KHUYNH THÀNH

Tác giả: Tam Mao

Chuyển dịch: Vũ Thảo

Lời người dịch: Tam Mao là một nhà văn nữ nổi tiếng ở Đài Loan vào những thập niên 80. Bà tên thật là Trần Bình, học môn Triết Học ở trường Đại Học Văn Khoa của Đài Loan, từng du học Âu Châu, sau khi lập gia đình bà định cư ở Tây Ban Nha, viết một loạt tác phẩm lấy bối cảnh ở đó. Năm 1981, bà trở về Đài Loan dạy học ở trường Đại Học Văn Khoa, năm 1984, bỏ dạy, sống bằng nghề viết sách và diễn thuyết. Bà từ trần vào ngày 4/1/1991, hưởng dương 48 tuổi. Bà từng đi khắp nơi trên thế giới, tác phẩm của bà cũng vì đó mà rất phong phú. Suốt cuộc đời, bà viết tất cả 24 tác phẩm. “Khuynh Thành” là một trong những truyện ngắn làm rung động lòng người, vì tính chất lãng mạn của câu chuyện.

XXXXXXXXXXXXX

Năm 1969, tôi sống ở Tây Bá Linh. Nơi tôi ở là một căn phòng ký túc xá dành riêng cho sinh viên của trường Đại Học “Tự Do”. Ký túc xá đại học này là một căn lầu 3 tầng gồm khoảng mười mấy phòng, nằm riêng trong khu rừng nhỏ bên cạnh bờ hồ.

Tôi dùng cái bằng Triết Văn của trường Đại Học ở Tây Ban Nha để theo học Triết Học ở trường Đại Học “Tự Do” của Tây Bá Linh. Sau khi diện kiến giảng sư phụ trách môn học này, mọi chuyện đều thông qua, chỉ có điều kiện về ngôn ngữ của tôi là con số không. Trường yêu cầu tôi phải cấp tốc vào “Học Viện Ngôn Ngữ Đức” trong vòng 1 năm, nếu tôi có thể thông qua các cuộc thi khảo sát trong lớp học, lấy được cái bằng cao cấp về Đức ngữ, thì sẽ được vào trường Đại Học “Tự Do” mà học Triết Học. Còn căn phòng của ký túc xá, là do họ phân phối trước cho tôi.

“Học Viện Ngôn Ngữ Đức” có rất nhiều chi nhánh trên khắp thế giới, các loại học viện như thế, phần lớn là dùng để trao đổi văn hóa với các nước khác, vì vậy dĩ nhiên là người ta có thể theo học Đức ngữ ở đó. Trong phạm vi Đức Quốc, Học Viện này chẳng những có học phí rất cao, mà đồng thời cách giảng dạy của họ cũng theo nhịp độ và phương pháp cấp tốc.

Mỗi ngày ngoài 5, 6 tiếng đồng hồ nghe bài giảng trong lớp, phần bài làm và học thuộc lòng ở nhà, không biết các bạn cùng lớp bỏ bao nhiêu thì giờ cho nó, chứ riêng tôi thì ít nhất phải ngồi trước bàn học khoảng 16, 17 tiếng đồng hồ cho sự học hành. Dĩ nhiên, đó là loại học trò rất mực siêng năng. Các bạn khác đi học ngôn ngữ có thể không có mục đích nặng nề như tôi, vì tôi là một sinh viên đi du học nhờ vào tiền cung cấp của gia đình. Cha tôi phải làm việc miệt mài để có tiền gửi sang cho tôi trang trải chi phí. Dưới áp lực nặng nề như thế, lòng tôi nóng nảy muốn có kết quả nhanh chóng cho gia đình, vả lại, tôi lại là một người háo thắng, không muốn mình đứng thứ nhì trong lớp. Mỗi giờ trong lớp học và bài làm đều phải được số điểm tối đa, như thế mới giảm bớt được cảm giác tội lỗi ngự trị mạnh mẽ trong lòng tôi.

Sau khi cần cù học tập suốt 3 tháng trời, giáo sư của trường gọi tôi đi thu âm, lần đó tôi đạt được kỷ lục của trường một cách vinh quang, một người trẻ tuổi cách 3 tháng trước không hề biết nói cả câu chào bằng Đức ngữ, mà sau 3 tháng huấn luyện, cách phát âm, vần điệu và văn phạm đều diễn tả một cách vô cùng chính xác. Lần đó, thầy giáo của tôi cảm thấy rất hãnh diện, trên cái bằng Đức ngữ sơ cấp của tôi, ông đã phê vào: Tối Ưu.

