BÀI THUYẾT TRÌNH
Tại Thánh Thất Huỳnh Đức
Đề tài: Thánh Danh Cao Đài
Kính thưa Ban Cai Quản Thánh Thất Quận Ba,
Kính chư hiền huynh, hiền tỷ.
Chúng tôi xin được trao đổi cùng quí vị qua những tiểu đoạn sau:
1. Thánh Danh Cao Đài là gì?
2. Tìm hiểu ý nghĩa.
3. Tại sao thờ Thiên Nhãn?
4. Kết hợp hiểu biết và hành động.
Thánh danh Cao Đài là gì?
Trước hết xin được xác định từ THÁNH DANH. “Thánh” là thiêng liêng, là trái với phàm tục. “Danh” là tên gọi, danh xưng. Cũng có khi nghe gọi là Hồng Danh. Hồng là lớn, là vĩ đại. Thông thường người xưa đặt chữ này trước một danh xưng của các bậc vĩ nhân. Vậy thì hồng danh hay là thánh danh trong ngữ cảnh này là tương đương.
Thánh Danh là những tên gọi, danh xưng mà các đấng thiêng liêng đã sử dụng để dạy dỗ nhân sanh trong thời kỳ mở đạo. Chúng ta học biết những thánh danh này qua các bài cầu cơ, chấp bút; qua những bài thuyết đạo của các bậc tiền bối. Những tên gọi này đặc biệt kết hợp chặt chẽ trong giáo thuyết Cao Đài, tạo thành một hệ thống thuật ngữ rất đăc trưng Cao Đài; không những thế, hệ thống thuật ngữ này biểu trưng một lý thuyết tôn giáo mới. Thậm chí các bậc trí giả phải soạn một quyển Tự Điển để tìm hiểu mà vẫn thiếu trước hụt sau.
Xin nêu một vài ví dụ: “ Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát” là một thánh danh.
“Tạo Hóa Huyền Thiên Diêu Trì Kim Mẫu” là một thánh danh.
“ Tam Châu Bát Bộ Hộ Pháp Thiên Tôn” là một thánh danh … vân vân và vân vân…
Thế nên, đề tài trên theo ý chúng tôi nên được điều chỉnh lại một chút để thu hẹp vấn đề lại cho dễ trình bày.Thí dụ như “Thánh Danh của Đấng Cao Đài Thượng Đế”, bởi vì Các Thánh Danh Trong Đạo Cao Đài thì quá nhiều, khó mà bàn luận thấu đáo trong một bài thuyết trình ngắn ngủi.
Tìm hiểu ý nghĩa
Bây giờ, theo đề tài “Thánh Danh của Đấng Cao Đài Thượng Đế” , chúng tôi mời quí vị cùng tìm hiểu ý nghĩa của một trong những Thánh danh quan trọng trong đạo Cao Đài.
Có lẽ chúng ta đều biết, chính Đức Chí Tôn đã dùng huyền diệu cơ bút mở đạo cứu nhân sanh trong lần ba này. Đức Chí Tôn đã dùng nhiều danh xưng. Ngài đã xưng là A,Ă,Â. Rồi lại xưng là Ngọc Hoàng Thượng Đế. Nhiên Đăng Cổ Phật, Thích Ca Mâu Ni, Thái Thượng Ngươn Thỉ, Chúa Cứu Thế Giê Xu …vân vân. Danh xưng mà con cái ĐCT nghe nhiều nhất là … (xin đọc nguyên văn) :
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ
KIM VIẾT
CAO ĐÀI TIÊN ÔNG ĐẠI BỒ TÁT MA HA TÁT
GIÁO ĐẠO NAM PHƯƠNG
Mỗi danh xưng của ĐCT đều có một tình huống cội nguồn đặc biệt, và nhất là có những ngụ ý riêng cho từng hoàn cảnh. Thế cho nên, chúng tôi xin được thu hẹp chủ đề thêm một lần nữa: đó là xin chia sẻ cùng chư huynh tỷ những ý nghĩa của thánh danh “Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát”
