Lời dạo đầu
“Tết nhất làm chi? Ai bày Tết nhất làm chi. Lo quần lo áo…”
Bản nhạc của ban AVT ngày nào, qua xứ này không còn hợp thời nữa. Quần áo người nào cũng đầy tủ, còn không đầy tủ thì cũng đầy đủ. Nợ nần thì chẳng ai réo gọi hết, cứ tự động check online là biết ngay.
Ấy vậy mà vẫn có người “rên”:
Tết nhất làm chi? Ai bày Tết nhất làm chi.
Báo Xuân chưa có, là điên cái đầu.
Muốn “lờ” cũng chẳng xong đâu.
Người ta thắc mắc, thôi đành làm thôi.
Trang web của Đại Học Khoa Học Sài Gòn từ lâu chỉ có mỗi một tờ báo Xuân.
Cũng đành nhắm mắt phóng tay,
Viết bậy ba chữ bà con đừng rầy.
Lệ Chi cần réo đích danh
Anh kia chị nọ mau mau cứu bồ.
Chứ mà cứ nói khơi khơi
Hoan hô tự giác còn lâu mới có bài.
Đừng chờ tự giác Chi ơi.
Tự giác tự sát tự tiêu tán đường.
Web chết thành bãi tha ma,
Chỗ đâu chọc ghẹo, buồn tênh tuổi già.
******
Buồn vui ngày Tết
Từ ngày ra hải ngoại sống ở miền Đông Bắc Mỹ, ít người Việt, tôi không còn ăn Tết nữa. Vả lại Tết Việt Nam nhằm ngày thường phải đi làm, nên hầu hết các gia đình người Việt không còn lo lắng cho chuyện đón Tết truyền thống.
Nhập gia tùy tục. Nhà nào cũng sum họp ăn uống vào ngày Thanksgiving, Christmas hay New Year, vì đó là ngày nghỉ của tất cả mọi người trong nước. Tuy vậy những người già (như chúng ta) vẫn nhớ Tết. Tết là một cái gì thật thiêng liêng đã ăn sâu vào tâm khảm của mọi người. Tết như một cuộn phim quay ngược thời gian. Chúng ta có thể nhớ tới những ngày Tết khi còn ấu thơ được tiền lì xì, những đồng tiền nhỏ nhoi mà sao đứa trẻ nào cũng vui mừng hớn hở. Bây giờ tuổi đời đã cao, nhiều người có trong tay rất nhiều tiền, nhưng không bao giờ có cảm giác vui mừng như ngày xưa được tiền lì xì.
Quần áo thì đầy tủ, nhưng cái cảm giác sung sướng khi được khoác bộ quần áo mới vào ngày Tết không còn nữa. Nhiều nhà nghèo, ngày Tết là ngày được mặc bộ quần áo mới, hơi rộng một chút cũng không sao, vì đó là bộ quần áo để dành cho niên học tới. Có đồ mới mặc là mừng rồi, không hề thắc mắc: quần áo đi chơi mà giống đồng phục nhà trường, quần xanh áo trắng.
Quần áo mới quan trọng với trẻ em (nghèo) đến độ có câu ca dao:
Già được bát canh, trẻ manh áo mới.
Ngày Tết dù nghèo đến đâu, người ta cũng rán có một ít thức ăn để cúng Ông Bà. Vì vậy người ta mới nói “đói ba ngày Tết”, tức là không có chuyện đói vào ngày Tết.
Người Việt mình rất hiếu khách, ngày xưa khi đi một vòng chúc Tết họ hàng và bạn bè. Tới nhà nào cũng “bị” ăn, không bánh chưng bánh tét, thì cũng xôi chè. Khổ nỗi ai cũng bắt ngồi chờ, mang bánh mới trên bàn thờ xuống đãi khách. Ý nói mình được ưu đãi lắm, toàn thức ăn mới, chứ không phải là đồ còn dư, có nhà còn xẻ cả quả dưa hấu to đùng. Biết làm sao, đành phải ăn (hết), trong bụng thì ngán quá chừng.
Mọi thứ tập trung vào chuyện ăn, bởi vậy người ta mới gọi là ăn Tết.
