Thời xưa Đông Á chưa biết nhiều về khoa học, người ta dùng văn thơ để tìm nhân tài. Ngoài những cuộc thi chính thức của triều đình để chọn người làm quan, văn chương thơ phú là trò chơi tao nhã trong những buổi tiệc và còn dùng để kén rể hoặc kén chồng. Những gia đình giàu có thường để ý những anh học trò trẻ tuổi chưa đỗ đạt nhưng đã nổi tiếng học giỏi để gả con, dĩ nhiên là với hi vọng con gái mình sẽ trở thành bà quan trong tương lai. Những người con gái có học thì hay dùng văn chương để thử thách những người ái mộ xem có xứng đáng với mình hay không.
Đoàn Thị Điểm ngay từ khi là thiếu nữ đã nổi tiếng tài hoa. Đặng Trần Côn đến yết kiến làm một bài thơ, bị nữ sĩ chê là trẻ con mới tập làm thơ. Đặng Trần Côn sau đậu Tiến Sĩ và vẫn còn tức vì lúc trẻ bị người đẹp chê bai nên đã viết Chinh Phụ Ngâm Khúc bằng chữ Hán được giới sĩ phu rất tán thưởng. Mấy câu đầu của Chinh Phụ Ngâm Khúc quả là tuyệt bút:
"Thiên địa phong trần,
Hồng nhan đa truân.
Du du bỉ thương hề thùy tạo nhân?
Cổ bề thanh động Trường Thành nguyệt,
Phong hỏa ảnh chiếu Cam Tuyền vân.
Cửu trùng án kiếm khởi đương tịch,
Bán dạ phi hịch truyền tướng quân."
Trời đất gió bụi làm khổ khách hồng nhan, trong khoảng xanh bao la ai đã tạo nên loài người? Sau khi nhập đề, Đặng Trần Côn đi thẳng vào lý do đã khiến ông tự hỏi có Thượng Đế hay không, ai đã tạo loài người bất toàn như vậy - thường xuyên gây chiến tranh giết hại lẫn nhau. Cổ là trống đặt cố định, bề là trống trận gắn trên xe điều động binh sĩ, hai loại trống cùng đánh làm rung động ánh trăng Vạn Lý Trường Thành. Những ngọn lửa báo hiệu có giặc từ Trường Thành đến Cam Tuyền chiếu sáng rực nhũng đám mây. Nhà vua đang ngủ phải thức dậy cầm kiếm, nửa đêm truyền hịch gọi các tướng quân đến bàn việc. Tất cà mọi việc cực kỳ khẩn cấp, chỉ trong một đêm mà tình thế hoàn toàn thay đổi.
Đoàn Thị Điểm khi đọc Chinh Phụ Ngâm Khúc mới phục tài Đặng Trần Côn, có lẽ hối hận vì đã coi thường ông khi xưa cho nên bà đã khổ công dịch áng văn này sang tiếng Nôm, với hai câu kết rõ ràng là tặng tác giả, "Ngâm nga mong gởi chữ tình, dường này âu hẳn tài lành trượng phu". Đây là một bản dịch hay và tương đối sát nghĩa, mấy câu đầu như sau:
"Thuở trời đất nổi cơn gió bụi,
Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên.
Xanh kia thăm thẳm tầng trên,
Vì ai gây dựng cho nên nỗi này?
Trống Trường Thành lung lay bóng nguyệt,
Khói Cam Tuyền mờ mịt thức mây.
Chín tầng gươm báu trao tay,
Nửa đêm truyền hịch định ngày xuất chinh."