Chúng ta, con cái của ĐCT đều biết rằng Cao Đài có nghĩa là một cái “đài cao”. Nếu hiểu rộng ra thêm nữa thì ý nghĩa của từ Cao Đài còn có nhiều điều đáng luận bàn lắm! Tại sao lại phải dùng chiều cao để chỉ sự thiêng liêng mà không dùng chữ “đài to lớn” hay “đài vĩnh cửu” … vân vân. Về mặt ngôn ngữ trong tiếng Việt, thì những gì đẹp đẽ về mặt tinh thần đều được diễn đạt bằng từ chỉ chiều cao. Ví dụ như “tâm hồn cao thượng”. Người Việt nam không bao giờ nói “tâm hồn to lớn” lại càng không bao giờ nói “tâm hồn vĩnh cửu”. Vậy thì khi dùng từ Việt Nam để biểu thị một danh tự trong mục đích dạy đạo là ĐCT đã dành cho dân tộc Việt một đặc ân chưa từng có. Ấy là ĐCT mở đạo lần này dành riêng cho các con cái của Ngài ở một nước nhỏ bé nghèo hèn quyền được ưu tiên nghe lời dạy của Ngài bằng chính ngôn từ khiêm tốn của dân tộc mình. Nhớ lại ngày trước, ông cha ta muốn học đạo đều phải đi theo con đường Nho Học thì mới đọc được kinh sách viết bằng Hán Tự, mà Hán tự là ngôn ngữ của người Trung Hoa. Ngôn ngữ vốn là văn hóa, là cách sống. Cách sống của người Việt khác với cách sống của người Trung Hoa. Dù chúng ta có giỏi tiếng Hoa đến thế mấy đi nữa thì cũng khó lòng mà hiểu được cách sống, hay nói cho rõ hơn là hiểu được tư tưởng của người Trung Hoa. Chính vì thế mà việc hiểu đạo bị cản trở rất nhiều. Hiểu đạo đã khó nói gì đến đắc đạo. Bây giờ ĐCT dạy đạo bằng ngôn ngữ Việt Nam, dù cũng còn khá nhiều từ gốc Hán Việt, nhưng cũng tạo điều kiện cho nhiều người hiểu đạo hơn nữa. Rồi càng về sau này sẽ có thêm nhiều bậc thông thái hiểu biết diễn giải cho càng lúc càng dễ hiểu hơn. Càng hiểu thâm sâu lời dạy của ĐCT thì sẽ càng dễ có nhiều chơn linh đoạt đạo. Riêng bản thân chúng tôi không dám có cái cao vọng hiểu được lời dạy của ĐCT ngay trong kiếp sanh này để đạt đạo, mà chỉ hy vọng những thế hệ sau này làm được việc đó.
Ngoài ra, chúng ta cũng đã từng được dạy rằng đài cao, mà cao tận cùng là ngôi Thái Cực. Đó chính là biểu tượng tôn giáo của Nho Giáo. ĐCT dạy rằng kỳ ba này ĐCT dùng Nho Tông để chuyển thế, nghĩa là dùng các nguyên tắc cơ bản làm người của Nho Giáo để điều chỉnh xã hội. Nho Giáo có nền tảng nhân luân – nghĩa là luân lý của con người. Nói rõ hơn nữa là những qui tắc làm người trong một xã hội. Vậy ĐCT dạy chúng ta phải khởi đi từ những phép tắc xử thế cho đúng. Chúng tôi xin lấy một ví dụ: ĐCT dạy: lần này mở đạo Thầy chọn nhứt Phật, tam Tiên, tam thập lục Thánh, thất thập nhị Hiền và tam thiên Đồ Đệ. Vậy nếu suy diễn thêm một chút và so sánh với các phẩm trật trong Cửu Trùng Đài thì đó là Giáo Tông, Chưởng Pháp, Đầu Sư, Phối Sư, Giáo Hữu. Giả sử ta cứ cho là vào phẩm Giáo Hữu mới vào hàng đồ đệ của Thầy, thì điều quan trọng là ở chỗ này :muốn vào hàng đồ đệ của Thầy trước hết phải qua hàng Lễ Sanh. Sanh (theo từ điển Hán Việt) nghĩa là “người học trò” Do đó, Lễ Sanh nghĩa là người học lễ. Mà Lễ là một trong những đức tính của một Quân Tử trong Nho Giáo “Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín”. Vậy rõ ràng là: người tín đồ Cao Đài phải tu dưỡng theo những nguyên tắc làm người trong Nho Giáo từ những bước tập tành học đạo, mà cụ thể hơn là học Lễ.
