- Những Ngày Vui Qua Mau
- Thầy Tôi Bây Giờ
- Cánh Chim Không Biết Mỏi
- Tâm Nguyện Của Bạn Tôi
- Mademoiselle
- Một Nén Hương Kính Dâng Thầy
Được biết, thông lệ đã thành nếp và đáng yêu… gọi là “tiền” và “hậu” đã có từ Đại Hội lần thứ nhất vào năm 2004. Năm 2005 tôi may mắn được tham dự Đại Hội kỳ 2 với những ngày bạn bè tụ tập vui chơi suốt cả tuần trước và sau đại hội. Tôi vô tâm không suy nghĩ gì, chỉ mải mê trong niềm hạnh phúc được hội ngộ bạn bè. Và năm nay, một lần nữa được tham dự Đại hội kỳ 6, tôi nhận rõ hơn tâm tình sâu đậm của bạn bè từ các nơi xa xôi tìm về.
Xa nhau nhiều năm, gặp gỡ hàn huyên thì không thể một ngày là có thể nói hết được. Cả ban tổ chức lẫn người tham dự đều muốn có nhiều thời gian hơn nữa để chia sẻ phần nào tình cảm của mình dành cho Thầy Cô và bè bạn… vì vậy cuộc vui cứ được kéo dài... nên cả chủ, những anh chị tại địa phương thay phiên từ nhà người này đến nhà người khác liên tiếp đãi đằng và khách, những người đến từ phương xa được mời gọi đến dự sau ngày hậu ĐH ai cũng mệt ứ hự nhưng vì ham vui.
Trước ngày Đại hội không khí sôi động vì bạn bè lâu ngày… không!... đúng hơn là lâu năm mới gặp lại nhau, tay bắt mặt mừng đã đành. Nay hầu như mái đầu ai cũng bạc, nhưng vẫn nghịch ngợm như thuở nào còn đi học. Anh em bè bạn cứ lưu luyến mãi không muốn rời tay. Có những câu nói ngày xưa còn e ngại, thầm lén; bây giờ “mạnh dạn” la lên cho mọi người cùng nghe rồi cùng chia sẻ những nụ cười… Như anh Bùi Đức Thắng, CN65-68 ngày xưa lành ơi là lành; mà bây giờ cũng tiếu lâm ra trò. Chị Trần Thị Sâm luôn ra dáng bà chị cả đáng yêu. Chị Kim Nguyên thì chân tình, hiếu khách, nhà của chị luôn tấp nập thập khách phương xa. Chị Cao Xuân Liễu thì tất bật kêu gọi người nầy, thu xếp cho người kia. Có một chuyện vui kể nhau nghe: Chị Liễu nhiệt tình nhận đi đón các bạn ở xa đến, buổi sáng thì chị Hồng Yến xuống phi trường Los Angeles. Buổi chiều thì chị Thái Thị Tốt đến phi trường JOHN WAYNE nhưng chị Liễu quên khuấy, lại nhờ phu quân là anh Cương ra phi trường Los Angeles đón Thái Tốt; trong khi đó Thái Tốt vừa đói vừa lạnh run đứng chờ ở phi trường John Wayne. Anh Cương chạy ngược chạy xuôi ở LA. Trong khi đó ở nhà mọi người lo lắng chờ đợi. Khi phát hiện ra sự lầm lẫn thì đã quá khuya. Bé Ty con chị Thuấn chở BTLợi đi đón Thái Tốt để anh Cương về nhà nghỉ. Rất cám ơn anh Cương một chàng rể NLS hết lòng vì bạn bè của vợ.
Buổi sáng trước ngày tiền ĐH, tôi và Thái Tốt gọi điện báo Đồng Thị Anh rằng chúng tôi sẽ đến thăm bạn. Tôi vẫn nhớ kỷ niệm 5 năm trước một không khí đầm ấm những ngày trước và sau ĐH2 ở nhà bạn. Tôi hy vọng lần nầy sẽ tìm nối lại mối dây thâm tình bè bạn. Điện thoại gọi không ai bắt máy, tôi để lại lời nhắn và quyết định đến. Nhà bạn đóng cửa, tôi tìm chỗ bấm chuông nhưng không thấy. Thái Tốt lớn tiếng gọi tên bạn mấy lần, hình như bạn vắng nhà, chúng tôi đành ra về sau khi gởi lại lá thư nhỏ trong hộp thư trước cổng. Một cảm giác buồn buồn, chắc là không có dịp trở lại nơi nầy lần nữa.