Đây là những vần thơ hay dễ nhập tâm người đọc, nhưng so với nguyên tác thì có đôi chút sai lạc. Ý thơ Hán văn là "Lửa Cam Tuyền sáng rực bóng mây" thì trong thơ dịch là "Khói Cam Tuyền mờ mịt thức mây", như vậy cảnh ban đêm đã chuyển sang cảnh ban ngày, làm mất đi tính khẩn cấp khi chiến tranh phát động. Câu tiếp theo không rõ nghĩa - chữ Cửu Trùng có thể dùng để chỉ vua nhưng trong tiếng Việt không ai gọi vua là "chín tầng", còn "gươm báu trao tay" thì không biết trao cho ai. Câu sau cũng không hoàn toàn dịch đúng - theo nguyên tác thì nhà vua truyền hịch gọi các tướng quân, thường là Thái Úy (tương đuơng Tổng Tư Lệnh) và Binh Bộ Thượng Thư (tương đuơng Tổng Trưởng Quốc Phòng) cùng với các đại tướng trực tiếp chỉ huy quân đội. Cần họp quân sự tối cao rồi mới quyết định phái đi bao nhiêu đạo quân và theo những lộ trình nào để ngăn chặn quân xâm lăng. Một mình vua không thể vội vàng "nửa đêm truyền hịch định ngày xuất chinh".
Tuy nhiên, tới những chương sau thì nhiều đoạn thơ dịch còn hay hơn nguyên tác vì tiếng Việt rất phong phú về tình cảm và phụ nữ diễn tả lòng thương nhớ thích hợp hơn đàn ông. Ngoài ra, Đặng Trần Côn không hoàn toàn sáng tác Chinh Phụ Ngâm Khúc vì ông mượn nhiều ý thơ của các thi hào Trung Hoa. Người xưa không có khái niệm về sở hữu văn chương, ai cũng có quyền chép lại những câu hay của người khác để tô điểm cho văn thơ của mình và để chứng tỏ mình học rộng biết nhiều. Những lời thơ dịch của Đoàn Thị Điểm vẫn còn ý tứ thơ Hán văn nhưng có hồn thơ tiếng Việt và diễn tả được tình cảm tế nhị của người Việt Nam.
Con gái Nguyễn Đình Chiểu là Nguyệt Anh (sau khi góa chồng viết báo lấy bút hiệu là Sương Nguyệt Anh) khi còn trẻ cũng là một nữ sĩ tài sắc vẹn toàn đuợc nhiều người ái mộ. Theo một sự tích, có lần hai anh cùng đến nhà cô yết kiến, cô bèn ra câu đối: "Đằng tiểu quốc, sự Tề hồ, sự Sở hồ?" Đằng là nước nhỏ ở giữa hai nước lớn là Tề và Sở không biết nên theo nước nào, ý của Nguyệt Anh là giữa hai người cô không biết chọn ai. Câu này trích trong sách Mạnh Tử và theo luật đối hồi xưa, muốn đối một câu trong Tứ Thư Ngũ Kinh thì phải tìm một câu khác trong Tứ Thư Ngũ Kinh để đối lại, nếu không có thì dùng chữ trong một cuốn sách học chính thức như Hán Sử cũng được.
Cả hai anh nghĩ mãi không tìm được câu đối thích hợp, sau một anh cười và đối lại: "Ngã đại trượng, phạt Quách hĩ, phạt Sở hĩ." Đây là câu đối do anh chế ra chứ không phải trích từ những kinh điển. Ý nghĩa câu này lại hơi tiếu lâm (tôi có cây gậy lớn, đánh nước Quách, đánh nước Sở) chứng tỏ anh có óc khôi hài, thời nay không sao nhưng thời xưa thì là quá nham nhở. Nguyệt Anh nghe xong đỏ mặt quay vào không ra nữa, chỉ cho người đưa hai câu thơ: "Chiêu Quân nhan sắc nghe ra uổng, Tây Tử phong lưu nghĩ cũng buồn." Hai anh biết là cô chê mình nên từ tạ ra về.