Chỉ riêng một ý nghĩa “muốn vào hàng đồ đệ của ĐCT phải làm người học Lễ” cũng đã đủ cho chúng ta học cả một đời người rồi! Lễ là gì? Xin lưu ý, Lễ ở đây không chỉ nói riêng các lễ nghi thờ phượng trong tôn giáo chúng ta đâu. Lễ nghi tôn giáo chỉ là một phần của chữ Lễ trong Nho Giáo mà thôi. Vì thế trong đạo Cao Đài còn có người Lễ Sĩ – tức là người thực hiện các nghi tiết tôn giáo trong các đàn cúng. Còn Lễ Sanh là một phẩm vị trong Cửu Trùng Đài.
Theo tự điển thì chữ Lễ trong Nho Giáo chỉ toàn bộ những phép tắc cư xử đối với mọi người trong toàn cảnh xã hội. Ngày xưa khi gặp nhau, thì điều đầu tiên các bậc tiền nhân làm là phải “thi lễ” – nghĩa là chào hỏi nhau thật lễ phép nhẹ nhàng. Ngày nay người ta gọi là ứng xử có văn hóa trong xã hội. Phép ứng xử trong xã hội nói ra thì hết sức là mênh mông bởi vì các nguyên tắc đều phải tùy vào từng mối quan hệ, từng hoàn cảnh, từng xã hội, từng cộng đồng cụ thể theo những phong tục tập quán đặc trưng. Ví dụ như giữa cha mẹ và con cái, thì từng đối tượng phải ăn nói hành xử thế nào? Giữa bè bạn phải cư xử ra sao? Rồi giữa bề trên cấp dưới vân vân và vân vân …Tuy nhiên, dù thế nào đi nữa thì Lễ nói chung là phép ứng xử có mục đích nâng cao tinh thần của con người dựa trên cơ bản cái đẹp tuyệt vời của nhân bản mà vẫn đạt được mục tiêu của cá nhân. Chẳng hạn như thế này: một gia đình kia dành dụm được một số tiền nho nhỏ. Họ đồng ý với nhau nên mua sắm một món gì đó để phục vụ cho cuộc sống. Người cha và người mẹ muốn mua món gì xài cho bền. Nhưng những món như thế thường là có mẫu mã cổ xưa. Các con lại muốn mua món gì có dáng vẻ hiện đại một chút. Những món này thường là mau hư hỏng. Thế là có một xung đột nhỏ xảy ra ở đây. Vậy thì khi bàn bạc với nhau cả con cái lẫn cha mẹ phải dùng những lời lẽ thế nào vừa đẹp lòng nhau vừa tránh được những cảm giác căng thẳng gây buồn phiền oán giận, thậm chí vô lễ với nhau. Ơ Việt Nam ta, thì con cái có bổn phận kính trọng cha mẹ, vậy trong trường hợp trên phải trình bày thế nào để cha mẹ hiểu ý mình mà không lỗi đạo. Về phía cha mẹ cũng phải nhẹ nhàng nêu ý kiến của mình, không áp đặt đàn áp, bởi vì như thế sẽ nêu gương xấu cho con cái sau này. Nếu dung hòa được ý kiến thì đó là điều tốt đẹp nhất mà ai cũng mong muốn. Nhưng giả sử không dung hợp được, thì theo truyền thống Nho Giáo, con cái phải vui vẻ nghe theo lời cha mẹ không oán trách giận hờn. Và nói gì thì nói, cứ lấy thương yêu làm gốc thì theo chúng tôi mọi tranh chấp xung đột trên cõi đời này đều có thể giải quyết êm đẹp. Cha mẹ thương con cái thì sẽ cho phép con cái được toại ý. Con cái thương cha mẹ thì sẽ chiều ý của hai ông bà. Xét theo những điều nêu trên thì bậc Lễ Sanh là người lúc nào cũng lấy Lễ mà đối xử với mọi người trong cũng như ngoài đạo. Lễ Sanh đi đến đâu cũng phải được mọi người yêu mến do cách cư xử của mình.
