
Trong Thánh Kinh, có vài phụ nữ đã được gọi là “nhà tiên tri”. LuLc 2:36 đề cập một nữ tiên tri tên là An-ne. Đê-bô-ra, vị lãnh tụ chính trị đã phán xét dân Y-sơ-ra-ên, được Cac Tl 4:4 gọi là một nữ tiên tri. Nhà truyền đạo Phi-líp có bốn con gái là các nữ tiên tri (Cong Cv 21:9). Sự kiện đơn giản là: nhiều phụ nữ đã từng tham gia công tác truyền giảng Lời Chúa cách công khai.
Vấn đề nẩy sinh khi chúng ta cân nhắc các từ ngữ trong ITi1Tm 2:12 “Phụ nữ không được (phép) dạy dỗ hoặc cầm quyền trên chồng mình nhưng phải yên lặng”.
Như đã nêu rõ trước đây, các từ ngữ ở đây phải dịch ra là “vợ” và “chồng”. Nghĩa của động từ “dạy dỗ” chưa chia được làm sáng tỏ do phần câu song đối với nó, là “cầm quyền”. Vấn đề ở đây là mối liên hệ vợ chồng. Một người vợ chẳng bao giờ nên “phá hoại ngầm” uy quyền của người chồng trên mình. Uy quyền của người chồng là chiếc dù mà Thượng Đế dùng để che cho người vợ, là vinh dự của cuộc đời người vợ.
Nếu được người chồng cho phép và khích lệ, chẳng có lý do gì để một người vợ không thể thực thi các ân tứ dạy dỗ hay truyền giảng, nhưng việc này sẽ luôn luôn có thể nguy hiểm cho lời truyền dạy của Thánh Kinh liên hệ đến hôn nhân. Dạy dỗ Lời Chúa đã trở thành một vấn đề về uy quyền.
Bộ Sách Kỳ Diệu này mặc khải những gì Thượng Đế đã phán dạy. Chúng ta vẫn luôn đọc thấy trong bộ sách ấy câu “Đức Giê-hô-va phán vậy” và “có lời của Đức Giê-hô-va phán cùng tôi như vầy”. Những câu khẳng định đó vang lên với uy quyền từ chính Thượng Đế.
Thượng Đế đã ban cho vợ tôi ân tứ quan trọng
là dạy dỗ và tài lãnh đạo . Tôi đứng đàng sau
để hậu thuẫn 100% cho bà ấy ,
và như thế là ...tôi cho phép bà ấy ....
Trong một cuộc hội thảo về hôn nhân do tôi hướng dẫn mấy năm trước đây, tôi có phỏng vấn một phụ nữ có các ân tứ lãnh đạo, có tài năng quản trị và dạy dỗ nổi bật. Vì chủ đề của buổi hội thảo cá biệt hôm ấy là vợ phải vâng phục chồng, nên cử tọa nhận thấy trường hợp của bà này là một thí dụ đặc biệt hấp dẫn. Câu hỏi được nêu lên cho bà ta là: “Bà làm thế nào để vừa thực thi quyền lãnh đạo trong Hội Thánh, mà đồng thời cũng vâng phục chồng mình?”
Đến đây, tôi đã chen vào trước khi bà ta trả lời. Do biết có chồng bà đang ngồi ở hàng ghế đầu, tôi bảo với cử tọa: “Tại sao chúng ta lại không hỏi chồng bà, xem ông giải quyết vấn đề này như thế nào?” Tôi vốn biết chồng bà ấy rất rõ. Ông ta không thích nói nhiều. Ông thuộc loại người mạnh mẽ, trầm lặng. Ông thích làm việc bằng đôi tay của mình và quả thật đáng mặt trượng phu, một cựu lực sĩ, cao to, có sức mạnh. Tôi sẽ không dễ dàng quên câu trả lời của ông ta hôm ấy. Ông miễn cưỡng lên máy vi âm, bảo nhỏ với tôi rằng tôi “phải nợ ông ta một điểm về việc này”, rồi bắt đầu trả lời câu hỏi nọ bằng mấy lời sau đây:
“Thượng Đế đã ban cho nhà tôi ân tứ quan trọng là dạy dỗ và tài lãnh đạo. Tôi đứng phía sau để hậu thuẫn 100% cho bà ấy, và như thế là...tôi cho phép bà ấy”. Cử tọa tự nhiên đồng loạt vỗ tay tán thưởng. Đây là một trong những khoảnh khắc hiếm hoi đã lưu giữ lâu dài trong ký ức tôi.
