BAN TỐC KÝ TOÀ THÁNH TÂY NINH
(Trích Tự điển Cao Đài – Hiền Tài Nguyễn văn Hồng)
Tốc: nhanh chóng. Ký: ghi chép.
Tốc ký là lối viết rất nhanh bằng những ký hiệu đơn giản để ghi chép cho kịp lời nói của một vị lãnh đạo.
Thời xưa, khi chưa phát minh ra máy ghi âm ghi hình, thì Tốc ký là phương pháp thường được dùng để ghi lại một bài diễn văn ứng khẩu, hay một bài thuyết giảng giáo lý của vị lãnh đạo tôn giáo.
Ban Tốc ký là một tổ chức nhỏ, gồm nhiều Tốc ký viên, chuyên đi ghi chép những bài diễn văn hay thuyết đạo ứng khẩu của Đức Phạm Hộ Pháp để phổ biến và lưu trữ làm tài liệu học hỏi về giáo lý.
Ban Tốc ký do Hội Thánh thành lập, gồm nhiều Tốc ký viên tài giỏi, sáng tạo ra nhiều phương pháp viết tốc ký rất nhanh và rất dễ đọc, chuyên đi ghi chép những bài thuyết đạo của Đức Phạm Hộ Pháp, rồi gom lại thành nhiều tập, dâng lên cho Hội Thánh xem xét để in ra phổ biến cho toàn đạo.
Ban Tốc ký nơi Tòa Thánh Tây Ninh đã ghi chép và tạo thành được 7 quyển sách "Lời thuyết đạo của Đức Hộ Pháp", được quay ronéo, rồi sau đó được Hội Thánh in thành sách, kể ra sau đây:
· Lời Thuyết đạo năm Bính Tuất - Đinh Hợi (1946-1947) Q.1.
· Lời Thuyết đạo năm Mậu Tý (1948) Q.2.
· Lời Thuyết đạo năm Kỷ Sửu - Canh Dần (1949-1950) Q.3.
· Lời Thuyết đạo năm Tân Mão (1951) Q.4.
· Lời Thuyết đạo năm Nhâm Thìn (1952) Q.5 (chưa in)
· Con đường Thiêng liêng Hằng sống (1948).
· Bí Pháp (1949).
Đây là những quyển sách rất quí cho người học đạo để tìm hiểu về giáo lý, triết lý và lịch sử của Đạo Cao Đài.
Nhờ Ban Tốc ký mà Hội Thánh có được những quyển sách "Lời thuyết đạo của Đức Hộ Pháp" nói trên. Người tín đồ Cao Đài khi đọc những quyển sách nầy đều nhớ ơn Ban Tốc ký và Hội Thánh.
■ Sau đây, chúng tôi xin chép lại Lời trần thuyết của Ban Tốc ký:
Mỗi lần ly loạn là mỗi lần thư tịch làm mồi cho binh lửa.
Nhìn vào lịch sử, những vụ phần thư, những vụ chiếm đoạt thư tịch đã xảy ra như một hệ luận trước những biến cố. Tình trạng nầy đã kéo dài qua các thời đại, ấy là biện pháp của những kẻ mạnh nhắm vào mục đích thực hiện chánh sách ngu dân và đồng hóa triệt để.
Những kinh nghiệm đau thương ấy là nguyên nhân thúc đẩy chúng tôi cố gắng thực hiện công việc sưu tập những tài liệu nầy.
Chúng tôi nghĩ rằng: nếu tài liệu kinh sách chỉ được tập trung tàng trữ vào một chỗ, tránh sao khỏi bị hủy diệt khi kẻ cường quyền đến cướp phá. Do đó, chúng tôi quyết định quay ra làm nhiều bản để gởi đến và ký thác vào những tâm hồn trung kiên với Đạo, những người dám chết để bảo tồn những tiếng nói của Đấng thay Trời dạy đạo.
Nếu một mai thời cuộc lại biến thiên, có thể các cuộc phần thư lại diễn thì thiết tưởng trong số tài liệu nầy, vẫn còn có những người nhiệt tâm gìn giữ được vẹn toàn.