Về mặt ý nghĩa triết học, thì rõ ràng ĐCT dạy chúng ta khởi chiều tư tưởng đi từ hai thực thể con người và xã hội. Con người không tốt thì xã hội còn nhiều nỗi bất an, thống khổ. Xã hội không bình yên thì không làm ăn sinh sống tốt được. ĐCT giáng thế dạy chúng ta phải vì xã hội nhân quần mà sửa sai bản thân mình. Như vậy sửa sai bản thân mình là vì muốn cho mọi người- trong đó có cả mình - cùng tốt đẹp; chứ không phải vì muốn mình được tốt đẹp để ngày kia về với Thầy có chức này, phẩm nọ. Có như vậy thì mới làm tròn nghĩa vụ độ thế mà ĐCT đã giao cho con cái của Ngài trong lần mở đạo kỳ thứ Ba này.
Điều thứ hai chúng tôi xin phép trình bày ở đây là ý nghĩa của từ Tiên Ông. Lúc chưa được học đạo, chúng tôi thường nghĩ rằng Tiên Ông là một cụ già đẹp đẽ, râu tóc bạc phơ, có phép thuật biến hóa đủ thứ. Tiên Ông thường hiện ra giúp đỡ những người tốt khi họ gặp tai nạn. Hình ảnh đẹp tuyệt vời này khiến cho chúng tôi cũng muốn được như Tiên Ông để giúp đỡ người ta. Rồi chúng tôi tìm sách vở đọc và hình dung ra một đạo sĩ là người mặc áo rộng, xách giỏ thuốc đi tìm kỳ hoa dị thảo, nấu thuốc luyện đan, để được thành Tiên Ông trường sinh bất tử.
Tuy nhiên, chắc quí vị cũng biết không phải như vậy. Bởi vì “Phép tiên đạo tu chơn dưỡng tánh”. Tu chơn dưỡng tánh, nói cho dễ hiểu là cải sửa bản thân. Trong Nho Giáo, cải sửa bản thân dựa vào nền tảng xã hội; nghĩa là trước tác động ngoại giới chúng ta điều chỉnh hành vi để tùy thuận hoàn cảnh đồng thời tác động vào ngoại cảnh theo định hướng Chân -Thiện - Mỹ. Nói theo từ hiện đại là con người tương tác với hoàn cảnh. Trong Tiên Giáo, việc cải sửa bản thân đặt trên nền tảng nội tại. Nghĩa là chỉnh sửa chính những tư tưởng vốn hình thành trong tự thân trí não của chúng ta. Cốt lõi của các vấn nạn tư tưởng sẽ được giải quyết bằng phương tiện và sức mạnh của chính tư tưởng.
Trở lại với đề tài chính thì ý của chúng tôi ở đây là: Nho Giáo là tương tác bên ngoài, Tiên Giáo là xử lý bên trong. Như vậy giáo huấn của ĐCT dạy chúng ta cả mặt nội lẫn ngoại. Ngoại giới và nội giới kết hợp là nguyên tắc Lưỡng Nghi để từ đó phát khởi Tứ Tượng, Bát Quái … vân vân theo định luật vũ trụ của ĐCT.
