A warm welcome to my corner!
Phụ tử tình thâm một điệu hát ru quen thuộc của dân ca xứ Nghệ, chứa đựng trong nó những lời răn dạy đạo lý sâu sắc của thánh hiền. Cả cuộc đời gói gọn trong lời bài hát. Trải dài trong lời ru là nỗi lòng của người cha, người mẹ với những hy sinh thầm lặng, mong mỏi yêu thương luôn dõi theo từ khi con mới lọt lòng đến khi khôn lớn: Rồi mười ngày chín tháng/Mẹ thúc giục lên thai/Con nên một nên hai/Thầy ấp yêu bồng bế/Đứa mười chín đôi mươi/Lo cửa nhà dựng vợ...
Bởi vậy, đi giữa cuộc đời, đạo làm con phải giữ gìn cho trọn nghĩa. Những lời ru như rót chảy vào tim những nỗi niềm diệu vợi, thấm cảm hơn những bài học đạo lý sâu xa với những câu răn mình khuyên người đậm đà triết lý. Để rồi lắng sâu trong đó và vượt lên trên mọi pha tạp của cuộc sống đời thường, tôi luyện thêm cái gốc của tình người và đạo lý.
Lời bài hát Phụ Tử Tình Thâm (Dân Ca Nghệ Tĩnh)
Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Lo tròn chữ hiếu mới là đạo con
Phụ tử tình thâm
Công thầy rồi nghĩa mẹ
Đừng có tiếng tăm chi nặng lời
Đừng cả tiếng dài hơi
Nói mẹ cha sao nên
Mà cãi mẹ thầy sao phải
Ơ… đêm nằm nghĩ lại
Nhớ đến đến cội thung uyên
Công cù lao ai đền
Nghĩa sinh thành ngày trước
Khi ăn cơm rồi bát nước
Ước phụ tử tình thâm
Thầy đói rách nợ nần
Mẹ cũng đói rách nợ nần
Cũng vì con thơ ấu
Dừ phụ trải trắc mẫu
Rồi trắc trải khó khăn
Con ở có thủy có chung
Được phụ từ tử hiếu
Mà được phụ từ tử hiếu
Dăm ba cành đào liễu
Sáu bày quả nam nhi
Thầy chưa được nhờ chi
Mẹ cũng chưa được nhờ chi
Đền công ơn cho đáng
Công mẹ thầy cho đáng
Rồi mười ngày chín tháng
Mẹ thức dục nén thai
Con nên một nên hai
Thầy ấp iu bồng bế
Mẹ ấp iu rồi bồng bế
Con con nên ba nên bốn
Con tríu mẹ chưa rời
Đứa sáu bảy ăn chơi
Con chín mười khôn nậy
Mà đứa chín mười khôn nậy
Ơ … giừ thầy chưa được cậy
Mẹ cũng chưa được nhờ
Giừ mẹ đang phải lo đứa mánh khăn tấm áo
Đứa mánh quần ơ tấm yếm
Con mười lăm mười bảy
Con ăn học dùi mài
Đứa mười chín đôi mươi
Lo chăm xa dựng họp
Lo cửa nhà dựng họp
(tiếp)
(tiếp)
Khi hoa cười ngọc nở
Chốn đào liễu sung vầy
Thầy mơ tưởng đêm ngày
Ước dâu hiền thấy ước mà rể hiền
Ước dâu hiền mẹ ước mà rể thảo
Ơ… Thánh hiền là đạo rồi khuất bóng từ bi
Con có lỗi điều chi xin mẹ thầy xá quá
Con đừng ở cậy thượng rồi át hạ
Ở ra dạ khinh thường
Con đừng đứa ghét thương
Cũng nhấp giai chi tử
Cũng giai bằng chi tử
Giừ trong sách có chữ
Con mới phải trông vào
Thầy một tuổi một cao
Mẹ một tuổi một già
Con đừng có bấc chì nặng nhẹ,
Chớ có bấc chì nặng nhẹ.
Con ở gần thầy mẹ
Phải xây đắp vun trồng,
Khi vợ dại thì có chồng
Phải vào ra thăm viếng,
Phải đi về thăm viếng.