Các bà vợ cần được chồng mình hậu thuẫn, khích lệ và cho phép. Nếu thiếu những điều đó, nhiều vấn đề thường xảy ra trong chức vụ của người vợ. Khi được chồng nâng đỡ, các vấn đề sẽ tan biến và người phụ nữ thực thi quyền lãnh đạo của mình có hiệu quả. Đàn ông sẽ đáp lại quyền lãnh đạo của một phụ nữ khi họ biết rằng chồng của người phụ nữ ấy hậu thuẫn cho vợ mình, và chẳng hề có vấn đề gì trong mối liên hệ vợ chồng giữa họ với nhau.
Phụ Nữ Có Thể Được Tấn Phong Mục Sư Không?
Trong một số các hệ phái, quí vị mục sư được xem như trưởng lão. Trong trường hợp này, lời truyền dạy của Thánh Kinh không cho phép một phụ nữ làm mục sư. Trưởng lão, giám mục phải là những người làm chồng, làm cha. Tuy nhiên, nếu một chi hội địa phương nào đó có các trưởng lão vốn là những nguời chồng, người cha rồi, và không tự động xem mục sư của họ là trưởng lão, thì về phương diện “kỹ thuật” mà nói, một phụ nữ có thể được sử dụng làm mục sư mà không vi phạm lời truyền dạy của Thánh Kinh liên hệ đến các trưởng lão, giám mục. Các trưởng lão của Hội Thánh có thể dùng chức vụ của một phụ nữ như một mục sư, mà vẫn còn giữ được thẩm quyền tối cao để đưa ra các quyết định và các chính sách của Hội Thánh ấy.
Đây không phải là một vấn đề dễ giải quyết, và nó đã trở thành một điều hết sức nghiêm trọng, gây nhiều tranh cãi giữa các Cơ-đốc nhân. Tôi còn nhớ điều khó khăn khoảng 20 năm về trước, khi có một phụ nữ ở trong một ủy ban mục vụ của Hội Thánh. Hội Thánh của chúng tôi đã có một bước tiến mạnh bạo, là đưa một phụ nữ vào một địa vị then chốt trong ủy ban ấy. Bà này không phục vụ với tư cách trưởng lão, nhưng được các trưởng lão dùng để phục vụ và họ khích lệ chức vụ của bà. Mọi việc đều chứng tỏ là mọi người chúng tôi được phước lạ lùng.
Từ đó trở đi, tôi được đặc ân cùng làm việc với nhiều phụ nữ trong công tác lãnh đạo, nhiều ủy ban mục vụ, nơi tôi phục vụ. Các phụ nữ này đã có đời sống và nêu gương tốt về đạo đức tin kính, chứng minh được rằng phụ nữ có thể được dùng vào công tác lãnh đạo các chi hội địa phương khi họ không phục vụ với tư cách trưởng lão, mà chỉ hoạt động dưới quyền các trưởng lão.
Tôi từng thấy nhiều gương tốt trong công tác lãnh đạo, quản trị, cũng như tài năng dạy dỗ của nhiều phụ nữ đạo đức tin kính. Các nỗ lực kìm hãm, muốn ngăn trở phụ nữ trong công tác lãnh đạo là chống lại sự phát triển và có hại cho công việc của Hội Thánh. Sử dụng phụ nữ trong công tác lãnh đạo không nhất thiết là vi phạm lời truyền dạy của Thánh Kinh.
Bao lâu phần lớn các Hội Thánh còn xem quí vị mục sư truyền và dạy đạo của mình là trưởng lão, thì thật là khó cho các phụ nữ được phong chức và phục vụ trong các chức vị ấy. Địa vị đầy uy quyền mà chức vụ truyền và dạy đạo dành cho một người, là vấn đề độc nhất khiến các bà vợ không nên tiếm quyền chồng họ. Đây là một vấn đề khó giải quyết, nhưng không phải là không thể vượt qua. Các phụ nữ đạo đức tin kính sẽ biểu hiện thế quân bình tế nhị giữa việc quyết tâm sử dụng các ân tứ của họ để phục vụ Chúa, với ước muốn tuân thủ các lời răn bảo của Kinh thánh về mối liên hệ giữa một người làm vợ với chồng mình.
Thế Nào Là Một Phụ Nữ Tin Kính Đạo Đức?