Tiếp theo là cụm từ Đại Bồ Tát Ma Ha Tát. Trong cụm này có hai cụm từ Đại Bồ Tát là một và Ma Ha Tát là hai. Đại là to lớn. Người Trung Quốc xưa thường dùng chữ này để đặt trước danh từ nào được cho là thiêng liêng hay đáng được tôn trọng. Ví dụ như Đại Nhân, Đại Giác vân vân … Bồ Tát nguyên gốc tiếng Phạn là Bodhisattva. Người Trung Quốc đọc là Bồ Đề Tát Đóa rồi sau rút gọn thành Bồ Tát. Ý nghĩa của từ này chỉ một người sau khi hành trì Ba La Mật Đa (nghĩa là Lục Độ) đạt được Phật vị nhưng nguyện không nhập Niết Bàn, ở lại thế giới ta bà cứu độ cho hết chúng sanh cùng đạt vị Phật như mình. Ma Ha Tát nguyên gốc tiếng Phạn là Mahasattva, người Trung Quốc đọc là Ma Ha Tát Đóa rồi rút gọn là Ma Ha Tát. Cũng tương tự như trên, Ma Ha tiếng Phạn là to lớn. Người Ấn Độ cũng thường hay đặt chữ này trước những từ chỉ sự kính trọng. Tát nghĩa là chúng sanh. Ma Ha Tát nghĩa là một người đáng kính. Cuối cùng toàn bộ cụm từ Đại Bồ Tát Ma Ha Tát có nghĩa là một người ở thế gian có tâm tu hành sau khi thực hiện các phương pháp tu tập đã trở thành bậc Giác Ngộ, nhưng không ích kỷ giữ riêng cho mình mà lại tự nguyện đem sự hiểu biết của mình ra để giúp cho mọi người cùng được hiểu biết như mình. Từ hiểu biết mà chúng tôi dùng ở đây không có nghĩa là sự hiểu biết mà chúng ta vẫn nói đến hằng ngày mà chính là sự hiểu biết thông suốt sâu xa của bậc Đại Giác. Nhà Phật gọi đó là Trí Huệ.
Như vậy, thánh danh (hay hồng danh) của Đấng Cao Đài Thượng Đế hết sức là phức tạp. Về mặt nghĩa đen thì phải hiểu từng cụm một như chúng ta đã bàn qua ở trên. Và hiển nhiên chúng ta không thể dịch ra thành một cụm từ duy nhất được. Ngoài ra, chúng ta ai cũng biết, ngôn từ nào trên thế giới này cũng mang một ẩn nghĩa nào đó bên trong. Thánh danh của Đấng Cao Đài Thượng Đế có nhiều ẩn nghĩa phong phú tùy theo chúng ta xem xét ở góc độ nào.
Điều đầu tiên, chúng tôi xin được bàn qua về cách dùng chữ. Thánh danh được kết hợp bởi bốn danh từ. Cao Đài là một, Tiên Ông là hai, Đại Bồ Tát là ba và Ma Ha Tát là bốn. Các danh từ này là một sự pha trộn giữa ngôn ngữ Việt Nam, Trung Quốc và Ấn Độ. Ngôn ngữ biểu thị văn minh của một quốc gia. Nền văn minh Trung Hoa và Ấn Độ là hai nền văn minh lớn của nhân loại nói chung và của Á Châu hay Phương Đông nói riêng. Giữa bốn danh từ này không hề có dấu phẩy hay dấu chấm. Điều này ngụ ý ba nền văn minh được hòa trộn làm một hết sức nhuần nhuyễn không có ranh giới phân biệt cụ thể. Cuối cùng toàn bộ cụm danh từ đã được hoàn toàn Việt Nam hóa. Vậy rõ ràng ĐCT dạy chúng ta là cả nền văn minh tinh thần của phương Đông sẽ trộn lẫn vào nhau rồi hội tụ tại Việt Nam, nơi Thầy trao Bí Pháp cứu rỗi nhân loại trong kỳ ba này.
Về mặt triết lý tôn giáo, thì thánh danh của ĐCT ngụ ý ba tôn giáo lớn của Châu Á là Phật, Lão và Khổng hòa thành một, nhen nhúm hạt mầm ở Việt Nam rồi phát triển ra nước ngoài, đem lời giáo huấn của ĐCT đến mọi sắc dân, thực hiện lời hứa của ĐCT là cứu độ vạn linh.