Cầm lấy tờ thành tích biểu, tôi chạy như bay đến bưu điện, đánh cái điện tín về cho cha mẹ. Dưới trời mưa tuyết lạnh mông lung, đánh xong cái điện tín, trong lòng hạnh phúc đến độ rớt nước mắt, đó là cái cảm giác thỏa mãn đến chỉ muốn khóc to lên mà không nói được tiếng nào. Dĩ nhiên trong đó bao gồm cả mấy tháng trời vật lộn với sách vở, đời sống không có một chút thú vui, không có một chút hưởng thụ vật chất, mà cũng chẳng có một chút thì giờ để sống đời sống mà đáng lý ra một cô gái đang tuổi xuân thì phải có, có chăng chỉ là nỗi chua xót và ngậm ngùi. Ba tháng trời đó, phần lớn tôi ăn bánh mì khô, nếu không là bánh mì đen chấm nước soup.

Không phải tôi hoàn toàn không có bạn trai. Lúc đó, bạn trai của tôi là một sinh viên người Đức, anh đang miệt mài viết luận án ra trường, nhất quyết là sau này sẽ vào được Bộ Ngoại Giao.

Ở Đức, người bạn tôi thi hành kỷ luật với mình thật nghiêm khắc, kể cả lúc đi ngủ, anh cũng để cái máy cassette nhỏ ở dưới gối, nghe lại phần bài học đã học trong ngày, anh nói, dù rằng phần nhục thể đã ngủ, nhưng phần tiềm thức nghe bài học cũng có tác động rất tốt. Anh không chịu để phí một phút nào cho phần lãng mạn của ái tình, chúng tôi có gặp mặt nhau, cũng cùng nhau ngồi học bài. Có khi tôi đã học xong bài vở của ngày hôm đó, thuộc bài làu làu, đồng thời mỗi âm tiết và ngữ điệu đều chính xác, bạn tôi bèn lấy một cột về kinh tế hay chính trị trong tờ báo mỗi ngày đưa cho tôi xem. Tóm lại, hẹn hò cũng là để học bài, không được nói một câu chuyện phiếm, ngay cả cười cũng không được.

Mà không phải mỗi ngày cũng được hẹn hò đều đặn đâu, tuy rằng chúng tôi cùng ở trong một ký túc xá, phải đợi bạn tôi dời chiếc đèn bàn đến bên cửa sổ, đó là tín hiệu, tôi mới có thể qua đó cùng ngồi học bài. Mà đèn bàn của anh là loại kẹp vào trong bàn học, gần như rất ít khi được dời đến cửa sổ làm tín hiệu. Trong đêm tối, vừa lâu lâu ngóc đầu lên nhìn giáo giác, vừa cố gắng vật lộn với bài học, ngoài cửa sổ thì lại tuyết bay lất phất, không hề nghe thấy một tiếng động nào. Tôi không có thân nhân, cái tâm trạng đó, ngoài sự thê lương cô độc ra, còn thêm vấn đề học hành cam khổ, áp lực nặng nề của kinh tế. Tôi thường nghĩ đến cái dáng của cha tôi mỗi ngày cong người trên bàn làm việc, mỗi một miếng bánh mì nuốt vào miệng, gần như là nuốt vào tâm huyết của cha tôi, làm sao tôi dám bỏ tiền ra mua thịt cá, may sắm quần áo? Mọi đòi hỏi về vật chất đều được giảm thiểu đến mức chỉ để sinh tồn mà thôi.

Vì lớp sơ cấp chỉ có 4 học sinh thông qua kỳ thi khảo sát, còn lại 11 học sinh không được lên lớp, thầy giáo hỏi tôi có muốn nghỉ mệt 3 tháng hay không? Ông cũng nhìn thấy tôi đã cố gắng quá sức, ông nói nghỉ vài tháng để cho các phần ngôn ngữ nhét cấp tốc trong 3 tháng có chỗ tiêu hóa, sau đó hãy tiếp tục theo học lớp trung cấp thì hợp lý hơn!

Nghe giáo sư đề nghị tôi nghỉ xả hơi, nước mắt tôi lập tức trào ra. Có phải tôi không muốn nghỉ đâu? Nhưng vì các phí tổn sinh hoạt của tôi có hạn, không đi học, cũng phải tốn, làm sao tôi có thể ngồi yên ổn với lương tâm của mình? Làm sao tôi ăn nói với cha mẹ đây? Thế là tôi không chịu nghỉ, lập tức lao đầu vào lớp trung cấp Đức ngữ.

Ở lớp trung cấp, ngoài bài học ở lớp, mục đọc thêm sách tham khảo cũng nặng nề hơn nhiều, trong các bài tập làm ở nhà, có cả phần xem TV và đọc báo, khi vào lớp dùng TV chiếu phim không phát ra tiếng nói, các vai do mỗi học sinh tự chọn, khi chiếu lên, chúng tôi – những người phối âm, phải lập tức phối âm theo vở kịch bằng tiếng Đức – môn này tôi chiếm hạng nhất.

