THÔNG CÔNG

Giới thiệu các cách thông công của Đạo Cao Đài

Thông công là những cách thức nhằm giao tiếp với thế giới siêu tự nhiên như xây bàn, cầu cơ, chấp bút… Trong Đạo Cao Đài, những phương pháp này đã được nâng lên hàng Bửu Pháp – nghĩa là những hiện tượng tôn quí. Trong Tòa Thánh Tây Ninh, khoảng trống giữa bàn thờ Thượng Đế và các ngai của Ngôi Giáo Tông, Chưởng Pháp, Đầu Sư và Chánh Phối Sư được gọi là Cung Đạo. Đây là nơi các chức sắc cao cấp ngày trước cầu cơ giao tiếp với cõi thiêng liêng. Đứng tại đây nhìn thẳng lên trần Đền Thánh, sẽ nhìn thấy biểu tượng của các Bửu Pháp này.

Những cách thức thông công trên trần Cung Đạo

1. Xin xăm

Trước hết, là hình đắp nổi của một ống xâm, và một đôi “keo” âm dương. Ống xâm thường là một hình trụ cao khoảng 0,15 m làm bằng tre. Trong ống đựng những thẻ xâm cũng bằng tre. Mỗi thẻ này đều có đánh số thứ tự.

Nếu muốn hỏi các đấng thiêng liêng điều gì thì người ta xin xâm như sau: người xin quì trước bàn thờ, hai tay cầm ống xâm đưa lên ngang mày, đọc thầm điều muốn hỏi. Sau đó người ta lắc ống xâm theo một cách qui định sẵn. Trong khoảng vài phút sẽ có một thẻ xâm rơi ra khỏi ống.

Bây giờ người ta mới tiến hành xin “keo”. Keo là hai mảnh gỗ đặt vừa lòng bàn tay người. Hai mảnh này có dạng một hạt đậu tách ra làm đôi. Người ta cũng nâng hai mảnh gỗ này ngang mày cầu nguyện. Sau đó thả rơi xuống sàn. Nếu hai mảnh nằm trái chiều nhau, (một sấp một ngửa) điều đó có nghĩa là các đấng thiêng liêng đã đồng ý trả lời bằng thẻ xâm đã rơi ra trước đó.

Cuối cùng người ta đọc số trên thẻ xâm, rồi đến nơi trữ sẵn các quẻ xâm để nhận câu trả lời. Các quẻ xâm thường là một mảnh giấy ghi một bài thơ ngắn kể về một điển tích trong sử ký Trung Hoa, và lời bình luận ở dưới. Người ta liên hệ câu chuyện này với bản thân và đoán ra câu trả lời.

Xin xâm thường phổ biến ở các đền thờ, chùa Phật trên khắp đất nước Việt Nam. Trước năm 1975, tại đền thờ Phật Mẫu ở Tòa Thánh Tây Ninh cũng có tổ chức xin xâm. Nhưng sau 1975 thì chính quyền mới đã cấm việc này, cho rằng đây là mê tín dị đoan.

2. Xây bàn

Kế đó, người ta sẽ nhìn thấy một chiếc bàn ba chân tượng trưng cho phương pháp xây bàn. Đây là một chiếc bàn có một chân ngắn hơn ba chân còn lại. Khi cần giao tiếp với thế giới siêu tự nhiên, sẽ có nhiều người (số người không giới hạn) ngồi xung quanh bàn, đặt các bàn tay úp lên bàn rồi cùng cầu nguyện, hoặc đọc một bài thơ có nội dung xin được tiếp xúc với các linh hồn ở cõi thiêng liêng. Khi cơ giáng, tức là có một linh hồn nào đó muốn giao tiếp, thì bàn chuyển động và gõ chân xuống nền nhà. Theo qui ước truyền thống ở Việt Nam, bàn gõ một nhịp là muốn nói mẫu tự A, hai nhịp là Ă, ba là Â vv…Cứ như thế, các mẫu tự sẽ ghép lại thành từ ngữ rồi thành bài văn hay thơ. Trong số các đệ tử đầu tiên của Cao Đài thì ba ông Cao Quỳnh Cư, Cao Hoài Sang và Phạm Công Tắc đã dùng cách này để liên lạc với thế giới thiêng liêng.

3. Tiểu Ngọc Cơ

Biểu tượng thứ ba là một bảng mẫu tự Latin. Đây là hiện tượng cầu cơ rất phổ biến ở các nước phương Tây. Người ta dùng một miếng gỗ nhỏ có hình quả tim, có thể lắp thêm bi lăn ở dưới đế cho dễ di chuyển. Đó là cơ. Cơ lại được đặt lên một bảng chữ cái. Khi cầu cơ, cần có hai người đặt ngón trỏ lên trên cơ sau đó người ta cầu nguyện giống như khi xây bàn. Khi có một linh hồn nào nhập vào, cơ sẽ di chuyển vòng tròn (thường là ngược chiều kim đồng hồ nếu ở Việt Nam). Mũi nhọn của trái tim (cơ) chỉ vào mẫu tự nào thì người ta sẽ ghi chép mẫu tự đó để ghép lại thành văn bản. Nhiều đệ tử khác trong Đạo Cao Đài đã dùng cách này và gọi đó là Tiểu Ngọc Cơ.