Ký ức như một cuộn phim quay ngược thời gian. Nhưng con nít thì không chú ý tới thức ăn. Vì những món chơi đỏ đen cờ bạc trong xóm lao động hấp dẫn hơn: bầu cua cá cọp, bài cào, cát-tê, lô-tô, xì-dách, …
Trước Tết thì lên chợ Bến Thành đi nếm thử mứt, dạo chợ hoa Nguyễn Huệ. Tết về thì đi hội chợ, Giao Thừa đi lễ chùa xin xăm hái lộc. Tuổi nào có cái vui của tuổi đó. Còn nhỏ thì lúp xúp theo mẹ, lớn lớn một chút thì rủ một đám bạn cùng đi, ồn ào chọc phá. Tới khi có bạn trai bạn gái, thì không còn ồn ào nữa, mà ngại ngùng e lệ đi bên nhau.
Tết là ngày lễ thiêng liêng nhất trong năm, mọi thứ trong nhà phải sạch bóng. Người nào việc nấy, đàn ông con trai thì lo quét vôi, chùi lư hương trên bàn thờ. Con gái thì phụ mẹ lo làm dưa làm mứt. Tất cả mọi kỹ năng kỹ xảo đều dùng để thi thố trong dịp Tết.
Tôi còn nhớ mãi, anh tôi quăng một cục a-giao màu như mật ong vào thùng nước, và mấy tảng vôi to. Nước sôi lên ùng ục, sau đó gạn nước vôi qua một thùng khác, bỏ cặn lại. Chổi quét vôi là những bó tròn (như chổi lúa) có cán bằng gỗ. Căn nhà sau khi được quét vôi toát ra một mùi thơm ngát mát ruợi. Tôi vẫn còn nhớ mãi mùi thơm của vôi mới, mỗi khi trở về trường khi nhập học sau hè. Bây giờ người ta thay vôi bằng sơn vôi, hay sơn thường. Chẳng bao giờ tôi còn bị nhắc đừng dựa lưng vào tường khi vừa quét xong, vôi sẽ dính trắng xoá lưng áo. Cũng chẳng bao giờ tôi còn ịn tay vào tường để thấy tay mình dính vôi như phấn. Tất cả đã lùi vào quá khứ, cũng như mùi pháo Tết đêm Giao Thừa, cay mắt, nồng nặc và ngột ngạt, vĩnh viễn chẳng còn bao giờ có được.
Qua Mỹ những Tiểu Bang có nhiều người Việt, thành phố cũng cho đốt pháo. Nhưng tất cả phải tập trung đốt tại một chỗ có xe cứu hỏa đậu gần đó, lo có gì rủi ro. Còn Việt Nam ngày xưa thì đúng là điếc không sợ súng. Nhà tranh vách đất, nhà lá cũng vẫn đốt pháo như thường. Giàu đốt mấy chục thước pháo đùng, nghèo thì lẹt đẹt pháo chuột cũng vui.
“Tết chẳng riêng ai khắp mọi nhà”
Thành ngữ đốt tiền, vô cùng cụ thể khi xem đốt pháo. Các xe van chất đầy các loại pháo, đủ loại giá từ 10 đồng trở lên. Chỉ nhấp nháy chưa tới một phút là xong dây pháo 10 đồng. Không hiểu sao pháo bây giờ rất đa dạng, đủ kiểu vọt lên không trung, rồi uốn éo ra rất nhiều hình thù, xem hoài không chán.
Người ta chỉ được quyền đốt vài tiếng rồi thôi. Về nhà là bị cấm tuyệt. Nếu vì phạm sẽ bị phạt nặng. Ngay cả khi rước dâu cũng không có pháo. Nên khỏi lo có cảnh ngày nhà em pháo nổ anh cuộn mình trong chăn.
Ngày Tết nơi xứ người, không còn cảm giác náo nức hồi hộp khi xưa được đốt pháo ở nhà mình, sáng mùng một xác pháo màu hồng bay đầy sân. Nhà nào cũng thi đua đốt, chẳng hề nghĩ tới mọi rủi ro có thể xảy ra. Sau đó vì quá nhiều tai nạn xảy ra do làm pháo (vì dùng thuốc súng) và do đốt pháo. Nên chính quyền đã cấm vĩnh viễn chuyện đốt pháo vào ngày Tết Nguyên Đán.
Ngày thường mọi thứ tất bật không ai để ý tới hoàn cảnh của mỗi con người. Chỉ đến khi có lễ lộc, những ngày đoàn tụ gia đình, người ta mới nghĩ đến thân phận của mình.