Viết chính tả là phần khó nhất, không có trong sách, không thể tập trước, trong một lần thi chính tả, một bài xã luận trên báo hơn 1000 chữ, tôi sai một hơi 44 chữ. Khi bài thi được phát ra, người trẻ tuổi là tôi, xem đó như ngày tận thế, giờ tan học tôi đã chạy như bay đến phòng của anh bạn, vừa bước vào cửa, tôi quăng tờ giấy thi xuống bàn anh, khóc sướt mướt, khoảng thời gian đó, áp lực nặng nề quá mức.

Bạn tôi cầm lấy bảng thành tích, phát giác ra nhiều chỗ không đáng sai cũng bị sai, liền trách móc tôi một hồi. Thật ra anh cũng chỉ muốn tôi đạt được kết quả tốt đẹp, trách một thôi một hồi, anh lại thêm vào câu “Mai đây, nếu cô làm vợ của nhân viên ngoại giao, trình độ Đức ngữ của cô như thế, làm sao có thể giúp ích được gì? Ngay cả chữ cũng không biết viết.”

Nghe xong câu này, tôi ôm lấy sách vở, quay đầu đi một mạch ra khỏi căn phòng đó. Lòng tôi cười khinh khỉnh nghĩ thầm “Từ nay anh đường anh tôi đường tôi... Có ai muốn lấy anh đâu!”

Về đến căn phòng trống trải của mình, chiếc quần dài đã bị tuyết ngập ướt đến gối, vội vàng lột ra máng gần lò sưởi hơ khô. Nghĩ đến phải viết thư cho gia đình, cầm cây viết lên, dĩ nhiên là viết về cái bài thi chính tả sai ben bét của tôi, xin lỗi cha mẹ, viết đến chuyện mình cảm thấy hoang mang với cái tương lai mờ mịt trước mắt, tôi ngừng viết vùi đầu vào 2 tay, không biết mình nên viết gì. Bên ngoài, trên cành cây khô ngày đông, mỗi đêm đều có con chim cú mèo đậu ở đó, tôi vừa mở màn lên, là nó lập tức phát ra tiếng kêu kỳ dị. Trong đời tôi, loại chim này thường làm tôi hồi tưởng lại quá nhiều sự cô liêu của những năm tháng đã qua, nghĩ đến nó mà không thích thú chút nào.

Mỗi buổi tối, vá lại đôi giày là công việc phải làm khi trời còn tờ mờ sáng, đế giày chẳng những bị há miệng mà còn có một cái lỗ lớn. Khi đi học, vì phải đạp trên lớp tuyết dày, tôi thường bao túi nylon phía bên ngoài đôi vớ len, khi đi ra ngoài đón xe bus công cộng, tôi lại bao thêm một cái túi nylon bên ngoài nữa. Sợ trợt, tôi lại dùng dây thun quấn vòng quanh đế giày và mặt giày. Khi vào tới thành phố, đến chỗ cua quẹo vào trường, gần đụng mặt với các bạn, tôi mới cúi xuống lột cái túi nylon ra. Vì thể diện, tôi lại cẩn thận dùng sợi dây thun cùng màu với đôi giày quấn chặt lấy phần há ra của chiếc đế giày. Khi bước đi, không ai có thể nhìn thấy, thế nhưng cái lỗ ở dưới đế, không ít thì nhiều cũng bị tuyết thấm ướt. Vào lớp là phải lập tức tìm chỗ ngồi bên lò sưởi để hơ cho ấm chân. Dù như thế, da chân tôi cũng bị nứt nẻ vì quá khô.

Các bạn học cười tôi vì muốn làm đẹp, trời lạnh 19 độ âm mà cũng không chịu mang giày boot, chứ họ nào biết vì chân tôi quá nhỏ, ở Bá Linh không tìm được đôi boot nào vừa chân, đi hỏi đặt làm, thì giá cả lại quá mắc, loại học sinh như tôi không thể nào dám bỏ tiền ra tiêu pha một phí khoản như thế. Dĩ nhiên tôi cũng tuyệt đối không bao giờ viết thư xin cha mẹ về ngân khoản này.

Hôm thi thất bại đó, bị anh bạn trách móc một hơi, cũng không làm cho tôi cảm thấy chán nản, viết thư nhà cũng không, tôi vẫn làm bài như thường lệ, thế nhưng, trước giờ lên giường ngủ, khi đếm dây cao su để chuẩn bị cho buổi học ngày mai, tôi mới nằm dài ra giường, khóc hả hê một trận.

Tôi còn nhớ rất rõ, hôm đó là ngày 2 tháng 12, mùa đông năm 1969.

Lúc đó trường tuyên bố, vì Lễ Giáng Sinh, sau ngày 22 Tây được nghỉ lễ mấy hôm. Tôi và anh bạn học trong cùng ký túc xá hẹn nhau, cùng góp tiền lại đổ xăng, anh ta lái một nửa đường, tôi lái một nửa đường, từ Tây Bá Linh xuyên qua lãnh thổ Đông Đức, tới thành phố Hanover của Tây Đức mới chia tay nhau, anh ta tự đi Pháp chơi, còn tôi tiếp tục lái xe đi xuống miền Nam Tây Đức để nghỉ phép với một gia đình người Đức. Chúng tôi hẹn nhau chiều ngày 23 Tây sẽ lên đường.