Ngoài việc đưa ra những câu đối khó, người xưa còn thử tài bằng xướng họa thơ Đường. Theo quy luật thì bài họa phải cùng đề tài với bài xướng và giữ đúng năm vần, bắt buộc phải lập lại vần cuối nhưng không được dùng lại chữ trước đó. Thí dụ bài xướng dùng chữ "sang ngang" thì bài hoạ phải dùng các chữ như "ngổn ngang, dọc ngang, đi ngang, nằm ngang, bắc ngang, ..." chứ không được lập lại chữ "sang ngang". Có những vần khó vì ít chữ để lựa chọn như các vần EO, OM, ÊNH, OI, ... Có chữ gần như không thể họa được, chẳng hạn như chữ "lênh đênh" vì trong tiếng Việt không còn một chữ nào khác đi với chữ "đênh". Thời Pháp thuộc có một Nho sĩ không có tiền trả thuê nhà nên bị chủ nhà đuổi ra, cháu của ông làm một bài thơ tỏ ý thương xót hoàn cảnh của chú trong đó có chữ "lênh đênh". Ông buồn bực mấy ngày liền, người ta tưởng ông buồn vì bị đuổi chứ không biết ông bực mình vì không thể họa được bài thơ của cháu. Sau cùng ông mới tươi nét mặt vì tìm được cách trả lời: "Nhà mà có đuổi thì ông xéo, chỉ ức thơ mày họa vận đênh!"
Trong cuốn Giai Thoại Làng Nho của Lãng Nhân có một chuyện về Nguyễn Khuyến, lúc còn là học trò nghèo ông để ý đến con gái một cụ Cử làng bên. Cụ Cử bèn mời ông đến làm thơ với đề tài "cua chơi trăng" dùng chữ "trăng" làm vận. Thấy mình bị khinh rẻ, Nguyễn Khuyến bực bội nhưng cũng ngâm ngay tám câu:
"Vằng vặc đêm thu ánh xế chừng,
Ham thanh cua mới muốn chơi trăng.
Nghiệng mai lách ngược qua dòng biếc,
Ghé yếm bò ngang gìỡn bóng Hằng.
Cung quế chờn vờn hương mới bén,
Vườn đào thoang thoảng gió như nâng.
Một mai cá nước, cua vui phận,
Trăng muốn tìm cua, dễ được chăng?"
Bài thơ hay và ý tứ khẳng khái chứng tỏ tác giả có tài năng khí phách. Cụ Cử đổi thái độ, tiếp đãi Nguyễn Khuyến rất ân cần và đích thân tiễn ông về. Tới đầu làng phong cảnh đẹp, cụ Cử mời Nguyễn Khuyến làm một bài thơ tức cảnh. Nhìn thấy cây tùng nhỏ mọc bên cạnh cái tháp cao, Nguyễn Khuyến ứng khẩu đọc:
"Hữu nhất thanh tùng tại tháp tế,
Tháp tùng trường đoản bất tương tề.
Thế nhân chỉ đạo thanh tùng đoản,
Tha nhật tùng cao tháp hựu đê!"
(Có cây tùng nhỏ bên cạnh tháp,
Tháp tùng cao thấp không bằng nhau,
Người đời chỉ nói thanh tùng thấp,
Mai mốt tùng cao, tháp đứng sau!)
Cụ Cử nghe xong rất phục văn tài và khẩu khí của Nguyễn Khuyến. Nhưng giai thoại đến đây là hết nên không biết ông có được cụ Cử gả con gái không, hay là cụ Cử đã hứa gả con cho người khác rồi nên không thể gả cho Nguyễn Khuyến được.
Cũng trong sách Giai Thoại Làng Nho của Lãng Nhân có chuyện bà Cao Ngọc Anh ở Thanh Hóa con nhà quyền quý, văn hay chữ tốt và nhan sắc tuyệt vời nhưng chẳng may góa chồng lúc còn rất trẻ. Nhiều người ái mộ gởi thơ cho bà xem, bà tuyệt nhiên không trả lời. Một hôm bà mời tất cả những danh sĩ trong vùng đã làm thơ tặng bà đến cầu Hàm Rồng ngắm cảnh và yêu cầu mọi người làm cho bà một bài thơ làm kỷ niệm. Mọi người đều nói xin bà cho đề tài, bà bèn thong thả ngâm:
"Hàm Rồng nô nức tiếng đồn om,
Rải rác nhà tranh ở mấy chòm.
Hỏi đá chờ ai ngồi nhấp nhổm?
Thương cầu vì nước đứng lom khom...