Khi về đến nhà chị Kim Nguyên thì một cảnh tượng "homeless" làm tôi ngạc nhiên. Tôi thấy có 2 người nằm ngủ dưới gốc cây trước sân nhà. Đến gần một người che tờ báo không thấy mặt nhưng thấy dáng quen quen, còn một người nhìn rõ thì là anh Hồ Hoa. Tôi đoán các anh từ San Jose mới đến mệt mỏi nên nằm nghỉ. Tôi sợ ngoài trời nắng gió nên kêu các anh dậy vào nhà nghỉ, nhưng các anh nói muốn nằm ngoài sân cho mát. Tôi chợt nhớ nickname của anh Hồ Hoa là Ông Tiên thôi thì để anh ung dung tự tại giữa trời dưới bóng cây xanh gió mát cho thoải mái.
Đến buổi chiều Tiền Đại Hội ở nhà chị Kim Nguyên, anh Dương Thái Phương mang đến lá cờ NLS và banderone in dòng chữ “Chào Mừng Đại Hội Nông Lâm Súc Bảo Lộc Lần Thứ 6”. Mọi người líu ríu gọi nhau đến chụp hình chung, tôi cũng được chụp hình chung với chị Hương Lan và chị Hồng Yến, chị Thoại, chị Bình, chị Độc Lập. Thái Tốt luôn là người được chụp hình nhiều nhất. Bạn vẫn trẻ trung, xinh đẹp, duyên dáng và dí dỏm. Bạn Thái Tốt như con sóc thoắt thấy trêu phá anh chị nầy lại quay qua nghịch ngợm vui đùa người khác, chỗ nào có bạn là có tiếng cười.
Lần đầu tiên gặp anh Vương Thế Đức, nhưng hai anh em đã liên lạc với nhau qua mail và điện thoại cho nhau đến cháy hết mấy cái cellphone rồi nên đâu lạ gì nhau. Nhưng lần nầy hội ngộ với Thái Tốt "quậy", anh VTĐức chịu không thấu thất thanh chạy đến cầu cứu Thầy Phan Bá Sáu: “Thầy ơi cứu em với!”. Thầy mỉm cười hóm hỉnh trả lời nhẹ nhàng: “Em à! hãy tự cứu mình đi, Thầy còn chưa biết Thầy có đựơc yên thân hay không nữa đây nè...”.
Rồi mỗi người một câu chuyện, đưa đẩy, tiếp nối... tiệc vui không muốn dứt. Tôi có cảm giác như ai cũng sợ ngày mai với không khí ĐH trang trọng không tiện cho những câu chuyện thân tình như thế nầy.
Rồi thời điểm chờ đợi cũng đến, chị Kim Nguyên bảo tôi đến sớm để chuẩn bị đón khách, tôi thật sự khâm phục tổ chức chu đáo của các anh chị. Một lần nữa tôi ngưỡng mộ sự cộng tác của các nàng dâu NLS. Thoạt nhìn không thể phân biệt được ai là dâu, ai là con gái NLS, các chị đều đồng phục áo dài màu cam rực rỡ như những cánh bướm. Người lo tiếp tân, kẻ chuẩn bị văn nghệ, thật nhịp nhàng. Các anh thì lịch sự trong bộ veston ra dáng một Gentlemen khác hẳn ngày thường. Tôi chợt nhớ các bạn mình ở quê nhà, trong mỗi lần họp mặt ai nấy đều thoải mái với quần áo đơn giản mà gần gũi thân thương. Có lần tôi thử nói đùa với chị Ngô Anh Thuấn: kỳ nầy mình đề nghị bạn bè đi họp mặt nhớ mặc áo dài, áo vest một lần xem sao nha Thuấn. Chị Thuấn vội xua tay: “Em mà kêu như vậy tụi nó ở nhà hết cho em đi họp một mình.. Tôi cũng biết vậy, mỗi hoàn cảnh một phong cách sinh hoạt khác nhau.
Đặc biệt ĐH lần nầy tôi xúc động với nghi thức chào cờ có phần rước cờ Nông Lâm Súc trong tiếng đồng ca NLM Hành Khúc vang dội khắp hội trường. Tôi tưởng như mình đang đứng ở trong Đại Thính Đường trường NLS Bảo Lộc ngày nào. Trứơc mặt tôi là quý Thầy Cô, các anh chị và các bạn, tôi cũng nhìn thấy trong mắt họ long lanh niềm cảm xúc như tôi.