Lúc đó, xe cộ từ Tây Bá Linh muốn đi về Đông Đức đoàn tụ với gia đình rất nhiều, chỗ cửa khẩu của biên giới xe cộ sắp hàng dài dài, người ta là người Đức, đi đứng dù thế nào cũng tiện lợi hơn tôi. Còn tôi là một người thuộc Trung Hoa Dân Quốc, cuốn sổ thông hành lỡ như không được thông qua, thì sẽ không xuyên qua được lãnh thổ Đông Đức, còn như ngồi phi cơ, thì tôi lại không muốn tốn khoản tiền đó.

Vì chuyện này, người bạn học người Pháp muốn đi xe chung với tôi có vẻ không được vừa ý, anh ta sợ gặp rắc rối nửa đường, hại lây anh ta. Người bạn đó tên là Michel. Anh ta nhất quyết là trước khi khởi hành, tôi phải đi qua phía Đông thành Bá Linh, đến Bộ Ngoại Giao Đông Đức xin cấp chiếu khán nhập cảnh. Nếu như họ không cho, thì đừng nên đi. Nói tới nói lui, thì cũng chỉ vì muốn tiết kiệm cái vé máy bay mà nên nông nỗi.

Michel ít khi gặp được tôi, anh ta thường hay nhét tờ giấy nhắn lại trước cửa, nói rằng nếu tôi không đi lo việc đó, thì sẽ không chịu hùn xe đi chung với tôi. Tôi nhìn tờ giấy mà muốn khóc, trong lòng tôi nóng như lửa đốt, nhưng bài vở nặng nề quá, làm sao có thì giờ đi Đông Bá Linh? Mất một giờ học cũng không được, nói chi đến mất cả một ngày, thời gian quá gấp gáp, ngay đến ngủ cũng không đủ thì giờ, làm sao đi làm thủ tục?

Lòng tôi vẫn lo sợ sẽ bị ở trong ký túc xá đón Giáng Sinh một mình, sợ cái tâm trạng đã quá lạnh lẽo của mình. Ở đây cũng có “Hội Sinh Viên Trung Hoa”, nhưng vì tôi đến từ Tây Ban Nha, lại có bạn trai người Đức, cộng thêm thời gian không đủ dài, không gần gủi thân mật với ai, nên tôi rất ít khi tham gia các hoạt động của đoàn thể này.

Hôm ấy, ngày 2 tháng 12, rút cuộc tôi đã khóc một trận hả hê, dù sao tôi cũng chỉ là một thiếu nữ mới lớn, những áp lực nặng nề đó cũng là giới hạn cùng cực của cái tuổi ấy. Còn vì sao tôi lại chịu đựng sự học hành khổ sở như thế - cho dù ngôn ngữ là môn học tôi yêu thích nhất, cũng không tìm được câu trả lời.

Hôm sau, ngày 3 tháng 12, có thể vì khóc mệt quá, tôi ngủ quên, khi giật mình thức giấc, mới nhìn thấy cái đồng hồ nhỏ trên bàn chỉ 10 giờ, tôi quýnh quáng đến muốn khóc. Quơ lấy sách vở, tôi chạy ào ra trạm xe, lúc chạy mới phát giác ra đôi giày mình há ra đóng lại, sực nhớ là đã quên không quấn dây thun.

Biết rằng giờ học thứ nhất coi như xong, không có cách chi đến kịp. Suy nghĩ mình cực khổ như thế này để làm gì, đứng dưới bảng xe bus, tôi như ngây như dại, nhìn thấy nhiều chiếc xe đi qua, cũng không cất bước đi lên.

Trốn học cho rồi, lạnh chết cũng không có gì quan trọng, chết cho rồi, chết cho rồi!

Cho tay vào túi sờ cuốn sổ thông hành và 20 đồng Mỹ kim, số tiền ăn ở cho tháng này, đem đống sách vở chôn dưới đống tuyết cạnh một lùm cây to, tôi lên xe bus đi đến Bức Tường Thành Đông Bá Linh, chỗ đường hầm xe lửa nơi có thể xin giấy phép đi vào.

Bá Linh vốn là một thành phố lớn, trận Thế Chiến Thứ Nhì bị 4 nước Anh, Mỹ, Pháp và Liên Sô phân chia. Phân nửa thuộc về Nga Sô, đã bị đóng lại, một thành phố trở nên quan san cách trở, chỉ một bức tường ngăn cách mà trở thành 2 thế giới khác nhau.

Trạm xe tôi bước xuống, vào năm 1969 là một trạm kiểm soát, nếu như xin phép, trong vòng một ngày trở lại, thì có thể đi qua. Nhưng dân chúng ở Đông Bá Linh thì lại không được qua đây.