Tôi có một người chị không lập gia đình, cứ mỗi khi lễ Tết chị đều mua vé đi chơi xa. Chị không muốn chứng kiến cảnh gia đình con cháu sum vầy. Chị ghi tên đi cruise, người ta lo hết, cũng vui đùa nhảy nhót. Hoặc chị tham dự tour đi hành hương lễ Phật ở những nơi thật xa. Bắt mình bận rộn để đừng nghĩ vẩn vơ. Thật sự ra đó chỉ là một phản ứng tiêu cực. Do mình suy nghĩ đó thôi, thay vì trốn chạy sự thật, chị có thể tìm niềm vui trong việc thiện: thăm cô nhi viện và viện dưỡng lão để thấy mình may mắn hơn người khi có một thân thể lành lặn và một trí óc còn minh mẫn.
Mọi mối dây liên lạc vợ chồng con cái cha mẹ bạn bè ở đời này, là duyên nợ của bao đời trước. Sống đời độc thân đâu có nghĩa là cô độc, thua thiệt. Hiện nay tỷ lệ người chọn cuộc sống độc thân rất cao. Nhất là ở những nước phát triển, cuộc sống gia đình gây quá nhiều áp lực. Nên người ta không muốn bị trói buộc bởi cơm áo gạo tiền.
Thôi thì cứ coi như có duyên thì hợp. Hợp rồi tan. Cũng như vòng tuần hoàn của thiên nhiên: Xuân Hạ Thu Đông.
Cũng như phước phần. Có người ăn cái gì cũng không thấy ngon, vì người ta không có phước về ăn. Mình đối xử tốt với người khác (vợ chồng con cái) là do người kia được phước hưởng. Còn mình không được những gì mình muốn vì không có phước đó, vậy thôi.
Ngày Tết là ngày trông ngóng người thân về đoàn tụ.
Tôi vừa viếng thăm một ông già 90 tuổi. Ông có 8 đứa con với người vợ đầu xấu số, qua đời vì tai nạn xe hơi khi còn rất trẻ. Ông ở vậy nuôi các con ăn học nên người. Mãi khi tuổi đã khá cao ông mới lấy người vợ thứ hai, nhưng cũng kịp cho ông thêm một mụn con trai. Đứa con cuối cùng của ông, nay cũng đã đến tuổi tam thập nhi lập.
Lo cho tất cả các con vượt biên, ăn học thành tài. Nhưng có ai biết rằng khi được tàu của quốc gia nào vớt, thì bạn phải tới định cư ở quốc gia đó. Bây giờ con cái của ông mỗi người ở một nơi, từ Âu Châu, Úc Châu, ngay cả ở những nơi lạnh lẽo nhất là Na Uy. Tuổi già sức yếu ông được đứa con cuối cùng bảo lãnh qua Mỹ.
Xéo bên nhà ông là một ngôi chùa, tôi ghé thăm ông khi dịp Xuân về. Đầu óc ông vẫn còn minh mẫn, chỉ có hai chân rất yếu, đi đứng khó khăn mà mọi người bảo ông lẩm cẩm, coi như đồ phế thải. Tôi ngồi nói chuyện với ông, chăm chú lắng nghe những lời ông nói, mà lòng rưng rưng xúc cảm.
Hàng ngày ông ngồi bên cửa sổ, dõi mắt nhìn ra. Cũng cùng một hình ảnh nhưng mỗi người nghĩ một cách khác nhau. Tôi giật mình khi nghe ông nói:
- Cô ơi, người ta chỉ còn là núm tro tàn, mà biết bao người thăm viếng. Tôi còn sống lù lù đây, mà chẳng có ai ngó ngàng.
Tôi thật sửng sờ, vội vàng an ủi:
- Nghe nói cậu Út phải đi họp ở Tiểu Bang xa. Chắc cũng sắp về tới.
Tôi cứ nói dối bừa cho ông cụ vui, chứ tôi nào có biết con ông đang ở đâu. Có điều tôi thấy khuôn mặt ông cũng lộ một chút hi vọng, bớt ảo não.
Rồi ông bảo muốn đi vệ sinh, bà vợ cuống quýt lôi ông hơi nhanh. Ông theo không kịp, suýt nhủi té. Ông thở hổn hển, bảo rằng:
- Bà đừng lôi tôi như thế, mai kia người ta cũng lôi bà như thế đấy.
Quay sang tôi, ông nhỏ nhẹ:
- Xin lỗi cô nhé, tôi thật là bất nhã.
Vì quần của ông đã ướt sũng rồi.
Tôi ấp úng:
- Có gì đâu bác. Ngày xưa bố mẹ cháu cũng vậy.
