Ý NGHĨA CÚNG TỨ THỜI
CÚNG TỨ THỜI CÓ LỢI ÍCH GÌ?
Kính thưa chư hiền huynh, hiền tỷ.
Trong đạo Cao Đài, không tín đồ nào mà lại không biết việc cúng tứ thời. Đây là một sinh hoạt không thể thiếu trong đời sống tâm linh của người học đạo. Vì thế hôm nay chúng tôi xin được phép trình bày cùng quí huynh tỷ về diệu dụng của sinh hoạt này.
Chúng ta đều biết đây là một trong những thể pháp thông công của đạo Cao Đài. Khi ta thực hiện thể pháp này đúng cách thì sẽ đạt được lợi ích cả về mặt vật chất lẫn tâm linh. Sau đây chúng tôi xin bàn đến lợi ích về mặt vật chất.
Lợi ích về mặt vật chất
Trước hết, thiết tưởng cũng cần phải nói thêm, trong đạo Cao Đài, cúng tứ thời thì phải đọc kinh; mà đọc kinh thì phải kèm theo âm nhạc.
Theo các nghiên cứu về âm học chúng ta biết được một số tác động của âm nhạc. Đã có một thí nghiệm thú vị sau đây: người ta đặt hai cái loa gần một cây con, một cho phát nhạc êm dịu, một cho phát nhạc kích động. Sau một thời gian, cây lớn dần lên, nhưng mọc nghiêng về phía loa phát nhạc êm dịu. Rõ ràng, âm nhạc đã tác động vào thực vật. Người ta ứng dụng kinh nghiệm của thí nghiệm trên vào nhiều lĩnh vực. Ví dụ phát nhạc để ru em bé ngủ ở nhà trẻ hoặc trong y học người ta cũng đã dùng âm nhạc như một liệu pháp và đã thu được nhiều kết quả khả quan. Một ví dụ thú vị nữa là ở các siêu thị, người ta cho phát nhạc êm dịu để khách hàng thoải mái ở lại lâu hơn, có thời gian cân nhắc, mua thêm hàng và như vậy thì doanh số bán tăng lên. Ngược lại, ở các nhà hàng, nếu khách quá đông, người ta phát nhạc dồn dập làm khách hàng ăn nhanh hơn để mau có bàn trống cho khách mới.. Tóm lại, âm nhạc có tác động hiển nhiên vào cơ thể sinh vật, dù có muốn nghe hay không. Và như đã thấy, âm nhạc êm dịu làm cho cây xanh phát triển, hay đúng hơn có tác dụng tốt đối với sinh vật, nhất là cơ thể chúng ta. Nói một cách đơn giản là khi đọc kinh, chúng ta đã dùng âm nhạc để nuôi dưỡng và phục hồi năng lực cho cơ thể của mình sau những giờ lao lực vì cuộc sống.
Lợi ích thứ hai có liên quan đến thời gian đọc kinh. Tất cả các sinh vật đều bị yếu tố thời gian chi phối. Vì có thời gian nên mới có sinh ra, lớn lên, già cỗi rồi chết đi; tức là thành, trụ, hoại, không. Thời gian là một thành tố không thể thiếu được của vũ trụ và thời gian tồn tại ngoài vòng tay của con người. Nghĩa là con người không có cách nào làm thời gian chậm lại hoặc nhanh hơn. Và thời gian dưới cái nhìn vĩ mô là một tổng thể các chu kì mà ngày nay mọi người đều biết đến dưới tên gọi chu kì sinh học. Một bông hoa cứ đến mười giờ là nở. Một con hàu cứ đến giờ thủy triều lên là hé vỏ đón nước biển. Người ta thử đem con hàu ấy đến bờ biển khác, nơi mà giờ thủy triều lên khác hẳn thì nó vẫn hé vỏ theo giờ thủy triều lên ở nơi cũ. Trong cơ thể con người cũng có một đồng hồ sinh học như thế. Nếu theo dõi cẩn thận thì sẽ thấy rõ tại sao có lúc tinh thần dễ tập trung, có lúc dễ nổi cáu; thậm chí có lúc dễ mắc bệnh hơn những thời điểm khác. Do đó, đạo Cao Đài qui định cúng tứ thời là căn cứ vào thực tế này. Trong bốn thời điểm này (nghĩa là Tý, Ngọ, Mẹo và Dậu), do tác động của đồng hồ sinh học mà các cơ quan trong cơ thể chúng ta đều có những sinh hoạt khác nhau. Đọc kinh vào những