Cái trạm xe đó ở Đông Bá Linh, đơn xin nhập cảnh được nộp cho Công An ở đó.

Sổ thông hành và đơn của chúng tôi phải sắp hàng một lúc thật lâu, mới được nhận vào. Sau khi thu, họ bảo chúng tôi ngồi ở những hàng ghế dài chờ đợi, đợi máy phóng thanh kêu tên mình, mới đi vào một cái phòng nhỏ để phỏng vấn, hỏi điều gì thì tôi không rõ, chỉ biết là nếu người đi ra lộ vẻ vui mừng, chắc là họ đã được phê chuẩn cho vào Đông Bá Linh.

Đợi một hồi lâu, cái tật nhức chân của tôi nổi lên, lại không dám đi chỗ khác, sợ không nghe được tiếng người gọi từ loa phóng thanh. Ở đó, có một văn phòng ngăn lai bằng cái cửa kiếng to, cho dù tôi khập khểnh đi vòng quanh chỗ đợi, lúc nào cũng cảm thấy có một đôi mắt, từ trong văn phòng sau cửa kiếng chiếu ra, gắn chặt vào lưng tôi như một mũi kim châm nhọn buốt.

Có người đang chăm chú nhìn tôi, mà tôi, tôi không dám nhìn trở lại.

Khi máy phóng thanh gọi tên tôi, lúc đó đã khoảng 1 giờ trưa rồi. Tôi bước nhanh vào căn phòng nhỏ, căn phòng kín mít không có cửa sổ, trong đó có một sĩ quan đang ngồi, không cười.

- “Mời cô ngồi.” Ông ta nói.

Tôi ngồi xuống đối diện ông ta. Bộ quân phục của viên sĩ quan rất thẳng nếp, nét mặt khó đăm đăm, tôi vừa ngồi đàng hoàng, ông ta cầm cuốn sổ thông hành quăng nhẹ lên bàn, nói:

- “Cô có biết ý nghĩa của quyển sổ thông hành này không?”

Tôi nói tôi biết, ông ta nghe xong bèn nói:

- “Vậy thì tại sao cô còn đến đây xin phép? Chúng tôi không nhìn nhận cô đâu, chính sách của chính phủ cô giống như Nam Hàn. Bây giờ tôi chính thức bác đơn xin nhập cảnh của cô.”

Tôi nhìn ông ta một cái, đứng dậy, lấy lại cuốn sổ, nở một nụ cười với ông ta, nói cám ơn. Lúc đó, tôi biết tôi là một cô gái xinh đẹp, tôi biết, khi tôi cười, như một đóa hoa xuân, hẳn là sẽ làm xúc động người nhìn, cho dù đó là ai.

Vừa bước ra khỏi cửa, viên sĩ quan đó đã động lòng, ông ta gấp rút gọi tôi, nói: “Cô có thể đi Tây Bá Linh, trả 15 đồng Mỹ kim, tham gia vào các đoàn du lịch có hướng dẫn viên, tôi có thể cấp cho cô cái giấy phép, cô có thể dùng giấy này để đi xuyên qua lãnh thổ Đông Đức được”.

Tôi nói, tôi muốn đi đến Bộ Ngoại Giao Đông Đức của các ông, đoàn du lịch có cho người ta đi đơn độc như thế không? Với lại, 15 Mỹ kim đắt quá, tôi có, nhưng không muốn phí khoản tiền như thế. Nói xong, tôi không cười với ông ta nữa, tự bỏ đi ra ngoài.

Quyết định trốn học, quyết định chết cũng đã dám rồi, thì việc không cho qua Đông Bá Linh cũng không phải là chuyện lớn lao lắm, không đi thì không đi chứ có gì đâu. Thời gian, tự dưng lại bị dư ra một khoảng trống lớn, về ký túc xá, không cam tâm, đi dạo cũng không, chỉ đi qua đi lại ở chỗ trạm xe nhìn mặt thiên hạ.

Ở phía bên trong khung cửa sổ kiếng, vẫn còn tia mắt nhìn sắc bén chiếu ra, gắn chặt vào người tôi, tôi biết chỉ có một người thôi, một lúc lâu sau, đôi mắt đó vẫn còn nhìn tôi.

Đến khi tôi đi đến gần cái phòng nhỏ dành để chụp hình làm giấy thông hành, cái cảm giác đó lại càng mạnh mẽ hơn nữa. Quay người lại, tôi nhìn thấy gương mặt khôi ngô tuấn tú của một viên sĩ quan – dĩ nhiên là Đông Đức.

- “Ồ, cuối cùng thì anh cũng đã đến!” Tôi nói.

Gương mặt anh ta trong chốc lát bỗng hiện lên những nét rất phức tạp, nhưng rất dịu dàng. Anh nói:

- “Đi qua đi lại, tại sao không về Tây Bá Linh?”

Tôi đưa tay chỉ vào căn phòng kín mít thẩm vấn người, nói:

- “Họ không cho tôi vào Đông Bá Linh!”