Khi đồng quà chữ bánh
Khi bún sốt lòng tươi
Ta nâng giấc cho người
Kẻo mai rồi tạ thế
Mai sau rồi ta thế
Ơ… rồi một mai bách tuế ra cây úa lá vàng
Lá rụng cội đại ngàn
Con tìm mô được nựa
Mà con muốn tìm mô được nựa
Khi cúng hương cúng lửa
Khi vào bái ra quỳ
Dừ đặt mâm lên thì nỏ thấy thầy mẹ ăn chi
Chỉ thấy ruồi với ruồi
Mà chỉ thấy ruồi với kiến
Chiêm bao tưởng đến
Dù than vắn thở dài
Thầy không đoái không hoài
Mẹ cũng nỏ đoái nỏ hoài
Thật là phụ từ tử hiếu
Ai ơi làm con trọn đạo
Nhắc ai ghi lòng… à á à ơi…
Nguồn: Văn Tuân, cadn.com.vn
Trong tâm thức nhiều người dân xứ Nghệ, điệu hát xẩm đã ăn sâu trong trí nhớ. Nhưng ít ai biết đến người hát cất lên những tiếng hát để đời bằng giọng xẩm buồn ấy giờ đây đang phải rày đây mai đó để tha phương cầu thực. Người hát xẩm đó chính là “lão mù” Dương Đình Xuyên - người hát “Phụ tử tình thâm” bằng chất giọng xẩm truyền thống cuối cùng ở Hà Tĩnh.
Tuổi thơ gắn với xẩm buồn
Ở góc cổng chợ, lão “nghệ sĩ” ăn mặc tả tơi, đôi tay đưa đi kéo lại chiếc đàn nhị làm bằng lon sữa bò tự tạo. Miệng thì không ngớt cất lên điệu xẩm buồn thê lương: “Khi phụ tử tình thâm/ lúc công thầy nghịa (nghĩa) mẹ/ Đừng tiếng tăm nặng lời/ Đừng cả tiếng dài hơi/ Nói mẹ cha sao nên/ Cại (cãi) mẹ thầy sao phải/ Đêm nằm nghị (nghĩ) lại/ Nhớ đến cội công uyên/ Công cù lao ai đền/ Nghịa (nghĩa) sinh thành ngày trước...”.
Người đi qua, kẻ đứng lại thơ thẩn. Còn lão, mắt không nhìn thấy ai nên cứ nghiêng tai tỏ ý cảm ơn... Lão cố rút ruột cho lời ca, tiếng hát của mình chỉ mong ngày kiếm được dăm ba chục ngàn về nuôi con thơ, vợ ốm. Lúc chợ vắng, người thưa lão lại chống gậy dò dẫm về lại ngôi lều hoang vắng cạnh bãi tha ma ở thôn Bắc Sơn, Thạch Hà, Hà Tĩnh để lo cơm nước cho vợ cho con. Lão là Dương Đình Xuyên (1961) - người hát xẩm cuối cùng ở Hà Tĩnh.
Cuộc đời lão từ lúc mới sinh ra đến nay như một chuỗi buồn dài định mệnh. Lão chỉ biết lấy tiếng hát để cho vơi bớt nỗi buồn. Lão hát nghe buồn đến tận tâm can, ray rứt như muốn xé ruột gan lòng người. Nó buồn như chính cuộc đời của lão. Lên 7 tuổi, chiến tranh cướp đi đôi mắt của lão. Từ đó lão lớn lên với mùi khét lẹt của khói bom và những khúc đồng dao, ví dặm. Không còn đôi mắt nhưng lão còn đôi tay và một “kho” ca dao, dân ca đầy ắp nỗi niềm... Và lão bắt đầu học kéo nhị, học hát...
Năm 1975, khi đất nước không còn bom đạn chiến tranh cũng là lúc lão tròn 14 tuổi. Cha đi công nhân biền biệt chẳng về, mẹ đi lấy chồng khác và vì thế lão cất bước dò dẫm “giang hồ” khắp Nam chí Bắc với chiếc nhị “độc nhất vô nhị” hát mưu sinh... Tiếng hát xẩm của lão mù cứ thế vang dài trên mọi nẻo đường, từ Đồng Hới (Quảng Bình) đến Bến Thành, Chợ Lớn rồi ra Vinh, Bến Nứa, Đồng Xuân... Tay nhị, tay gậy cứ thế mà đi, tối ở đâu nơi đó là nhà, ngả lưng đâu đó là giường, chẳng phiền chi ai... Rồi một ngày, sau hơn mười mấy năm phiêu bạt, khi người làng nghĩ rằng lão đã bỏ thây ở chốn nào rồi thì đột ngột thấy lão mò mẫm về dựng lều cạnh bãi tha ma. Chiếc đàn nhị chế bằng ống sữa bò làm hành trang, lão "nghệ sĩ" mù rong ruổi khắp các ngõ chợ, đường phố cất lên điệu xẩm buồn "độc nhất" xứ Nghệ.