lúc này, về mặt nội giới, là điều hòa các hoạt động sinh lý và tâm lý của cơ thể. Tưởng cũng nên nói thêm ở đây là ngày sóc (ngày đầu tháng âm lịch) và ngày vọng (ngày giữa tháng âm lịch) đều là những dịp có tác động rất lớn đến cơ thể chúng ta. Có rất nhiều nghiên cứu nói đến hiện tượng khi trăng tròn lực hút của trái đất và mặt trăng lớn nhất. Trong con người, phần chất lỏng, tức là nước lại chiếm tỉ trọng rất cao. Do đó cơ thể cũng chịu ảnh hưởng sức hút của trái đất và mặt trăng. Lúc thủy triều lên cao nhất cũng là lúc một số bệnh mãn tính như suyễn, tâm thần dễ bộc phát nhất. Một số điều tra về tội phạm cũng cho thấy đó cũng là lúc tội phạm xảy ra nhiều nhất. Như vậy, rõ ràng là vị trí các thiên thể có tác động đến đồng hồ sinh học trong cơ thể. Đến đây, càng dễ nhận thấy rằng đọc kinh trong những lúc như thế sẽ làm cho việc hồi phục năng lực cho cơ thể đạt hiệu quả cao hơn, tức là cơ thể sẽ khỏe mạnh hơn. Thể xác khỏe mạnh thì trí não sáng suốt, tinh thần mạnh mẽ. Có như thế chúng ta mới hiểu thấu đáo lời dạy của Đức Chí Tôn để mai kia hiệp một cùng Ngài.
Lợi ích về mặt tâm linh
Trong cúng tứ thời, nhạc dùng theo lời kinh chủ yếu là hai điệu Nam Xuân và Nam Ai, nghĩa là một vui, một buồn. Điều này không ra ngoài qui luật vận hành âm dương của Đức Chí Tôn. Có vui ắt có buồn, nửa vui; nửa buồn và chẳng vui; chẳng buồn; tức là lưỡng nghi sanh tứ tượng. Lời kinh phối hợp với nhạc sẽ cấu thành một ngôn ngữ đặc biệt và sẽ tác động vào mọi hướng, cũng như âm nhạc tác động vào cây con. Vậy khi cúng tứ thời, chúng ta đọc kinh không những tác động vào cơ thể của chính mình mà còn vào môi trường chung quanh, đem lại cảm giác an bình cho mọi vật.
Ngoài ra, người đọc kinh khi cúng tứ thời còn có thể nhận thông tin nữa. Trong âm học, chúng ta đều biết hiện tượng cộng hưởng. Tức là nếu khảy đàn ở một nốt ( là âm ở một cao độ nào đó trong bảy âm ở nhạc phương Tây và năm âm ở nhạc dân tộc Việt Nam) thì một dây đàn khác mang nốt cùng cao độ, dù không chạm tới cũng rung lên và phát ra âm thanh. Vậy khi đọc kinh đạt đến mức có một tâm hồn trong sáng, không một lo nghĩ, phiền muộn nào tức là đã tự nâng cõi lòng mình lên cùng cao độ với âm thanh của vũ trụ vốn phát ra thường xuyên. Đó cũng là lúc có được sự cộng hưởng, tức là nhận được thông tin từ vũ trụ, cũng như người xưa thường nói có cảm thì có ứng. Nhận được thông tin từ vũ trụ tức là thông công cùng tam thập lục thiên, tam thiên thế giới vậy.
Xin nhớ rằng, âm nhạc dùng trong thể pháp này có định hướng tích cực rõ rệt. Đó là ý thức trao đổi và tác động vào môi trường sống. Người tu học đọc kinh không những để tác động vào chính cơ thể mình mà còn muốn môi trường xung quanh cũng được tác động, giống như âm nhạc tác động vào cây con. Cái vui sảng khoái, nhẹ nhàng của Nam Xuân, cái buồn mênh mông của Nam Ai, sự đậm đà dân tộc cùng với tiết tấu dìu dặt, nhẹ nhàng gợi mở sự trong sáng trong tâm hồn người học đạo. Để từ đó, người học đạo có được tình yêu, đi vào cuộc đời không nghi kị, không hận thù vật vã. Tâm thần an ổn, tâm lý như nhiên là trạng thái sẳn sàng đón nhận những khoảnh khắc sáng suốt bùng phát, chuẩn bị cho một thay đổi lớn lao mà người xưa vẫn gọi là trí huệ đáo bỉ ngạn.