Chúng tôi lại nói thêm một số chuyện, đó là việc tôi muốn vào lấy cái chiếu khán nhập cảnh trước. Nhìn mãi cái ngôi sao trên cầu vai anh ta, cảm thấy người sĩ quan này có chức vị và trình độ tri thức hơn hẳn viên sĩ quan thẩm vấn nọ, chẳng những anh chàng đẹp trai, mà còn có đôi mắt thu hút như muốn đốt cháy người nhìn. Chúng tôi đã nhìn thấy nhau ở đâu nhỉ?

Công việc được giải quyết một cách nhanh chóng. Đông Đức không nhìn nhận sổ thông hành của Trung Hoa Dân Quốc, thì cấp cho tôi một cái giấy thông hành tạm thời, trên đó ghi rõ chiều cao, màu mắt, màu tóc, đặc điểm riêng v.v... Khi điền vào phần đặc điểm riêng, tôi viết: răng mọc không đều. Cái giấy thông hành tạm thời đó màu trắng. Họ lại bảo tôi phải chụp ảnh dán vào, tôi không có tiền lẻ, viên sĩ quan lẹ làng lấy tiền ra. Chụp một hơi 3 tấm, giấy tờ dùng hết 2 tấm, còn một tấm nhìn thấy anh chàng để trong túi áo bên cạnh trái tim, tôi không nói một tiếng, trong lòng dâng lên một nỗi bàng hoàng, đôi mắt cúi nhìn xuống đất.

Hàng người rất dài, họ chỉ cho vào từng người một, từ từ, chậm chạp. Viên sĩ quan giúp đỡ không câu nệ, vẫn đứng bên cạnh sắp hàng với tôi, nhích lên từng bước một, nhưng tôi lại không muốn cho cái hàng sắp này nhanh lên chút nào. Làm như cả hai chúng tôi đều có cùng tâm trạng, nhưng chúng tôi đều không nói ra.

Đợi đến khi tôi đi qua trạm kiểm soát, viên sĩ quan cũng đi qua theo tôi. Trong phút chốc, chúng tôi đã đứng qua phía bên Đông Bá Linh. Đường phố thê lương, dấu tích tuyết đổ vẫn còn, người trên đường, như đã đổi qua một thời gian khác, y phục và cách đi đường hoàn toàn không giống với Tây Bá Linh.

- “Thôi, tôi đi nhé.” Tôi nói.

Người sĩ quan nhìn tôi một cái, thật sâu, từ từ nói một câu bằng tiếng Anh, anh chàng nói:

- “Cô rất đẹp!”

Nghe câu nói đó, tự dưng lòng tôi dâng lên một nỗi ngậm ngùi, tôi cười cười, gật đầu với chàng, đưa tay ra, nói:

- “5 giờ chiều, tôi sẽ trở lại, chúng ta sẽ gặp nhau.”

Chàng nói:

- “Không, cô vào Đông Bá Linh bằng con đường này, nhưng khi ra, sẽ bằng một cửa ngõ khác. Hỏi những người đi đường, họ sẽ chỉ cho cô. Bộ Ngoại Giao cách đây không xa, cô có thể đi bộ đến đó. Chúng tôi làm việc ở phía bên đây, khi cô trở lại lúc 5 giờ, không phải ở phía này nữa.”

- “Vậy... Vậy tôi cũng đi luôn nhé!” Tôi nói.

Chúng tôi không bắt tay nhau nữa, chỉ nhìn nhau một cái, tôi hơi mỉm miệng cười. Chàng, đôi mắt thật sâu, không hiểu tại sao lại sâu như thế, làm người ta bỗng dưng cảm thấy chới với và bi thương như vừa rơi xuống nước.

Và như thế, tôi đi bộ đến Bộ Ngoại Giao, vừa đi vừa hỏi thăm người đi đường, trên đường đi có một thanh niên quấn khăn trắng, đi theo xin đổi đồng tiền Mark của Tây Đức hoặc Mỹ kim, tùy hỉ bao nhiêu cũng được. Tôi không dám đụng tới anh ta, chỉ cự tuyệt một cách khó khăn.

Gần tới giờ tan sở rồi, tôi mới hỏi thăm được đến bàn ký giấy tờ, tôi cũng chẳng hy vọng là được hay không, trái tim lẻ loi, chỉ dừng ở đôi mắt sâu thăm thẳm khi ly biệt.

Đây là Đông Đức, đây là Bộ Ngoại Giao của Đông Bá Linh, như một giấc mộng, một nỗi mệt mỏi mơ hồ và nỗi buồn nhè nhẹ không nói được vây phủ lấy tôi. Cái sổ thông hành – của Trung Hoa Dân Quốc – được đút vào trong trạng thái đó.