Tôi định nói rằng rồi ai cũng như ai. Cũng già cũng yếu, cũng nằm sâu dưới ba tấc đất. Đó là qui luật chung của con người sinh lão bệnh tử, bất kể giàu nghèo sang hèn.
Có người ghé thăm, ông mừng lắm. Và tôi đã học được nhiều điều, khi chuyện trò với một ông già đã bị lãng quên bởi mọi người xung quanh. Đừng quên rồi sẽ tới phiên mình.
Các bạn còn nhớ câu chuyện cái thúng hay cái chén bằng gáo dừa. Con trai bỏ cha già ngồi trong cái thúng rách, kéo vào rừng để khỏi mất công nuôi dưỡng, có dẫn theo thằng con nhỏ. Khi trở về, thằng con nhỏ, tới chỗ ông nội ngồi, mang cái thúng rách về. Người cha ngạc nhiên hỏi, mang về làm gì? Câu trả lời của đứa bé đã thức tỉnh được người con bất hiếu. Ông nội nó đã được về nhà đoàn tụ với gia đình.
Đêm Giao Thừa ở một nursing home toàn người Việt. Có một ông già suốt ngày hỏi thăm y tá về đứa con trai ở xa. Ông mong mỏi ngày đêm được thấy con mình. Nhưng con ông vẫn biền biệt bóng chim tăm cá. Chờ đến mỏi mòn, một ngày kia ông bắt đầu mê sảng, vẫn gọi tên con. Chợt cửa phòng bật mở, một anh lính trong bộ quân phục cũ mòn, nhào tới nắm chặt tay ông cụ, ghé tai ông thì thầm:
- Bố ơi, con là con trai của bố, con đã về đây.
Cánh tay gầy guộc của ông lão, trước khi hấp hối, lần trên khuôn mặt của người lính trẻ, miệng nở một nụ cười mãn nguyện, rồi từ từ nhắm mắt, trút hơi thở cuối cùng.
Chàng trai ôm ông cụ thật chặt, rồi vuốt mắt cho ông, tưởng tượng đây là cha ruột của mình.
Những người chăm sóc ông cụ đã mừng rỡ ùa đến hỏi thăm, nói rằng cuối cùng ông cũng toại nguyện gặp được con của ông. Anh lính lắc đầu, bảo rằng anh đã cố đi tìm cha của một đồng đội vừa hy sinh nơi chiến trường, để trao lại cho ông những kỷ vật của người đã mất. Khi tìm ra được địa chỉ của người dặn dò, thì anh biết được câu chuyện về ông già và anh đã hành xử như một người con đối với cha mình. Kỷ vật là tấm ảnh của một cậu bé con được bố ẵm trên tay với khuôn mặt rạng rỡ ngây thơ. Tấm ảnh này sẽ được đặt lên ngực người cha, cho lần hội ngộ cuối cùng. Bây giờ con lại nằm trên ngực cha như những ngày thơ ấu xưa.
Chàng trai từ giã mọi người, nhưng xin được tham dự tang lễ như người con thực sự của ông già cô đơn. Từ giờ trở đi, chàng trai đã coi ông cụ như chính người cha ruột của mình. Chàng sẽ có nơi lui tới thăm viếng mộ phần của người quá cố. Lòng chàng không còn u uất nữa, cuối cùng thì chàng cũng có một mái gia đình, có cha và người em trai đồng đội.
Quả thật con người ta không phải chỉ cần vật chất mới sống được. Những câu chuyện trong nursing home đã làm se sắt lòng người. Có những bà cụ bị bệnh lãng trí, con cái bỏ mặc. Vậy mà khi được cho ăn bánh chưng bánh tét là họ biết Tết đến. Bởi vì có những thứ đặc trưng cho ngày Tết.
“Thịt mỡ dưa hành câu đối đỏ.
Cây nêu tràng pháo bánh chưng xanh.”
Nhiều bà cụ cứ nói miên man thế nào con cháu cũng đón về nhà hôm nay. Có bà còn vẫy tay chào tạm biệt mọi người. Những người làm việc trong các nhà dưỡng lão chỉ lặng lẽ cúi đầu, vì họ biết rằng chẳng bao giờ con cháu họ sẽ ghé thăm. Dù đó là ngày Tết.