Đây không phải là việc làm của cá nhân hay một đoàn thể, nhưng là một sự đóng góp chung của những người vô danh, nguyện đem hết năng lực của mình để phụng sự cho lý tưởng bảo tồn truyền thống giáo lý của Đạo.
Trong khi quyển tài liệu nầy đến tay quí vị thì cũng đã có người vì quá hăng say trong công việc thực hiện lý tưởng mà phải lao tâm kiệt sức, hóa ra người thiên cổ.
Việc làm của chúng tôi không phải là một ý nghĩ nông nổi của một sớm một chiều, nhưng là một hoài bão trong suốt thời gian ly loạn, chúng tôi hằng cầu nguyện Đức Chí Tôn và Đức Phật Mẫu ban bố phước lành, sớm gặp dịp may để thực hiện hoài bão ấy.
Ngày nay, chân trời đã rạng tỏ, ý nguyện đã đắc thành.
Chúng tôi xin hiến dâng trọn vẹn cho Hội Thánh tất cả những tài liệu mà chúng tôi đã ghi chép, góp nhặt sau bao nhiêu năm theo đuổi mục đích bảo tồn những lời vàng tiếng ngọc của Đức Hộ Pháp.
Từ đây, bản quyền nầy sẽ tùy thuộc hoàn toàn của Hội Thánh. Kính xin Hội Thánh kiểm duyệt và ấn hành để cho mọi người đều được nghe lời dạy dỗ đầy yêu ái của Đức Hộ Pháp đã dành cho chúng ta trong thời gian Đức Ngài còn tại thế.
Tòa Thánh ngày 28 tháng 8 năm Bính Ngọ (dl 12-10-1966).
BAN TỐC KÝ
■ Sau đây là tài liệu của Ban Tốc Ký viết về Tiểu sử của Ban Tốc Ký:
VÀI NÉT ĐẠI CƯƠNG VỀ LỊCH SỬ
BAN TỐC KÝ HỘI THÁNH CAO ĐÀI
Nhìn chung, qua các thời đại, truyền thống giáo lý và triết học các nền tôn giáo đã dệt thành một hệ thống thật bền vững. Truyền thống nầy được thể hiện rõ rệt thành những dòng tư tưởng có tánh cách liên tục bằng những lời thuyết pháp hay kinh sách do các vị Giáo chủ để lại.
Cũng như các vị nầy, trong lúc sanh tiền, Đức Hộ Pháp đã diễn giảng rất nhiều đề mục nhắm vào việc phổ biến nền chơn lý mà Đức Ngài đã đoạt được cho mọi người đều biết.
Tuy nhiên, trong những buổi thuyết đạo, chỉ có một thiểu số con cái Đức Chí Tôn đến dự lễ ở Đền Thánh mới được cái diễm phúc nghe những lời vàng tiếng ngọc của Đức Ngài.
Mặt khác, những tiếng nói ấy khó có thể bảo thủ được trường tồn nguyên vẹn trong trí nhớ của mọi người. Do đó, vấn đề ghi lại những lời nói ấy là mối lo âu đối với những người có nhiệt tình trong công việc bảo vệ truyền thống giáo lý của Đạo.
Trong số ấy, chúng ta có thể nhắc đến hai ông:
· Truyền Trạng Phan Hữu Phước và
· Nguyễn Văn Mới.
Hai ông là người đại diện cho hai thế hệ của ngành Tốc ký Hội Thánh và cũng là những người khai sơn phá thạch, để xây dựng cho nền Tốc ký của Đại Đạo được vững chắc, có đủ khả năng thực hiện công việc ghi chép đầy đủ những bài thuyết đạo của Đức Hộ Pháp trong suốt thời gian mười mấy năm trời.
Sau đây là những đoạn văn trích lục ở bài tựa của những quyển sách dạy về Tốc ký của hai ông.
- Trong Lời Tựa quyển Tốc ký xuất bản năm 1950 (Canh Dần), ông Truyền Trạng Phan Hữu Phước đã thố lộ hoài bão của ông như sau:
"Tôi viết ra lối Tốc ký nầy từ năm 1942 đến nửa năm 1943 trong khi bị giam cầm tại nhà ngục Sơn La. Chốn lao lung u sầu, ngồi suy nghĩ, chẳng lẽ để cho thời gian trôi qua một cách vô ích, thế nên tôi phát ra ý muốn tạo một lối Tốc ký viết tiếng Việt để sau nầy may ra cũng giúp ích cho Đạo và Đời đôi chút."