Người đàn ông mập mạp cầm lấy quyển sổ thông hành của tôi, lật tới lật lui hai ba lượt, sau đó quay đầu về phía sau kêu các bạn đồng nghiệp:

- “Ê, ra đây mà xem cuốn sổ thông hành này! Ở phía bên Tưởng Giới Thạch đến đấy”

Người ta vây lại, nhìn tôi. Trái tim tôi vẫn còn ở đôi mắt ấy. Mặc kệ người ta nhìn tôi như thế nào, tôi cũng coi như pha.

- “Tưởng - Giới - Thạch – Hừ!” Người đàn ông trung niên đó thở một hơi dài.

Hẳn là hôm đó tôi không còn muốn sống nữa, hoặc là đã nhiều ngày tôi không còn muốn sống nữa, khi ông ta nói đến câu này, miệng tôi bỗng thoát ra một câu như muốn tự sát:

- “Tưởng Giới Thạch, tôi là con gái của ông ta đấy!”

- “Thật sao?” Người đối diện kêu to lên.

Ông ta chăm chú nhìn cái tên của tôi, đọc đi đọc lại: “Trần, Trần, Trần...”

- “Cô có nói thật không?” Ông ta nói.

Tôi không nói gì, chỉ nhếch miệng cười. Đôi mắt ấy, đôi mắt vừa gặp sáng nay đã ly biệt, chàng nói tôi quá đẹp, chàng dùng Anh ngữ nói, nói lên cái bí mật của chúng tôi và cái ám hiệu buộc lấy cả hai đứa.

- “Cô họ Trần, ông ta họ Tưởng, làm sao mà như thế được?“ . Ông ta lại hỏi.

Tôi hỏi lại ông ta:

- “Xin ông cho biết là có cấp chiếu khán nhập cảnh Đông Đức cho tôi không?”

Ông ta nói:

- “Cho, cho, cho...”

Sau đó đóng dấu mộc đánh “kịch” lên cuốn sổ, thế là xong!

Cách cái bàn làm việc, tôi nhón chân lên, hôn nhẹ lên má người đàn ông mập mạp, nói:

- “Ông đẹp quá, cám ơn ông!”

Sau đó, bỏ đi.

Vào quán ăn, tôi gọi một đĩa cá chiên, khi trả tiền, người thu tiền ra ám hiệu cho tôi – cái nụ cười rất bần tiện, để cho tôi không phải trả bằng tiền bản xứ đã đổi lúc sang biên giới. Có 20 Mỹ kim, tôi đưa ra 10 đồng, một phần mười của tiền sinh hoạt hàng tháng. Không đợi thối tiền, tôi nhìn ông già cười cười, bỏ đi.

Trên đường, người đi rất ít, có người đàn bà đi đôi giày boot, đó là vật dụng duy nhất mà tôi hâm mộ.

Lại đi thêm một đoạn đường thật xa, mỏi rời, lại khát nữa, mới 4 giờ chiều mà trời đã bắt đầu tối mờ mờ, nhưng thành phố phía bên này lại không có nhiều ánh đèn. Hỏi thăm được con đường đi đến cửa ải sang Tây Bá Linh, cửa ải này được canh chừng rất nghiêm nhặt và kiên cố, bức tường quanh co, cong quẹo, tôi đoán hẳn là họ sợ những người ở phía Đông lái xe vượt qua ranh giới nên mới thiết kế như vậy.

Họ không cho tôi trở về, cứ hỏi đủ chuyện, hỏi tôi làm sao mà có tờ thông hành màu trắng này? Tại sao trên người lại có cuốn sổ thông hành của Trung Hoa Dân Quốc? Lại hỏi khi đến khai là có 20 Mỹ kim, tại sao lại đổi 5 Mỹ kim ra tiền Mark của Đông Đức mà vẫn còn nguyên đây, còn 15 Mỹ kim còn lại thì chỉ dư lại một tờ 5 đồng? Tôi nói lúc ăn cơm đưa lộn tiền. Hỏi đó là quán ăn nào? Tôi nói ai mà nhớ đường.

Họ không cho tôi đi. Tôi quýnh quáng lên, quýnh đến độ không còn muốn sống nữa, nói:

- “Cái giấy thông hành này do phía các ông cấp phát, đi hỏi cái trạm kiểm soát đã cho tôi thông qua. Hỏi đi! Gọi điện thoại hỏi đi! Sao mà các ông khó chịu quá vậy!”

Không biết thời gian qua đi bao lâu, tôi đi quanh co qua từng chặng rồi từng chặng đường, có người đứng đón ở ngay cửa, nhìn ra là người mà tôi nghĩ rằng từ biệt trưa hôm nay. Chàng đang hút thuốc, nhìn thấy tôi đi ra, quăng điếu thuốc, chàng bước lên một bước, ngừng lại.

- “Lại đây! Tôi dẫn cô qua bên đây đón xe, ngồi đến trạm thứ 5, đi vào đường hầm, khi trở ra là cô đã về đến Tây Bá Linh rồi.”