Tết đến mà không nói đến hoa, là một thiếu sót lớn, vì Tết là ngày đầu Xuân. Muôn hoa đua nở. Nhưng đặc biệt có hai loài hoa tiêu biểu tượng trưng cho ngày Tết ở Việt Nam: hoa đào của miền Bắc và hoa mai của miền Nam. Qua xứ người cũng có hoa đào, nhưng không giống hoa đào ở Việt Nam. Bên Mỹ những năm về đây, người ta cũng gây giống hoa mai. Nhưng mang về chưng trong nhà, sao thấy chẳng có hồn.
Nhớ khi xưa, nếu nhà ở gần rừng, thì vô rừng chặt một nhánh mai mang về. “Nếu mai không nở, anh đâu biết Xuân về hay chưa?” Anh lính chiến chỉ cần thấy hoa mai nở, là biết Tết. Nhà ở thành phố thì ra chợ hoa, cũng một rừng, tha hồ mà lựa.
Qua bên này người ta dùng hoa mai giả. Cái gì cũng giả: pháo giả, trầu cau giả.
Mọi thứ tục lệ dẹp hết: kiêng quét nhà, sợ quét hết tiền. Chọn người xông đất, vậy nếu UPS tới giao đồ có ra lấy không. Cái gì cũng kiêng, sợ giông. Chỉ sợ bị lay-off là không có tiền. Giông gì cũng không sợ, trừ giông bão.
Miệng thì nói vậy, nhưng buổi sáng mồng một Tết, ngày nghỉ thường lệ. Đang nằm ngủ bỗng nghe chuông điện thoại nhà. Chưa tỉnh ngủ nên còn nghe lơ mơ, một hồi mới biết nghĩa trang đang hạ giá đất chôn, người ta quảng cáo: “Buy one get one free”. Thiệt là trù ẻo, cho chết chùm luôn.
Tự dưng bỗng bực mình (chắc sợ giông), nạt ngang:
- You có biết hôm nay là New year của tui không?
Bên kia đầu dây ngạc nhiên:
- Why?
Người ta ngạc nhiên cũng phải, New Year thì mắc mớ gì không mua đồ on sale. Các shopping mall quảng cáo ầm ầm hạ giá đủ mọi thứ, thì nghĩa trang mời mình mua đất để chôn là phải rồi. Có điều tại mình cho chết là chuyện xui xẻo. Ngày Tết mà nói chuyện chết chóc thì sẽ giông cả năm. Miệng thì nói không mê tín, nhưng trong bụng cũng vẫn kiêng, không nói chuyện chết chóc vào ngày Tết.
Những ám ảnh đã ăn sâu vào trong đầu của chúng ta, đâu dễ gì bôi xóa được. Đông Tây không bao giờ hòa hợp. Khi đi ăn cưới người Mỹ họ thích màu đen, đàn bà có thể mặc nguyên bộ đầm đen sang trọng và lịch sự. Nhưng vô đám cưới người Việt, nếu phụ nữ mặc nguyên bộ đồ đen, thì họ bảo mình trù họ. Tôi nhớ ngày xưa mẹ tôi không bao giờ có một cái áo nào màu đen, dù là áo dài hay áo bà ba. Bố tôi bảo rằng chỉ có góa phụ mới mặc áo màu đen.
Bởi vậy vào ngày Tết (hồi xưa), không có ai mặc áo đen. Nhất là mặc áo đen mà đi xông nhà người ta, sẽ bị nghe chửi (rủa) cả năm. Bởi vậy hồi nhỏ mẹ dặn chúng tôi không được vô nhà ai hết. Vì nếu nhà ấy bị xui sẽ đổ thừa tại người xông nhà!
Người ta bảo rằng “Tết chẳng riêng ai khắp mọi nhà”.
Thế thì tôi cũng vẫn ăn Tết, nhưng mà là ăn tết “hàm thụ”. Ăn tết bằng tai và bằng mắt: nghe nhạc Xuân và đọc báo Tết.
Vì lẽ đó, ban biên tập của web Khoa Học Sài Gòn tránh trời không khỏi nắng đâu. Bởi vì người Việt Nam mình, chỉ cần thăm viếng nhau ngày Tết là đủ. Cả năm rán có một lần, kẻo không người ta tưởng mình homeless!
Lan man đầu cua tai nheo, nhắc chuyện ngày Tết, cho đỡ buồn vì ở nơi hiu quạnh.
Còn một việc không thể thiếu vào ngày Tết: đó là chúc nhau. Chúc các bạn: ăn được ngủ được suốt 365 ngày sắp tới. Vì người ta bảo:
Ăn được ngủ được là tiên.
Không ăn không ngủ tốn tiền (cho) đốc-tơ.