Ngoài ra, khi cúng tứ thời ở thánh thất hoặc tốt hơn nữa là đền thánh sẽ có thêm hai lợi điểm. Thứ nhất là sự hỗ trợ của các bạn đạo. Ai cũng biết, con người vốn sợ làm việc một mình. Trong một đám đông, nhất là với những người cùng chung mục đích, con người cảm thấy có chỗ dựa nên dễ có hành động dũng cảm. Ngoài ra, nhờ tác động qua lại của tinh thần nên dễ tập trung hơn. Điều này là tối cần thiết cho việc đọc kinh. Sự kiện tâm lý ấy có thể thấy qua các cuộc biểu tình. Ngày nay, người ta gọi là hiệu ứng đám đông. Có nghĩa là trong đám đông, nếu mọi người cùng làm một việc gì thì dễ lôi cuốn cá nhân làm theo việc ấy. Đó cũng là nguyên nhân khiến con người nguyên thủy tập hợp thành bầy đàn rồi tiến lên bộ lạc và xã hội ngày nay. Điểm thứ hai là kiến trúc thánh thất (nhất là nơi nào có kiến trúc giống đền thánh, hay tốt nhất là đền thánh). Chẳng những không khí nơi này trang nghiêm, yên tĩnh, dễ tập trung, mà chính kiến trúc ấy cũng có những đặc thù của nó. Âm thanh khi gặp vật cản sẽ dội lại (tính phản xạ của âm thanh). Do tính chất này, người ta tính toán khi xây một thính phòng sao cho hiệu quả âm thanh đạt đến mức tốt nhất, nghĩa là không có tiếng vang để gây ra nhiễu âm. Phần lớn các thánh đường từ xưa đến nay trên khắp thế giới đều có hình mái vòm trên trần là nhằm vào mục đích này. Đền thánh cũng có hình mái vòm, nhưng là chín mái vòm liên tiếp. Vậy thì hiệu quả âm thanh ở Cửu Trùng Đài cũng có phần khác thường. Cũng một ống sáo, nếu ta bấm các lỗ khác nhau thì ta sẽ được các âm thanh khác nhau. Do vậy, lời kinh cùng với âm nhạc vang lên trong thánh thất chắc chắn là có một tác động phi thường, giúp chúng ta tịnh tâm suy ngẫm thấu đáo cái lý của vũ trụ và nhân sinh.
Cũng xin nói thêm, chư huynh tỷ đều biết vị trí của đền thánh cũng là một bí mật. Theo thánh ngôn , vị trí này nằm trên huyệt lục long phò ấn. Ngày nay, mọi người đều đồng ý rằng do cấu tạo của vỏ trái đất không đồng đều và trong lòng đất có thể có những quặng kim loại lớn với những trữ lượng khác nhau làm thay đổi ít nhiều từ trường của trái đất. Do đó, khi ở những nơi khác nhau trên quả đất, con người sẽ chịu ảnh hưởng của từ lực khác nhau. Con người chịu ảnh hưởng của lực hút quả đất rất lớn. Các nhà du hành không gian sau khi sống trong môi trường không trọng lực một thời gian lâu đều mắc phải bệnh rối loạn các chức năng cơ thể lúc trở về trái đất. Như vậy, đền thánh nằm ở một vị trí có từ lực đặc biệt tác động vào cơ thể con người và làm cho việc thông công với cõi thiêng liêng trở nên dễ dàng hơn.