Thầy Nguyễn Văn Khuy tuyên bố khai mạc ĐH. Thầy Phan Bá Sáu giới thiệu thành phần Ban Điều Hành Hội mới đắc cử. Anh Vương Thế Đức trình bày sự lớn mạnh của Trang Nhà nlsbaoloc.info. Chị Huỳnh Thị Hương cám ơn và tặng quà lưu niệm cho quý Thầy và các anh chị trong việc thực hiện Đặc San 2010.
Kế tiếp là đến phần trình diễn văn nghệ. Thật không uổng công các anh chị tập luyện. Chị Như Nguyên đã khéo dàn dựng một chương trình có đủ các tiết mục đơn ca, song ca, hợp ca. Các chị chịu khó sắm sửa trang phục rất ấn tựơng như áo dài màu tím cho bài hát Hoa Tím Ngày Xưa, áo bà ba khăn rằn cho hợp ca Khúc Nhạc Đồng Quê, áo tứ thân với nón quai thao cho điệu múa Cô Tấm Ngày Nay, áo dài khăn đóng với dải yếm đào cho hoạt cảnh Đi Chùa Hương. Các diễn viên nghiệp dư nầy đã đón nhận được sự tán thưởng nồng nhiệt của toàn thể ĐH.
Đến lúc Thầy Nghiêm Xuân Thịnh được mời lên sân khấu thì không khí lắng đọng. Giọng hát của Thầy yếu đi nhiều nhưng vẫn truyền cảm. Cuối bài hát thầy đọc tặng cho Đại Hội bốn câu thơ, nhiều bạn rưng rưng nước mắt.
Tiếp theo bài hát chế của Ngô Hữu Thành và Nguyển Văn Đạo lại kéo mọi ngươi về với cuộc vui và cứ thế. Sau cùng đến chương trình dạ vũ.
Đại Hội kết thúc trong niềm lưu luyến, bạn bè bắt tay nhau từ giã. Mai nầy mỗi ngừơi một hướng hẹn gặp lại 2 năm sau nhưng biết có được cùng chăng...
Cho nên tốt hơn hết là kéo thêm chương trình Hậu ĐH, sáng ngày hôm sau ở nhà Nguyễn Văn Đạo, bây giờ thì niềm vui òa vỡ. Mừng ĐH thành công, mừng anh em hội ngộ...các anh chị đem hết sở trường sở đoản của mình ra, nào thức ăn, nào bia bọt, nào những câu chuyện tiếu lâm… Thầy cô Phan Bá Sáu và Thầy cô Nguyễn văn Khuy cũng dễ dãi và thân mật ngồi nghe những cô cậu học trò của mình đều tuổi ngoài 60 mà hồn nhiên tươi trẻ lại. BTLợi hát bài "Cơm và Phở" xuất sắc đựơc tiền boa 20USD nộp cho quỹ Hội. Thầy Sáu nói lần sau muốn gây qũy NLS thì nhớ kêu BTLợi. Chị C X Liễu vô tư không hiểu kịp những câu chuyện tiếu lâm mấy chị kể cho nhau nghe đến khi Thái Tốt phiên dịch chị nói: hiểu rồi thì mấy chị lại kêu lớn lên: y.e.. làm mấy anh đang ngồi nhậu bàn bên kia phải chạy qua ...thật là vui...
Trong ngày Hậu ĐH nầy có thêm 1 người mới tìm đến đó là Trần Châu Hoành, MS 71, anh định cư ở San Jose. Một hôm tình cờ vào Google gõ NLS BảoLộc thì hiện lên Trang nhà nlsbaoloc.info . Vào thăm và tìm thấy tên cô bạn cùng lớp, mừng quá viết mail hỏi thăm, rồi liên lạc với nhau; được biết có ĐH nên đến tham dự. Từ bây giờ anh Mới và anh Tư Lung có thêm chiến hữu rồi nha. Còn 1 người nữa cũng khóa 71 ban CN, từ VN qua Mỹ thăm con nhân dịp ĐH, đã ghi danh tham dự. Ngô Hữu Thành rất vui mừng chào đón, đã hẹn đến nhưng sao chờ hoài chẳng thấy. Đinh Công Lý ơi! bạn đi lạc ở đâu rồi.
Ngày Hậu ĐH như vậy là kết thúc, một lần nữa lại chia tay, lại hẹn ngày gặp lại, lại lưu luyến,...ngày mai đã có người rời Cali...nhưng vẫn còn ngừơi ở lại… và thế là… hẹn hôm sau đến nhà anh Nguyễn Viêt Thắng ăn Bún Bò gọi là Hậu ĐH tập 2. Lần nầy chị Cao Xuân Liễu đem đến ổ bánh kem thật to riêng tặng các bạn tuổi Dần chúc mừng Sinh Nhật 60. Ai đó bắt giọng hát bài Happy Birthday và tiếp theo là bài hát Ò O Ó...O Ó Ò...mọi ngừơi được một trận cười nghiêng ngửa.