Sự pha trộn này có khi bị hiểu lầm là hỗn tạp. Nhưng theo chúng tôi thì trong thế giới hiện tượng này không có thứ gì gọi là “nguyên thủy” cả. Nếu có điều gì đó được gọi là nguyên thủy thì chính là vì chúng ta chưa tìm ra được nguồn gốc của nó mà thôi. Thêm một điều nữa, khuynh hướng của thế giới hiện nay là giao tiếp chứ không cô lập. Mà giao tiếp thì không sớm thì muộn cũng phải ảnh hưởng lẫn nhau, tác động lẫn nhau. Triết lý của Cao Đài không phải là hỗn tạp mà là sự dung hợp. Hỗn tạp là kết hợp với nhau không theo một tỷ lệ nhât định nào. Còn dung hợp là kết hợp với nhau theo một định hướng chấp nhận và tôn trọng các thành tố để đưa đến một mục đích cao cả. Cuối cùng rồi thì người ta cũng phải chấp nhận là phải dung hợp thì thế giới này mới tồn tại. Mà dung hợp để tồn tại chính là lời dạy ngàn vàng của ĐCT dành cho con cái của Người từ hơn tám chục năm qua.
Tinh thần của Cao Đài không phải là hỗn tạp. Nghĩa là không phải vào đạo Cao Đài rồi là phải tu tập theo các pháp môn của cả ba tôn giáo Phật Lão Khổng mỗi thứ một chút, hay phải đọc cho hết kinh sách của ba tôn giáo này. Mà cái chính là có được cái tinh thần dung hợp với tha nhân, có lòng tôn trọng người khác cũng như tôn trọng chính mình trong mỗi sinh hoạt hằng ngày. Bởi một thực tế hiển nhiên là cá nhân chúng ta không thể đóng cửa không giao tiếp mà tự tồn tại được, nên chúng ta phải học tập lời dạy dung hợp của ĐCT để sống, để tu dưỡng và làm cho xã hội ngày càng tốt đẹp hơn.
Nói tóm lại, trong tự thân danh xưng của Cao Đài Thượng Đế đã mang ý nghĩa triết lý Cao Đài đó là: dạy làm người. Chúng tôi nghĩ rằng có làm người đúng nghĩa thì mới mong tập tành làm Tiên làm Thánh.
Tại sao thờ Thiên Nhãn
Nếu đã luận bàn Thánh Danh của Đấng Cao Đài Thượng Đế mà không bàn đến biểu tượng Thiên Nhãn, thì theo chúng tôi là một thiếu sót lớn. Vậy kính mời quí vị nghe chúng tôi trình bày thêm tiểu đoạn thứ ba: Tại sao thờ thiên nhãn.
Phải công nhận một điều là có rất nhiều người khi nhìn thấy Thiên Nhãn lần đầu đều có một cảm giác rất lạ thoáng qua ý nghĩ của mình. Có khi là cảm giác sợ, có khi là một khích động tò mò. Không biết bao nhiêu lần rồi mà các bạn ngoài đạo của chúng tôi hỏi tại sao phải thờ Thiên Nhãn. Rõ ràng biểu tượng của ĐCT đã gây ấn tượng mạnh mẽ biết bao. Nhưng chắc quí vị cũng đồng ý với chúng tôi là biểu tượng của Thầy không phải dùng để gây ấn tượng. Thầy giáng thế dạy đạo, ắt là biểu tượng của Thầy là để dạy đạo. Vậy ý nghĩa của lời dạy đạo đó là gì?
Mọi tín đồ Cao Đài đều biết thánh ngôn thầy dạy sau đây:
Nhãn thị chủ tâm
Lưỡng quang chủ tể
Quang thị thần
Thần thị thiên
Thiên giả ngã giả
Thần là khiếm khuyết của cơ mầu nhiệm từ ngày đạo bị bế. Lập Tam kỳ Phổ Độ này, duy Thầy cho Thần hiệp Tinh Khí đặng hiệp đủ Tam Bửu là cơ mầu nhiệm siêu phàm nhập thánh. Các con nhớ nói vì cớ nào thờ Con Mắt Thầy cho chư đạo hữu nghe …
Phẩm vị Thần Thánh Tiên Phật từ ngày đạo bị bế, thì luật lệ hỡi còn nguyên, luyện pháp chẳng đổi, song Thiên Đình mỗi phen đánh tản Thần, không cho hiệp cùng Tinh Khí. Thầy đến đặng hườn nguyên Chơn Thần cho các con đắc đạo.