Còn một điểm nữa, đó là việc đọc kinh cúng tứ thời có tác động rất lớn đối với tư tưởng người đọc kinh. Việc này có thể quyết định đến cả kết quả tu học của một người. Ngay khi mở đầu thể pháp này, trong bài kinh đầu tiên, người tu học đã gặp câu “ Đạo gốc bởi lòng thành tín hiệp”. Đây chính là vấn đề tư tưởng, không thể do người khác đem lại. Chỉ có bản thân người đọc kinh mới biết được mình có thành khẩn hay không và tín ngưỡng tới mức độ nào. Muốn biết mình có thành, có tín hay không phải tự xét mình. Tự xét mình là một hành vi vô cùng khó khăn, bởi lúc đó có thể mình phải đứng trước một thực tế không lấy gì làm đẹp cho lắm. Ví dụ như khi xét mình, nhận thấy là mình gian tham. Vậy mình đối phó với thực tế này như thế nào ? Hoặc là chối bỏ, nói rằng mình không gian tham, hoặc hứa với lòng mai mốt không gian tham nữa. Có rất nhiều cách để chối bỏ. Nhưng cái ta (bản ngã) là một thực tế sinh động tuyệt vời và nắm bắt được nó thật khó khăn biết bao . Ví dụ mình vừa suy tưởng một vấn đề. Biết được mình đã suy tưởng đến vấn đề đó, tức là mình đã suy tưởng rồi . Muốn nắm bắt được cái gốc của sự suy nghĩ thật vô cùng khó khăn, vì mình luôn suy nghĩ trước khi biết được mình đã suy nghĩ. Mỗi ngày chúng ta đọc kinh cúng tứ thời chính là dịp để mình suy nghĩ, soi rọi lại vấn đề này cho đến nơi đến chốn. Đó cũng chính là một trong những pháp môn giúp chúng ta phá nhất khiếu chi huyền quan đó vậy.
Bây giờ, giả sử là có thể xét được lòng mình thành tín hay không, dù đó là những nhận xét manh mún. Hãy tạm giả sử như vậy để chúng ta xét tiếp đến những tác động của việc đọc kinh cúng tứ thời. Chúng tôi dùng chữ giả sử như vậy là bởi hành vi tự xét mà thiền học gọi là xét đến mức “quán” phải được thực hiện hết sức lâu dài, có khi đến cả đời người vẫn chưa “quán”. Khi đã “thành” hay “tín” thì hành pháp mới có hiệu suất cao nhất. Xin trở lại vấn đề trên : tức là chúng ta đã xét được mình. Như vậy khi lòng thành, lời kinh, âm nhạc, nơi đọc kinh, lúc đọc kinh được phối hợp đầy đủ thì bí pháp sẽ vận hành, nghĩa là sẽ có tác động vào chính hành giả như là một chất xúc tác để thể xác ( Tinh) phối hợp với tinh thần (Khí ) rồi hiệp một cùng thần. Đó là phần thiêng liêng mà Đức Chí Tôn ban cho loài người như lời đã hứa “ Thầy đến để hườn chơn thần cho các con đắc đạo”.
Xin lấy một ví dụ như khi chúng ta tụng kinh sám hối. Nghĩa đen của từ sám hối là tự thú tội để sửa đổi. Vậy thì vấn đề ở đây là cần phải biết là mình có tội hay không trước khi tụng kinh sám hối. Bởi vì, khi mình có tội thì đọc kinh sám hối là đúng, còn nếu như mình không có tội thì đọc kinh sám hối là không thích hợp . Thế nhưng làm sao biết mình có tội hay không có tội ? Tự xét mình có tội hay không có tội là một việc làm rất khó khăn. Bởi như chúng ta vẫn thường thấy ngoài đời, những kẻ có tội tày trời cũng vẫn kêu oan khi bị đem ra xét xử như thường. Cho nên khi tự xét thấy mình có tội thì thế nào cũng có khuynh hướng đỗ lỗi cho một cái gì đó ngay.
Thế nhưng hãy giả sử là mình tự xét mình và thật lòng mình thấy là mình có phạm một tội lỗi gì đó. Theo lời Đức Hộ Pháp thì chính bản thân mình là ông quan tòa công bình nhất nơi cõi thiêng liêng hằng sống, bởi vì chính mình biết rõ mình hơn ai hết và ở cõi thiệng liêng hằng sống không có thất tình lục dục tác động, nên chúng ta rất sáng suốt trong việc định tội cho mình. Giờ đây, hãy giả sử là mình phán đoán mình có tội và có lòng thành khẩn muốn sửa đổi để xét tiếp tác động khi hành thể pháp thông công thứ nhất (tức là đọc kinh sám hối) như thế nào. Khi nhận mình có tội, cõi lòng hành giả rộng mở, vui vẻ đón nhận mọi công kích, mọi chỉ trích của người khác. Lúc này, mình đối diện với tội lỗi của chính mình chứ không trốn tránh nữa. Tội lỗi bây giờ xuất hiện với đầy đủ mọi góc cạnh, mọi tính cách quỉ quyệt , ranh ma của nó. Với ý hướng như vậy, không phải chỉ có ý thức người học đạo sám hối mà toàn cơ thể này , các tế bào, các cơ quan đều sám hối; nghĩa là sẳn sàng đón nhận mà không chống đối phản ứng. Bây giờ, lời kinh và nhạc sẽ len lỏi tận mọi ngõ ngách của các tế bào, xoa dịu, thêm cho chúng nguồn sinh lực mới để chúng tiếp tục sống hài hòa không rối loạn. Khi đó, chúng cùng nhìn về một hướng, với ý thức sẳn sàng nhận thông tin từ ngoại giới. Toàn bộ trí não (khí) và thể xác (tinh) bây giờ tập trung cao độ để đón nhận thông tin từ cõi thiêng liêng hằng sống.