Đêm đó về nhà chị Kim Nguyên tôi và Thái Tốt thức đến 2 giờ sáng để tâm sự với chị Sâm và chị Nguyên. Tôi nghĩ như vậy đã là quá đủ. Nhưng sáng ngày hôm sau chưa thức dậy đã nghe chị Liễu gọi nhắn đến nhà Nguyễn Văn Đạo ăn Bún Ốc nhé. Ngô Hữu Thành cũng gọi: cố đến bữa nữa cho vui vớí anh em. Thôi thì phải cố vậy…
Hôm nay số hiện diện có vắng đi vài người nhưng tiếng cừơi vẫn không vơi. NH-Thành có nhã ý tặng lẳng hoa Lan cho vợ chồng NV-Đạo, cám ơn đã góp nhiều công sức cho sự thành công của ĐH, và một lẳng hoa Lan thứ hai anh Thành tặng anh chị Danh Thảo, sau đó anh chị nhường lại cho chị Như Nguyện, rồi chị Như Nguyện cũng xin nhường lại người kế tiếp, thế là lẵng hoa trôi tiếp... Riêng chị Kim Anh thủ quỹ thì tặng chủ nhà môt chai rượu… N V Đạo đinh khui ra mời anh em nhưng mọi người bảo để dành ĐH lần sau. Bấy giờ chị CX-Liễu mới đem ra một ổ bánh kem trên phủ đầy trái cây thật hấp dẫn. Anh Vương Thế Đức gọi đây là ổ bánh "Đuổi" vì sau khi ăn miếng bánh nầy thi người Cali không đuổỉ thì chúng tôi cũng phải ra về. Sau những ngày vui vẻ hạnh phúc bên nhau, Đại Hội 6 chỉ còn lại dư âm, nhưng kỷ niệm Tiền và Hậu Đai Hội thì luôn ghi nhớ mãi trong thâm tình Nông Lâm Súc Bảo Lộc chúng ta.
Little Sàigòn, viết xong chiều 7 tháng 7 năm 2010
Bùi Thị Lợi
THẦY TÔI BÂY GIỜ - Bùi Thị Lợi
Chưa quen, chưa gặp, mà đã dành cho anh nhiều cảm tình, đó là trường hợp có phần lạ lùng của tôi đối với anh Phạm Phi Hoành. Năm 1967, tôi được bổ dụng về dạy tại trường Nông Lâm Súc Bảo lộc, thì anh Hoành đã chuyển về Saigòn rồi, tuy thế, qua anh Hồ Phước Hải, những câu chuyện về anh tôi được nghe rất nhiều. Nhóm “Lương Sơn Bạc” chúng tôi hồi ấy thường tụ tập vào những lúc rỗi rảnh, và trong những câu chuyện trên trời dưới đất, thỉnh thoảng anh Hải lại kể cho chúng tôi nghe về những kỷ niệm trong những năm tháng sống và làm việc với anh Hoành, trong đó có cả chuyện lật xe ở cột cờ làm cho Hồ Phước Hải mẻ một cái răng cửa. Những mẫu chuyện vui chồng chập lên nhau, và với thời gian đã phát họa cho tôi về anh Phạm Phi Hoành với nhiều cảm tình!
Phải mất nhiều năm sau tôi mới có cơ hội gặp tận mặt anh, và cũng có vài ba cơ hội nói chuyện với nhau. Quả thật, sự tưởng tượng của tôi và con người thực của anh không có gì khác nhau. Với dáng vóc lịch sự và giọng nói có sức thu hút người nghe làm cho anh dễ chiếm cảm tình người chung quanh. Qua công việc, tôi nhận thấy ở anh một con người rất thông minh, năng động, và thẳng thắn. Lúc ấy tôi nghĩ anh chưa gặp được đất dụng võ để sử dụng những tài năng tiềm ẩn trong anh!
Thời gian anh học tại trường Trung Học Pháp ở Đà-nẵng thì tôi học trường Phan Châu Trinh, có lẽ anh học trên tôi một lớp. Trong những kỳ tranh giải Thể Thao của thành phố, trường tôi và trường anh thường chạm trán nhau đôi khi hết sức căng, may mà chúng tôi không nắm cổ áo nhau! Nhờ thế, sau nầy chúng tôi đã có một lần dẫn nhau đi uống rượu say mèm khiến tôi phải nằm nhà gần hai ngày!