- Cũng trong thời gian ấy, quyển Phương pháp Tốc ký của ông Nguyễn Văn Mới ra đời. Qua Lời Tựa, ta nhận thấy những nỗi băn khoăn của tác giả đối với công việc bảo thủ cái tài sản thiêng liêng to tát, tuy vô hình nhưng có một giá trị tuyệt đối. Chính ông đã viết:
"Từ xưa đến nay, bất cứ mọi kỳ công trên thế giới, mọi kiến trúc nguy nga do loài người xây dựng đều phải bị sụp đổ, chôn vùi dưới lớp bụi của thời gian, duy chỉ có tư tưởng mới còn tồn tại mãi mãi mà thôi.
Chúng ta hiện nay đang đi trên con đường lượm lặt những lời nói của Đức Hộ Pháp để đúc kết lại thành một dòng tư tưởng, một nền giáo lý căn bản, một hệ thống triết học của nhơn loại.
Nếu phương pháp Tốc ký cũ của chúng ta không được canh cải biến chế đến mức độ tinh vi thì mọi người còn chịu thiệt thòi.
Chúng ta ngày nay nên cố gắng chuyên luyện, đừng để những tiếng nói của Đức Ngài mất đi, vì như thế sẽ không có gì làm cho nhơn loại vô phúc cho bằng."
Ông cũng thường nêu lên những cảm nghĩ, những nỗi lo âu của ông đối với Đạo nghiệp cho các bạn học viên nghe.
"Tuy hiện nay, Đức Hộ Pháp vì khiêm tốn, không tự tôn mình là một vị Phật, nhưng tất cả triết lý cao cả của Đức Ngài đều lấy chơn lý làm căn bản. Có thể nói, tất cả giáo lý của Đạo Cao Đài đã được phô diễn một cách tường tận trong các bài thuyết đạo của Đức Ngài. Nếu chúng ta không ghi chép được đầy đủ thì e một ngày kia, khi Đức Ngài không còn tại thế nữa, chúng ta sẽ hối tiếc vô cùng."
Ấy là những lời mà ngày nay ta cảm thấy có một giá trị vô đối. Chính việc làm của họ mới đủ chứng tỏ được hoài bão của họ.
Sau đây là những dòng tóm tắt về sinh hoạt của ngành Tốc ký do hai vị lãnh đạo của hai thế hệ già trẻ.
Ban sơ, lúc Đức Hộ Pháp mới từ hải ngoại trở về (giữa năm Bính Tuất 1946), lối Tốc ký của ông Truyền Trạng Phan Hữu Phước được xem là một phát minh mới mẻ, tiện lợi nhanh chóng, đầy hữu dụng và cũng là lối duy nhứt dùng trong Hội Thánh. Lúc ấy ông Truyền Trạng có mở một khóa Tốc ký để dạy chung cho các Thơ ký, Đầu phòng trong Hội Thánh.
Như trên đã nói, do những đặc tính của lối Tốc ký nầy, nó đã thu hút rất đông người học, có thể nói, lúc đó có một phong trào Học Tốc ký bộc phát mãnh liệt. Nhưng sau vài tháng thì phong trào nầy cũng lắng dần và chìm vào quên lãng, cuối cùng thì chỉ còn lại một số kiện tướng mà ta có thể nêu lên như sau:
Đặc biệt trong những buổi viết Tốc ký, người ta còn thấy có ông Thừa Sử Phạm Ngọc Trấn. Tuy nhiên quá trình hoạt động về ngành Tốc ký của ông có nhiều truyền thuyết khác nhau.
Sau 2 năm tích cực phục vụ, Ban Tốc ký nầy đã ghi được nhiều kết quả đáng kể. Song thời gian qua, những Tốc ký viên lỗi lạc nầy lần lần tản mác, nhường chỗ lại cho lớp người sau.