Con hiểu “Thần cư tại Nhãn”. Bố trí cho chư đạo hữu con hiểu rõ. Nguồn cội Tiên, Phật do yếu nhiệm là tại đó.
Xin quí vị cho phép chúng tôi được miễn trích dịch sách vở khi nói đến tiểu đoạn này. Đã có rất nhiều sách vở đưa ra lời giải thích, ví dụ như Cao Đài tự điển đã cho giải thích rất đầy đủ. Ý chúng tôi là xin trình bày những điều mà chúng tôi thật sự chiêm nghiệm bằng chính bản thân mình. Chúng tôi nghĩ rằng đây mới chính là điều quan trọng nhất.
Điều đầu tiên chúng tôi xin quí vị quan tâm đến những từ ngữ trong bài thánh ngôn như “cơ mầu nhiệm”, “Thầy cho Thần hiệp Tinh Khí”, “luyện pháp”, “nguồn cội Tiên Phật”. Mặc dù thầy có dạy rằng “Bố trí cho chư đạo hữu con hiểu rõ” nhưng rõ ràng Thầy dạy điều này cho những vị nào bước vào tịnh luyện chứ không phải cho bất kỳ đạo hữu nào. Hơn nữa Thầy dùng chữ bố trí chứ không phải thông báo. Thông báo là phổ biến ra, là nói ra cho mọi người đều biết; còn bố trí là nói để cho mọi người hiểu . Nói để cho người khác biết thì rất dễ, nhưng nói cho nguời khác hiểu thì rất khó, vì điều đó đòi hỏi nhiều yếu tố tế nhị nếu không muốn nói là phức tạp. Như vậy từ này hàm ý sắp xếp tính toán lọc lựa, nghĩa là chỉ trao cho những đối tượng cần hiểu chứ không chỉ đơn giản là cho đối tượng cần biết. Chúng ta cũng biết Tịnh luyện là Bí Pháp của Cao Đài, chưa nói đến ẩn nghĩa của từ Bí Pháp này mà chỉ nội ý nghĩa thông thường thôi thì từ Bí Pháp đã có nghĩa là không phổ biến rồi. Sẽ có thắc mắc là tại sao lại không phổ biến? Thầy đã nói là cứu vạn linh nghĩa là cứu tất cả, vậy thì phải cho tất cả mọi người biết chứ? Thưa quí vị, Thầy không hề dấu, rõ ràng là chúng ta đang đọc những câu đó đây mà, nhưng “biết” thì phổ biến còn muốn “hiểu” thì phải “bố trí”. Nghĩa là có thể có nhiều người biết Bí Pháp là gì, nhưng số người hiểu được bí pháp thì sẽ rất là ít.
Chúng tôi xin nói rõ thêm một điều quan trọng. Đó là: không thể dịch những câu trên ra tiếng Việt theo nghĩa đen rồi cho là hiểu được lời dạy của Thầy. Dịch nghĩa ra tiếng Việt mà chúng ta vẫn thường gọi là diễn Nôm chỉ đem lại cho chúng ta cái “biết” chứ không thể đem lại cho chúng ta cái “hiểu”. Chắc quí vị cũng đã từng dịch nghĩa ra tiếng Việt rồi, hoặc đã từng đọc một số tác giả dịch nghĩa đen ra rồi và cũng đã thấy là cái “hiểu” của mình cũng không tăng lên bao nhiêu. Huyền bí vẫn hoàn huyền bí. Chúng tôi xin lấy một ví dụ ngoài đời thế này: giả sử như chúng ta chưa từng học Y khoa đi. Vậy thì khi đi khám bệnh chắc chắn chúng ta không thể nào hiểu được những lời giải thích của Bác Sĩ về căn bệnh của mình cho dù vị Bác Sĩ có cố công thế mấy đi nữa. Lúc đó mình bắt buộc phải nghe theo lời khuyên chuyên môn của Bác Sĩ chứ không còn cách nào khác.