Tit Tt 2:3-5 đưa ra cho chúng ta lời chỉ giáo cần thiết về các phụ nữ muốn phục vụ với tư cách các cấp lãnh đạo trong Hội Thánh của Chúa:
“Các bà già cũng vậy, phải có thái độ hiệp với sự thánh, đừng nói xấu, đừng uống rượu quá độ; phải lấy đều khôn ngoan dạy bảo, phải dạy đàn bà trẻ tuổi biết yêu chồng con mình, có nết na, trinh chánh, trông nom việc nhà, lại biết ở lành, vâng phục chồng mình, hầu cho đạo Đức Chúa Trời khỏi bị một lời chê bai nào”.
Từ ngữ “cũng thế” khiến lời dạy về các phụ nữ đạo đức tin kính này phải được đưa ra đối chiếu trực tiếp với lời dạy những người có tuổi (2:2) và các thanh niên (2:6-8). Đây là một phần của điều đã được mô tả là “giáo lý thuần chánh”. Giáo lý thuần chánh là lời truyền dạy “lành mạnh” ảnh hưởng đến nếp sống của người tin vào đó. Có ba điều được nói về các phụ nữ đạo đức tin kính.
1. Một phụ nữ đạo đức tin kính quan tâm đến mối liên hệ giữa mình với Chúa . Người như thế được mô tả là người “có nếp sống khả kính”. Từ ngữ “khả kính” ám chỉ một cái gì thiêng liêng cũng như thích hợp hay đứng đắn. Cách ăn ở cư xử của người ấy phù hợp với Thượng Đế và các định chuẩn của Ngài.
Người phụ nữ như thế có những niềm tin đặt cơ sở trên Lời Thượng Đế, chứ không phải trên các ý kiến riêng của mình. Trong tất cả những gì người ấy truyền dạy, nội dung đều được tập trung vào điều tự nó vốn là thiện hảo hoặc đức hạnh. Câu “dạy đạo lý” trong 2:3 đề cập những điều có tính cách luân lý đạo đức.
Câu 5 vạch rõ lời làm chứng và tiếng tốt rất quan trọng cho người phụ nữ ấy. Người như thế không muốn cho Lời Chúa bị xúc phạm (nói xấu, gièm pha). Đời sống của một phụ nữ như thế luôn luôn làm chứng rằng mình là một người đồng hành với Chúa, và quan tâm để cuộc đời và cách ăn ở cư xử của mình sẽ là những mẫu mực trước mắt người khác.
2. Một phụ nữ đạo đức tin kính biết tự chế trong cách đáp ứng với tha nhân . 2:3-5 mô tả người phụ nữ ấy biết tự chế trong một số lãnh vực:
a. Tự chế lời nói “không ngồi lê đôi mách”
b. Tự chế về mặt xã hội “không ghiền rượu”
c. Tự chế tình cảm “khôn khéo” (bản Anh văn dịch là sensible: nhạy cảm)
d. Tự chế về mặt tình dục “trinh chánh”
e. Tự chế bản thân “hiền hòa” (chỉ làm những gì có ích, có lợi cho tha nhân mà thôi)
Các phụ nữ đạo đức tin kính biết tự chế bản thân. ITi1Tm 3:11 chép rằng các phụ nữ lãnh đạo phải “nghiêm trang, không ngồi lê đôi mách, phải điều độ, trung tín trong mọi việc”. 2:9-10 thêm: “Phụ nữ phải ăn mặc đứng đắn, giản dị và thích hợp. Phụ nữ đã tin Chúa không nên phô trương kiểu tóc, vàng ngọc hay áo quần quí giá nhưng phải trang sức bằng việc lành”.
Ăn mặc “đứng đắn” ám chỉ cách ăn mặc gọn gàng, sạch sẽ. Khi một phụ nữ ăn mặc giản dị và thích hợp, là người ấy chẳng những chỉ quan tâm đến các ý thích của mình, mà còn thận trọng không khêu gợi dục tính của đàn ông nữa. Người ấy không để cho nết đẹp bên trong của mình bị sự phô trương bề ngoài che lấp đi. Thượng Đế không chống lại các món trang sức, kiểu tóc hay y phục đẹp. Ở đây Ngài cảnh cáo tánh phô trương, việc tin cậy vào bề ngoài mà chẳng quan tâm gì tới bên trong. IPhi 1Pr 3:3-4 chép như thế này:
“Chớ tìm kiếm sự trang sức bề ngoài như gióc tóc, đeo đồ vàng, mặc áo quần lòa loẹt; nhưng hãy tìm kiếm sự trang sức bề trong giấu ở trong lòng, tức là sự tinh sạch chẳng hư nát của tâm thần dịu dàng im lặng, ấy là giá quí trước mặt Đức Chúa Trời”.