Riêng ông Nguyễn Văn Mới đã tìm học được một phương pháp Tốc ký ghi nhanh hơn. Trong thời gian theo đuổi công việc ghi chép Lời thuyết đạo của Đức Hộ Pháp, ông nhận thấy cần phải phổ biến thật sâu rộng cho nhiều người biết lối Tốc ký nầy để có thể thực hiện công việc ghi chép những lời giảng dạy của Đức Hộ Pháp một cách liên tục và đắc lực.
Do đó, ông đã mở ra nhiều lớp để truyền bá lối Tốc ký nầy, lúc ấy được mệnh danh là "Phương pháp Tốc ký Mới" và phương pháp nầy đã gặt hái được nhiều kết quả rực rỡ.
Có thể nói, đây là thời kỳ toàn thịnh của phong trào đi lấy Tốc ký thuyết đạo của Đức Hộ Pháp tại Thánh địa.
Trong lớp người mới nầy, có thể kể:
Những người nầy đã tiếp tục nhiệm vụ ghi chép thuyết đạo cho đến lúc Đức Hộ Pháp rời khỏi Thánh địa.
Trong những ngày hoạt động cuối cùng của Ban Tốc ký, hay nói khác đi, trong lúc nền Đạo sắp bước vào giai đoạn chinh nghiêng do ảnh hưởng thời cuộc, đa số Tốc ký viên đã vắng mặt trong những trường hợp đặc biệt với nhiều lý do khác nhau, có những buổi thuyết đạo không người ghi chép tốc ký.
May thay! giữa lúc ấy có những vị tuy không phải là Tốc ký viên chuyên nghiệp, nhưng cũng cố gắng phục vụ bằng những phương thức riêng, mục đích là chép lại đại ý bài thuyết đạo được tạm đủ. Đại diện những người ấy có thể kể là: ông Chí Thiện Nguyễn Thế Trạch, ông Du Văn Siêu.
Đến đây, chúng tôi xin dừng lại giây phút để ôn lại những ngày qua, những ngày mà lớp "Tốc Ký Mới" vừa phôi thai. Lớp học khai giảng trong một hoàn cảnh khó khăn và thiếu thốn mọi phương tiện. Vì học viên toàn là người làm công quả ban ngày, nên lớp Tốc ký phải tổ chức về đêm. Lớp học là một gian phòng tạm bợ, không có đèn điện.
Chính ông Nguyễn Đức Hòa, chúng tôi thường gọi là Chú Út Đê đã đứng ra lo liệu mọi việc, nhứt là vấn đề ánh sáng mỗi đêm cho lớp học. Với đức tánh nhẫn nại, chịu đựng mọi gian khổ, ông đã thực hiện việc cung cấp ánh sáng cho lớp Tốc ký một cách đầy đủ cho đến ngày mãn khóa. Có nhiều đêm, chúng tôi rất cảm động vì đến giờ học mà đèn lại trục trặc.
Những giọt mồ hôi đượm trên vầng trán in vài nếp nhăn đã chứng tỏ sự cố gắng của ông.
Ngày mãn khóa, mọi người đều hân hoan. Riêng các học viên Tốc ký thì bước vào một giai đoạn mới mẻ với những nỗi lo âu vui buồn lẫn lộn. Những ngày ấy, người ta thấy xuất hiện thêm một số anh chị em, đạo phục tín đồ, cắp cặp chen vào đám đông để cố đến giảng đài của Đức Hộ Pháp trong các buổi lễ hoặc đại đàn để ghi chép những lời thuyết đạo.
Ngày nay, những hình ảnh ấy chỉ còn là những bóng mờ, vì thật ra, ngay những ngày toàn thịnh của nó cũng không được sự lưu ý nâng đỡ của mọi người.
Vì vậy, khi quyển tài liệu nầy của Ban Tốc ký có đến tay quí vị với những điểm thiếu sót, mong quí vị thể tình chỉ bảo, thêm thắc cho đầy đủ và cảm thông những khó khăn trở ngại mà Ban Tốc ký đã gặp phải trong suốt thời gian theo đuổi việc ghi chép và phổ biến những bài thuyết đạo nầy./.