4. Đại Ngọc Cơ

Thứ tư là một dụng cụ rất đặc trưng của Đạo Cao Đài được gọi là Đại Ngọc Cơ. Đây là một chiếc giỏ đan bằng tre, trên miệng giỏ có một thanh gỗ (thường là bằng cây dâu) gác ngang qua tâm. Một đầu thanh gỗ vươn dài ra bên ngoài, tận cùng được khắc thành hình đầu chim loan. Đây chính là bút để viết. Khi sử dụng, giỏ có tư thế úp miệng xuống và có hai người nâng miệng giỏ. Sau đó người ta cũng cầu nguyện xin được giao tiếp. Lúc cơ giáng, đầu chim loan sẽ viết xuống mặt bàn, hoặc có khi viết lên mặt giấy. Do các cách tiếp xúc như xây bàn hoặc dùng Tiểu Ngọc Cơ thường rất chậm, một bài văn có khi mất cả đêm, nên các đấng thiêng liêng đã dạy các đệ tử Cao Đài tạo ra Đại Ngọc Cơ để nhận thông tin nhanh hơn và nhiều hơn.

5. Chấp Bút

Hình tượng thứ năm là một cây bút. Đây là một cách thông công dành cho các chức sắc cao cấp trong Đạo Cao Đài được gọi là Chấp Bút. Theo tài liệu ghi nhận được thì chỉ có một vài đệ tử đầu tiên là được thiêng liêng cho phép áp dụng cách này. Trong số đó cụ thể nhất là Hộ Pháp Phạm Công Tắc. Theo cách này, người sử dụng lấy một xấp giấy, đánh số thứ tự vào các mặt giấy rồi đặt ngay trước mặt mình. Sau đó quì trước bàn thờ, dùng tay thuận của mình nâng một cây bút (không bắt buộc phải là bút gì) ngang mày và cầu nguyện. Nếu có hiện tượng giáng bút, tay cầm bút sẽ bị tê rần lên và sẽ tự động hạ xuống viết lên mặt giấy. Lúc này người viết rơi vào trạng thái nửa tỉnh thức, nửa mê man. Khi viết hết một mặt giấy, tay còn lại sẽ tự động lật giấy sang trang để tay cầm bút viết tiếp. Chính vì thế mà phải đánh số trang trước, để khi viết xong, người viết tỉnh lại dễ theo dõi.

6. Xuất chơn thần

Một cách thông công nữa được tượng trưng bằng một hình vẽ đầu người. Đây là cách thông công cao cấp nhất trong Đạo Cao Đài. Trong cách này, người sử dụng tiếp xúc trực tiếp với thế giới thiêng liêng bằng tư tưởng. Hiện không có tài liệu chính thức của Đạo Cao Đài nói rõ về cách thức này. Qua các Thánh Ngôn, chỉ thấy nói là có cách luyện Tam Bửu. Cách này sẽ được dạy cho các tín đồ khi vào Tịnh Thất để luyện đạo. Hiện nay, chính thức thì chỉ có Trí Huệ Cung là Tịnh Thất dành cho nữ phái của Đạo Cao Đài ở Tòa Thánh Tây Ninh. Theo dự kiến, Tịnh Thất tiếp theo sẽ là Vạn Pháp Cung tọa lạc dưới chân núi Bà Đen, Tây Ninh.

Những đồng tử

Dù là cách nào đi nữa, thì yếu tố quan trọng nhất vẫn là người thực hiện. Trong Cao Đài Giáo, những người thực hiện được các cách giao tiếp nói trên thường được gọi là các đồng tử (psychics) và không phải ai cũng có thể là đồng tử.

Đặc biệt chỉ có một số đồng tử nhất định có thể nhận lời truyền dạy từ Thượng Đế, những vị này được gọi là Ngự Mã Quân. Lúc mới mở Đạo, Thượng Đế đã giáng cơ lập ra … cặp đôi đồng tử. Các vị này đem Đại Ngọc Cơ đi đến nhiều nơi ở Việt Nam để các đấng thiêng liêng giáng cơ thu nhận tín đồ. Sau đó, vì phương pháp thông công bị lạm dụng quá nhiều, nên đã có lệnh ngưng cầu cơ rộng rãi ngoài các tín đồ. Riêng Hội Thánh Cao Đài Tây Ninh vẫn thực hiện cầu cơ cho đến năm 1975. Hiện nay không nghe nói gì về các hiện tượng này ở trong Hội Thánh nữa.

Phân loại cơ

Ngoài ra, hiện tượng cầu cơ còn được phân loại thành Tiên Cơ, Tà Cơ Nhơn Cơ. Ranh giới giữa ba loại rất mong manh, rất khó phân biệt. Nói chung, tìm được một đồng tử đã khó, tìm được một bài cơ có giá trị còn khó hơn nữa.

1. Tiên Cơ

Khi cầu cơ và nhận được những bài văn, thơ hay, hoặc lời giảng đạo uyên thâm, thì những bài cơ này được xem là có nguồn gốc Tiên Cơ.

2. Tà Cơ

Khi những bài cơ ẩn chứa những ý đồ xấu, hoặc có lời lẽ không đạo đức xúi giục người tranh chấp với nhau, đó là hiện tượng Tà Cơ.

3. Nhơn Cơ

Khi không có đấng thiêng liêng nào giáng mà đồng tử lại tự động điều khiển cơ nói ra ý nghĩ của chính mình, đó là Nhơn Cơ.

Kết luận

Do khó phân biệt đâu là Tiên Cơ, đâu là Tà Cơ hoặc Nhơn Cơ, nên trong Đạo Cao Đài, không có khuyến khích các tín đồ sử dụng các phương pháp thông công này. Các tín đồ muốn tìm hiểu các bài cơ thì đọc Quyển Thánh Ngôn Hiệp Tuyển. Đây là tài liệu ghi lại các bài cơ quan trọng trong thời kỳ mở Đạo. Hiện nay đây là quyển sách được Hội Thánh Cao Đài Tây Ninh chính thức phát hành.

Từ Chơn

tuuchoon@gmail.com