Rút ruột cho lời ca
Một người mù, một túp lều xệch xạc giữa mênh mông hiu quạnh những ngôi mộ dường như càng làm cho người làng xa lão hơn. Tiếng hát của lão lại vang lên khắp các chợ phiên trong tỉnh. Những câu hát xẩm của lão cứ vang lên đều đặn khắp ngõ chợ dặn kẻ ở đời về đức cù lao sinh thành, dưỡng dục của mẹ cha, nghĩa hiếu tử của phận làm con, sống sao cho trọn nghĩa vẹn tình... “Rồi một mai bách tuế/ Ra cây úa lá vàng/ Lá rụng cội đại ngàn/ Con tìm mô được nựa (nữa)/ Con muốn tìm mô được nựa...”.
Chẳng ai biết lão hát có đúng hết lời của bài dặm Phụ tử tình thâm hay không chỉ biết rằng tiếng hát xẩm của lão càng ngày khiến nhiều người mê, bởi giọng hát xẩm khi nỉ non trầm bể, khi mưa thảm gió sầu, khi dằn vặt đớn đau... Mê bởi những ca từ mà lão “chế”, lão cóp nhặt trên bước đường phiêu bạt để “thêm” vào bài hát xẩm: “Hai hàng nước mắt trào tuôn/Thương là thương/ Con lắng tai nghe cha dặn mấy lời/... Nuôi con từ thủa còn thơ... Ôi thôi, con cháu ở lại /Cha khuyên con đạo làm người/ Dự (giữ) trọn trự (chữ) trung trự (chữ) hiếu”. Những câu hát của lão chẳng biết tự bao giờ đã đi vào đời sống tinh thần của biết bao nhà, bao người không chỉ ở Hà Tĩnh mà còn nhiều tỉnh khác.
Những năm 90 thế kỷ trước có một người buôn bán mến mộ giọng hát lời ca của lão đã mời lão thâu băng để nghe rồi bán khắp trong Nam ngoài Bắc phục vụ vào những lúc tang gia. Thậm chí cả những người Hà Tĩnh tha phương có tính lo xa nên lúc về quê cũng cố lùng mua cho được cái băng hát xẩm của lão mù Dương Đình Xuyên để dành đặng dùng cho chuyến “đi xa mãi mãi” của mình. Có điều đáng buồn là mặc dù giọng hát của lão được thu băng bán khắp nơi, nhưng lão không được trả một đồng cắc nào. Bởi vậy, khi bắt gặp giọng xẩm của mình đang ủ ê, chậm chạp đưa linh văng vẳng..., lão lại tự an ủi: ít ra khi chết đi thì tiếng hát xẩm của mình vẫn còn ở lại với đời...
Và nỗi thê lương cuộc đời
Những tưởng, cuộc đời lão hát xẩm mù cứ thế cô độc trôi đi buồn bã như bài xẩm mà lão thường hát thì đột ngột cuối năm 1999 người làng ngỡ ngàng thấy lão... lấy vợ. Vợ lão người ở Can Lộc, mắt sáng, cha mẹ mất sớm, đói khổ lần vào Nam kiếm sống nhưng cũng không được đành mang theo hai đứa con trở về quê. Gặp nhau giữa buổi chợ chiều thế là đưa nhau về “nhà” sinh sống. Những tưởng lấy được người vợ sáng mắt, tấm thân mù lòa sẽ có chỗ cậy nhờ nhưng không ngờ, ít năm sau vợ lão đổ bệnh nào là suy thận, viêm gan, đường ruột... Gia đình lão hiện giờ tất thảy có 6 người. Đứa cả 14 tuổi đã bỏ học đi làm thuê, đứa thứ 12 tuổi cũng bỏ học, èo uột cùng hai em, đứa lên 4, đứa lên 2. Nhìn vợ ốm, con thơ lão chỉ biết ngậm ngùi: “Không biết kiếp trước ăn ở thế nào mà trời lại đày tôi tệ mạt đến thế”.
Trong ngôi nhà trống hoác, tài sản không có gì đáng giá ngoài chiếc giường bằng gỗ cũ kỹ, vợ lão Võ Thị Tịnh đang nằm trong tình trạng “ruột lòi ngoài da”. Từng cơn đau liên hồi hành hạ, bà cố nén cơn đau nói với tôi: “Tôi “mổ bụng” đã cách đây 9 tháng, bác sĩ bảo sau 3 tháng thì đến viện để mổ tiếp và khâu lại. Nhưng vì không có tiền nên đành... để vậy!”.
Tất thảy cơm áo, thuốc thang hằng ngày của cả nhà đều trông chờ vào lão xẩm mù. Thế nhưng, đôi chân của lão “xẩm” mù gần 50 tuổi giờ đây đã mỏi gối chồn chân. Mỗi lần đi hát lão phải thuê xe ôm chở đi chứ không còn đủ sức dò dẫm được nữa. Người vợ bệnh tật, mấy đứa con thơ rồi đây liệu sẽ ra sao nếu như lão không còn sức kéo nhị hát điệu xẩm buồn?