Trong lãnh vực Bí Pháp cũng vậy. Nếu mình chưa đi vào tịnh luyện mà muốn nghe chuyện tịnh luyện thì khác nào đi khám bệnh rồi cãi với Bác Sĩ về cách điều trị trong khi mình chưa có kiến thức về y khoa. Nhưng nói như vậy không có nghĩa là mình không thể hiểu được. Muốn hiểu những lời Bác Sĩ, mình phải học Y Khoa, hay ít ra thì cũng đọc sách vở tài liệu y khoa cho nhiều. Muốn hiểu những câu Thầy dạy đã nêu trên thì mình phải đi vào tịnh luyện. Mà trong Cao Đài muốn đi vào tịnh luyện thì phải đủ Tam Lập trước. Chỉ có trường hợp ngoại lệ là những chơn linh cao trọng nhìn vào là hiểu ngay, nhưng điều này tương đối hiếm.
Vậy tóm lại vấn đề này, theo chúng tôi, muốn biết vì sao phải thờ Thiên Nhãn ta có thể tạm “biết” như sau: Đó là biểu tượng của Đấng Cao Đài Thượng Đế có mục đích dạy cho nhân loại cách thức để trở về với Ngài. Về mặt từ nghĩa thì cứ dịch theo các bậc tiền bối đã dịch như là: mắt là chủ của tâm; hai ánh sáng là chủ; ánh sáng là thần; thần là Trời; Trời là Ta. Đến đó theo chúng tôi là đã đủ. Phần suy diễn thêm gì gì đó để “hiểu” được những câu này xin dành cho những bậc cao trọng. Sau khi biết được nghĩa đen của những từ này rồi thì con đường tiếp theo sẽ hoàn toàn là tùy vào từng cá nhân bởi vì đó là con đường riêng của từng cá nhân. Hay nói theo thuật ngữ Cao Đài là sự tương tác của hai đối tượng quan trọng trong vũ trụ: Tiểu Linh Quang và Đại Linh Quang. Trong sự tương tác này không có hình ảnh, không có ngôn ngữ thậm chí không có ý thức. Chúng tôi xin phép nhấn mạnh chỗ này: hiện giờ chúng ta dùng ngôn ngữ để bàn về vấn đề này chỉ là tạm. Những gì chúng tôi nói ra đây chỉ là ý thức vận động trong thế giới hiện tượng mà thôi. Nói thẳng ra là nếu “hiểu” được lời dạy về biểu tượng Thiên nhãn của ĐCT là đã đạt đạo.
Kết hợp hiểu biết và hành động
Kính thưa quí vị,
Chúng tôi xin phép được kết thúc bài nói chuyện bằng một vài ý tưởng.
Thứ nhất, qua Thánh Danh của Đấng Cao Đài Thượng Đế, chúng ta rút ra được một bài học làm người. Làm người, trước hết phải vì người khác, vì tha nhân. Cứ làm việc, cứ giúp đỡ người khác mà không quan tâm đến bản thân mình hay quan tâm đến ích lợi của riêng mình. Cũng không tính toán lời lãi, cũng không quan tâm đến màu da sắc tóc. Xem vạn linh là mình, mình là vạn linh.
Thứ hai, thánh tượng Thiên Nhãn của Cao Đài là Bí Pháp dành cho các chơn linh cao trọng hiểu. Chúng tôi xin phép được nhấn mạnh lại điều này một lần nữa HIỂU chứ không phải BIẾT. Những ai còn nhận thấy mình chưa làm được gì trên con đường tam lập, có lẽ sẽ còn chưa HIỂU được thánh tượng của Thầy. Hãy cầu nguyện mong có ngày nào đó chúng ta gặp được các bậc trí giả đạt đạo chỉ dạy lại. Và chúng tôi chắc một điều là đã có đang có và sẽ có những bậc đại giác ngộ như thế. Bởi vì như thầy đã dạy kỳ ba này Thầy sẽ tận độ.
TỪ CHƠN