Các phụ nữ đạo đức tin kính ăn mặc là để làm đẹp lòng Chúa và chồng mình. Họ không tìm cách quyến rũ hay dụ dỗ các đàn ông khác ngoài chính chồng họ bằng cách ăn mặc của mình. Thế giới của chúng ta vốn thiếu thận trọng trong các vấn đề này. Nhưng các Cơ-đốc nhân thì bước đi theo một nhịp điệu khác hẳn với người thế gian. Chúng ta phải thường xuyên đánh giá tất cả những gì mà thế gian đề xuất và khuyến khích chúng ta mua sắm và ăn mặc, nhất là trong lãnh vực y phục. Khi chọn y phục, chúng ta phải tự vấn: Ăn mặc như thế thì có đẹp lòng Chúa không? Nó có khuyến khích, quyến rũ về mặt tình dục và khiến người khác tin rằng chúng ta đang muốn sống buông thả, “thác loạn” không?
3. Một phụ nữ đạo đức tin kính đảm nhiệm việc nội trợ . Lúc chúng tôi làm giấy tờ thuê nhà, nhân viên phụ trách công tác ấy hỏi nhà tôi: “Và thưa bà Hocking, thế bà công tác ở đâu ạ?” Nhà tôi đáp: “Tôi làm công tác nội trợ”. Viên chức ấy hỏi vặn: “Nhưng, bà có một việc làm thường xuyên không ạ?” Nhà tôi nói: “Đó là việc làm thường xuyên của tôi, một công việc tốt nhất trên đời đấy!”. Sau câu trả lời đó, viên chức nọ quyết định tiếp tục thảo luận với chúng tôi.
Một phụ nữ đạo đức tin kính là một người yêu chồng, yêu con (Tit Tt 2:4). Từ ngữ Hi văn ở đây vốn do gốc philia mà ra, ám chỉ loại tình yêu thương bao gồm cả tình bạn thân thiết. Một phụ nữ đạo đức tin kính là một người bạn thiết của chồng, con mình. Việc người ấy coi trọng nhà riêng được phản ảnh trong câu “biết tề gia nội trợ”.
Người phụ nữ trong ChCn 31:10-31 rất siêng năng, biết kinh doanh nhiều ngành nghề và thông thạo việc hối đoái, nhưng tề gia nội trợ là trách nhiệm và là đặc quyền hàng đầu. Người phụ nữ đạo đức tin kính thành thật kính trọng địa vị và quyền lãnh đạo của chồng mình. Như văn bản chép, người ấy “tùng phục chồng, hầu cho đạo Thượng Đế không bị xúc phạm”.
Các phụ nữ đạo đức tin kính rất cần cho công tác lãnh đạo trong các Hội Thánh của chúng ta - các phụ nữ không vi phạm các định chuẩn của Thánh Kinh là biết vâng phục chồng mình, không muốn tiếm quyền chồng. Các phụ nữ đạo đức tin kính không tìm cách trở thành các trưởng lão của Hội Thánh hay chiếm đoạt các địa vị có uy quyền để chứng minh rằng họ bình đẳng với đàn ông. Họ là các tôi tớ của Chúa, biết sử dụng các ân tứ lãnh đạo, quản trị và dạy dỗ của mình để nêu gương cho người khác và làm đẹp lòng Chúa. Chúng ta cần họ, và cầu xin Chúa tăng thêm số người như thế trong các chi hội địa phương của chúng ta!
BẢNG KIỂM ĐIỂM CỦA NGƯỜI LÃNH ĐẠO
1. Phụ nữ có phải vâng phục đàn ông không?
2. Theo ý bạn thì tại sao phần lớn các Hội Thánh không thích sử dụng phụ nữ trong các địa vị lãnh đạo then chốt?
3. Bạn có những gương tốt nào để nêu ra về các phụ nữ trong Thánh Kinh từng được sử dụng vào các vai trò lãnh đạo như thế nào?
4. Tại sao phụ nữ không thể làm trưởng lão hoặc giám mục trong Hội Thánh?
5. Bạn có tin rằng phụ nữ có thể làm mục sư cho các chi hội địa phương không? Tại sao?
6. Vấn đề liên hệ với việc phong chức (mục sư) cho phụ nữ là gì?
7. Thế nào là một phụ nữ đạo đức tin kính?
8. Bạn có thể đưa ra một thí dụ về một phụ nữ hiện đang là cấp lãnh đạo, dường như đã hoàn thành các trách nhiệm theo Thánh Kinh dạy, và vẫn giữ được sự vâng phục chồng mình như một phụ nữ đạo đức tin kính không? Bạn thấy nơi người phụ nữ ấy có những đức hạnh nào mà người khác có thể noi theo?