Nói tóm lại đọc kinh cúng tứ thời không đơn giản là đọc kinh cho hài hòa với âm nhạc. Đọc kinh với ý thức thành tín mãnh liệt chính là thông công với vũ trụ; nghĩa là người học đạo đi vào công thức muôn đời của Đức Chí Tôn: lưỡng nghi sanh tứ tượng, tứ tượng sanh bát quái, bát quái sanh vạn vật…
Nhà bác học Einstein cho rằng mọi dạng vật chất đều có thể biến thành năng lượng theo công thức trứ danh : E = MC2 và lý thuyết này đã được minh chứng tuyệt vời qua các vụ nổ nguyên tử. Nhưng bắn phá hạt nhân nguyên tử để gây nổ chỉ là một trong nhiều cách để biến vật chất thành năng lượng. Người ta có thể phát xung điện theo chu kì nào đó để phát sóng điện từ cũng là một dạng năng lượng. Như vậy, khi cúng tứ thời cơ thể con người giao tiếp với tam thập lục thiên tam thiên thế giới mỗi ngày bốn lần, mà nói theo ngôn ngữ ngày nay là nhận và phát thông tin theo một chu kì nhất định; lúc đó cơ thể cũng sản sinh ra năng lượng. Ngày nay, người ta đang nghiên cứu hiện tượng này và đặt tên nó là sóng ngoại cảm. Thực hiện thể pháp đến mức phát ra sóng ngoại cảm là bí pháp đã vận hành bên trong hành giả. Gần đây ở Trung Quốc đã có người phát ra sóng ngoại cảm cách xa hàng trăm cây số để trị bệnh. Ơ nước Nga cũng có vài trường hợp có người thực hiện được điều này.
Thực ra mà nói thì trong thế giới tự nhiên, mọi sinh vật đều phát sóng, không phải chỉ có con người khi thực hành thể pháp đọc kinh cúng tứ thời mới phát sóng. Có điều, mọi vật xung quanh phát sóng không định hướng và rối loạn. Khi đọc kinh , người tu học phát sóng có định hướng, do đó sẽ thu hút các sóng trái dấu. Ví dụ như phát sóng nhận sẽ thu hút sóng phát và ngược lại. Như vậy, chúng ta sẽ định hướng cả không gian phát sóng trong môi trường sống của chúng ta. Kết quả trước hết là người tu học tác động vào thế giới sống, cũng giống như khi dùng nhạc để tác động vào cây con vậy. Khi không gian phát sóng được định hướng và có chu kì thích hợp, tức là bốn lần trong một ngày, hay tập trung vào những ngày sóc vọng , lúc đó sóng trở nên đồng cấp với sóng của vũ tru, thường gọi là “điển” từ cõi thiêng liêng hằng sống. Bấy giờ, người tu học nhập vào trạng thái mà người xưa gọi là huyền đồng với trời đất, tức là đạt tới trạng thái thông công cùng cõi giới siêu tự nhiên.
Kết luận
Kính thưa chư huynh tỷ, đến đây chúng tôi xin được đi vào đoạn kết của bài thuyết trình.