Chàng kéo cánh tay tôi, nhè nhẹ dìu tôi đi về phía trước, còn tôi thì cứ run lên. Đi ngang qua bao nhiêu quân nhân, họ đều đứng nghiêm dơ tay chào chúng tôi – chào chàng thì đúng hơn, tôi không phân biệt được ngôi sao trên vai chàng là cấp bậc gì?

Đến trạm xe rồi, không biết bây giờ là mấy giờ, tôi không có đồng hồ, tôi cũng chẳng hỏi chàng, trạm xe không có đồng hồ, có thể có, nhưng tôi không thấy. Tôi không thấy, tôi không thấy. Từng chiếc xe, từng chiếc xe cứ lướt nhanh qua chúng tôi, tôi chỉ thấy cái giếng nước đó, trong giếng nước sâu thăm thẳm đó, tôi chỉ thấy chiếu sáng một thứ hành tinh mà trên trời cao không bao giờ có.

Trời rất lạnh, đêm đã sâu. Không còn tuyết rơi nữa, vì vậy lại càng lạnh hơn. Tôi có chiếc áo khoác ngoài, chàng không có, chỉ có bộ quân phục màu xanh lá cây. Tôi đứng run rẩy, chàng cũng run rẩy, trạm xe vắng lặng không một bóng người, gió bắt đầu thổi tới, vi vu như một nhạc điệu nào đó, xen lẫn với tiếng xe ngày một xa dần.

Tôi không lên xe, chàng cũng không chịu bỏ đi. Đứng ở đó, hai chúng tôi nhìn nhau, lạnh cóng, run rẩy, tôi nhìn không rõ gương mặt chàng, ngoại trừ đôi mắt. Gió lại thổi, thổi ngược về phía tôi, thổi tung mái tóc dài của tôi, chàng đưa tay nhẹ đùa chúng về phía sau, để đôi mắt bị che lại của tôi lại gặp ánh mắt chàng. Dù sao thì tôi cũng không còn muốn sống nữa, không muốn sống nữa, không muốn sống nữa, không muốn sống nữa...

- “Chuyến xe cuối cùng, em lên đi!” Chàng nói.

Tôi há miệng muốn nói, muốn nói gì không biết, tôi bị chàng đẩy một cái, tôi vẫn ậm ừ muốn nói, chàng lại đẩy tôi. Lần này tôi mới kêu to lên:

- “Đi theo em!”

- “Không được, anh còn cha mẹ, lên xe nhanh đi!”

- “Cho em ở lại một ngày! Xin anh, xin anh! Em muốn ở lại một ngày!”

Tôi đưa tay kéo lấy tay áo chàng, trời ơi! Chết cho rồi, dù sao tôi cũng chẳng có gì, Tây Bá Linh có nghĩa lý gì đối với tôi.

Tôi không nhớ mình làm thế nào để lên xe. Gió thật to, thật mạnh, tôi đứng chết trân trên bục xe nhìn bóng chàng từ từ xa dần, xa dần, trong đôi mắt ấy, là nỗi mê hoặc và đau đớn của mối quan hệ tiền kiếp nào đó không nói được mà cũng không giải thích được. Mãi đến khi xe lửa quẹo qua một khúc quanh, cái nỗi đau thương và trống trải đó, vẫn như một ngọn dao, đâm suốt, đâm suốt vào trái tim tôi không ngừng nghỉ.

Đêm đó, tôi về đến ký túc xá, ngã bệnh, khi được đưa vào bệnh viện, đó đã là ngày thứ ba tôi lên cơn sốt, người ta mới phát giác ra. Lúc bị sốt, đầu tôi nhức như búa bổ, trái tim tôi đang gọi, gọi một người không tên.

Nằm trong căn phòng bệnh hạng 3 nửa tháng, ở Khoa Tai Mũi Họng. Chỉ có buổi sáng bác sĩ đến khám dẫn theo một đám bác sĩ thực tập, thân nhân có thể đến thăm mỗi tuần một lần. Anh bạn tôi bận chuyện học hành, lần nào cũng chỉ điện thoại cho phòng y tá, nhờ họ chuyển lời thăm hỏi tôi, nhưng người thì không thấy bao giờ.

Trong khoảng sân trống của bệnh viện có mấy cây khô to lớn, những ngày tuyết đổ thường có từng đàn quạ đen đến đậu đầy cây và mặt đất, kêu “Quạ!... quạ!...”. Phòng bệnh rất lạnh, tôi ngồi co rút ôm chặt lấy mình, tựa đầu vào cửa sổ không nói một câu. Cùng ở chung phòng với tôi có một bà lão, muốn chọc cho tôi nói chuyện, bà đi đến bên tôi, chỉ ra ngoài song cửa, nói:

- “Cô nhìn xem, ở đó nhìn xa hơn chút nữa, chỗ dãy nhà ngói đỏ đi xa hơn, là bức tường thành Đông Bá Linh ở sau bức tường đó, cô đã đi đến thành phố đó hay chưa?”