Sóng như chào khách chờn vờn nhảy,
Nguyệt cũng yêu ta lấp ló dòm.
Cửa động rêu phong mờ nét chữ,
Ai người mến cảnh chút trông nom..."
Đây là một bài thơ hay, vần khó và tế nhị ngỏ ý muốn tìm người tài năng thật lòng yêu thương bà để nương tựa. Các thi hào trong vùng nghĩ mãi không ai họa được, đành phải cáo từ bà ra về và từ đó họ không dám làm thơ gởi đến cho bà nữa.
Khi đọc giai thoại này tôi ngạc nhiên vì các danh sĩ vùng Thanh Hóa hơi kém, vần OM là một vần khó nhưng không phải là không họa dược. Đề tài là cầu Hàm Rồng và mượn cảnh vật để nói lên tâm sự, người đẹp tả cảnh ban ngày thì mình tả cảnh ban đêm, từ đó thấy ngay chữ dùng được trong hai câu đầu là "tối om" và "chòm sao" còn những câu sau thì từ từ nghĩ thêm.
Đêm lạnh Hàm Rồng cảnh tối om,
Sao khuya thưa thớt bốn năm chòm.
Núi non vẫn giữ hồn tươi trẻ,
Nguyệt lão chẳng mang dáng cúi khom.
Tổ ấm chim muông thư thái ngủ,
Bãi hoang cầy cáo thẩn thơ dòm.
Tôi người mến cảnh xin dừng bước,
Dốc trọn chân tình trông với nom.
Khi làm bài họa này tôi ưng ý hai câu 3 và 4 vì những chữ "non, tươi trẻ" và "lão, cúi khom" đối chỉnh và chữ dùng tự nhiên không gò bó, lại nhắc đến điển tích "Nguyệt Lão Xe Duyên" để ngỏ ý muốn kết duyên với người làm thơ. Hai câu 5 và 6 thì tạm được, tôi chú trọng việc đối cho chính xác và giữ đúng niêm luật, lời thơ ám chỉ giá trị của tổ ấm gia đình. Câu cuối cùng tôi phải dùng chữ hơi gượng ép (trông với nom) vì tiếng Việt chỉ có hai chữ "trông nom" và "thăm nom" chứ không có chữ nào vần trắc để đi với chữ "nom" cho đúng niêm luật của bài thơ. Trường hợp này là bị kẹt vần và có thể thông cảm được. Nhưng nếu tôi sống vào thời đó và gia thế thuộc loại khá, tôi cũng không chắc bài thơ của tôi có được người đẹp chấp nhận hay không.
Thời nay nhiều người vẫn làm thơ tám câu năm vần, nhưng đó là thơ mới vì không giữ luật bằng trắc của thơ Đường. Thơ mới dễ làm hơn và cũng dễ họa hơn nhiều. Chuyện xướng họa thơ vẫn có những người yêu thơ thực hiện nhưng hoàn toàn không còn chuyện thử tài thơ văn để kén chồng kén rể. Tiêu chuẩn thời nay dựa nhiều vào gia thế, của cải và bằng cấp, nhất là loại bằng cấp để kiếm tiền chứ không phải chỉ có giá trị suông như Tiến Sĩ Thần Học hay Cao Học Triết. Đã qua lâu rồi cái thời mà thương gia bị khinh rẻ và thi sĩ như Lý Bạch được vua ban cho kim bài, đi đâu thiếu tiền uống rượu thì cứ yết kiến quan sở tại lấy tiền mua rượu. Thời cận đại, thi sĩ tài hoa Hàn Mặc Tử đã phải than "Trời hỡi làm sao cho khỏi đói, gió trăng có sẵn làm sao ăn?", còn Nguyễn Bính làm thơ tặng con gái mới ra đời cũng phải thốt lên những lời rất chua chát:
"Thôi cha cầu chúc cho con gái,
Mắt chớ lưu cầu môi chớ son.
Càng tài sắc lắm càng oan nghiệt,
Bẩy nổi ba chìm với nước non.
Nhất kiêng đừng lấy chồng thi sĩ,
Nghèo lắm con ơi, khổ lắm con!"