Trước hết, đọc kinh cúng tứ thời tức là thực hành một trong những thể pháp thông công của Cao Đài. Thể pháp của Cao Đài luôn hàm chứa bí pháp giải thoát. Dĩ nhiên nên hiểu rõ là giải thoát cho cả vạn linh chứ không chỉ riêng một cá nhân nào. Rõ ràng, người đọc kinh phải có ý thức tích cực, vượt khỏi cái ta nhỏ bé mang đầy mầm mống nghi kị thù hằn và độc ác. Chính đó là nhân tố đã trưởng dưỡng chiến tranh cho toàn địa cầu 68 này. Cũng phải vượt khỏi những cầu xin lợi ích cá nhân như cầu mong gia đình yên ổn, cầu may trúng số…, Phải hiểu rằng tụng đọc kinh là tác động tới cả thế giới hoặc xa hơn nữa là vũ trụ tức cõi thiêng liêng hằng sống. Nếu cho rằng “ mấy người lẻ loi thì làm sao lời kinh tác động đến ai “thì đấy là một quan niệm buông xuôi. Vì như đã thấy, cây con - vốn là một thực vật - vẫn bị âm nhạc tác động . Người học đạo Cao Đài đều biết Đức Chí Tôn dạy : “ Thầy là các con, các con là thầy”. Có thể suy ra :”ta là vũ trụ, vũ trụ là ta”. Vậy thì chính cá nhân, con người nhỏ bé này chứ không phải ai khác chịu trách nhiệm sự thành-bại-nên-hư của vũ trụ. Lời kinh của người tu học phát ra mang một sức mạnh lớn lao, đủ sức vận hành vũ trụ. Có ý thức vững vàng như thế thì bí pháp mới vận hành.
Thứ đến, hành thể pháp thông công để đạt được tình trạng thông công với cõi thiêng liêng hằng sống. Nhưng đạt được như thế để làm gì ? Bửu pháp của Đức Chí Tôn để lại cho con người là giải thoát, nghĩa là thoát khỏi mọi đau khổ về mặt tinh thần, mọi ti tiện nhỏ nhen của đời sống và đạt được trí huệ. Thông công với cõi thiêng liêng hằng sống chưa phải là cứu cánh mà trí huệ mới chính là điều người tu học mong đạt tới. Chính thông qua trạng thái thông công người học đạo mới được hườn nguyên chơn thần, tức đạt được trạng thái trí huệ mà thiền học gọi là trí Bát Nhã. Khi đạt được trí huệ, hành giả có cái nhìn sáng suốt xuyên thấu cuộc sống làm tan biến mọi vấn đề. Sống chết, khổ đau, hơn thua không còn nữa. Người học đạo vẫn sinh sống, làm việc như thường ngày, nhưng cuộc sống bây giờ đổi khác. Cuộc sống bây giờ là Cực Lạc Thế Giới. Tóm lại, hành thể pháp thông công là tập trung năng lượng thể xác và tinh thần để đón nhận năng lượng vĩ đại của vũ trụ. Hai năng lượng phối hợp, tức là Trời - Người hiệp một hay còn gọi là Tinh - Khí - Thần hiệp nhất. Chính sức mạnh ấy sẽ khai mở khiếu huyền quang hay huệ nhãn hay đạt đến trí huệ.
Sau cùng, nếu suy nghĩ rằng chỉ cần đọc kinh cúng tứ thời hàng ngày là đủ thì cũng có phần phiến diện. Mỗi ngày người tu học chỉ tụng kinh bốn lần, thời gian còn lại vẫn phải sống, giao tiếp với xã hội chung quanh. Thời gian này cũng quan trọng không kém vì nó tạo điều kiện cho người học đạo nhìn thấy chính mình rõ hơn lúc nào hết. Có va chạm với người khác trong đời sống mới thấy mình tốt hay xấu, mình có thực sự trong sạch hay chưa, mình có trách nhiệm với xã hội đến mức độ nào. Chừng nào người học đạo còn chưa rõ là mình tốt hay xấu, còn bỏ mặc người khác trong đau khổ, còn tính toán lời lãi thì hành thể pháp thông công chẳng khác chi hát một bài hát vô nghĩa. Lúc đó, đúng là người học đạo đuổi theo âm thinh sắc tướng. Cũng có suy nghĩ cho rằng tụng - đọc kinh càng nhiều càng tốt, thậm chí không còn tha thiết đến việc đời nữa để mau chóng đạt được trí huệ. Thế nhưng trí huệ không ít nhiều, không mau chậm . Trí huệ chỉ xuất hiện như những tia chớp trong những giây phút mong manh, khi thể pháp phát huy đến mức cao nhất. Lúc ấy, đạt được trí huệ, người học đạo sẽ trả lời được câu hỏi muôn thuở : do đâu mà ta hiện diện ở cõi đời này ?
TỪ CHƠN