Đã hơn ba mươi ba năm không gặp mặt, không biết anh còn nhớ tôi không? Riêng tôi lúc nào cũng nhớ anh với nhiều cảm tình thật đẹp. Cầu chúc anh và gia đình được mọi sự an lành.
Với lòng quý mến nhắc nhớ chút kỷ niệm xưa về người bạn đồng nghiệp của tôi và thật hân hạnh giới thiệu bài của chị Bùi Thị Lợi viết về người Thầy của các anh chị.
Gurnee, Jan. 09.2009
Phan Bá Sáu, Trang Nhà
THẦY TÔI BÂY GIỜ
Còn nhớ lần đầu tiên tôi được gặp thầy Phạm Phi Hoành trong buổi họp mặt NLS ngày 1-1-1990. Thú thật tôi không nhận thấy ở thầy một nét mô phạm nào của nhà giáo. Thầy vui vẻ, trẻ trung, phóng khoáng và rất gần gủi với nhóm bạn NLS chúng tôi. Thời ấy thoạt nhìn Thầy trong tuổi U60 rất phong độ chúng ta dễ lầm tưởng Thầy là một doanh nhân thành đạt hay một nghệ sĩ phong lưu. Nghe giới thiệu, Thầy đang công tác bên Công Ty Du Lịch Dầu Khí (OSC) Việt Nam ở Vũng Tầu.
Thầy luôn đồng hành cùng chúng tôi trong các buổi họp mặt NLS, dần dần tôi trở thành học trò thân tín của Thầy dù rằng những năm Thầy dậy học trên trường (1964-68) thì tôi chưa nhập học. Nhưng cũng như nhiều bạn chưa từng được học Thầy, chúng tôi vẫn có cảm giác thật thân thương với Thầy, thầy Tổng Giám Canh tài hoa của trường Trung Học Nông Lâm Súc Bảo Lộc.
Thời gian gần đây, tôi thôi thúc ý định viết một bài về Thầy. Có lần, tôi ngỏ lời xin phép Thầy, Thầy từ chối. Thầy nói không muốn nhớ lại năm tháng đã qua. Tôn trọng Thầy, tôi đành xếp bút mực lại mặc dù nhiều bạn bè vẫn khuyến khích tôi viết.
Hôm nay một ngày cuối năm đẹp trời, Sài Gòn đã vào Đông. Tôi và chị Ngô Anh Thuấn xin phép lên thăm Thầy, nhân tiện mời Thầy về dự buổi họp mặt ngày 1-1-2009. Thầy tiếp chúng tôi trong tâm trạng vui vẻ, sảng khoái và câu chuyện hàn huyên của thầy-trò đã đưa Thầy trở lại những năm tháng xa xưa đầy kỷ niệm và tôi vui mừng ghi nhớ để kể lại cho các bạn.
Thầy sinh năm 1939 tại Hà Nội nhưng theo gia đình vào Đà Nẵng năm 1953 và học ở trường Providence (Huế) rồi trung học Pháp ở Đà Nẵng. Đến năm 1957 thì vào Sài Gòn, học trường Jean-Jacque Rousseau. Năm 1960, xong Tú Tài, Thầy được học bổng "Leadership" của cơ quan viện trợ Hoa Kỳ (USOM, sau đổi thành USAID) du học ở Mỹ. Thầy học về Khoa Học Nông Nghiệp, chuyên ngành đất đai tại trường đại học tổng hợp tiểu bang Delaware (Newark, Del). Đến năm 1964, tốt nghiệp với bằng Bachelor Agriculture Science, và sau đó về nước tháng 9 năm đó. Trong một buổi họp mặt các du học sinh Việt Nam tại New York vào hè 1964, thầy đã gặp một cựu sinh viên trường Quốc Gia Nông Lâm Mục Blao và được nghe nói về trường Nông Lâm Súc Bảo Lộc. Vì thế khi về tới Sài gòn, thầy nói chuyện với cô Nghiêm Bình Minh (bà con với thầy Nghiêm Xuân Thịnh) đang làm việc tại văn phòng USAID và được giới thiệu gặp Bác sĩ Đặng Quan Điện, giám đốc nha Học Vụ Nông Lâm Súc. Khi gặp thầy Điện, thầy nhận thấy ở thầy Điện có một phong các giản dị, chân thành, sâu sắc và pha chút ngang tàng giống một vị giáo sư người Mỹ của thầy, thầy rất ngưỡng mộ và thầy có ý định muốn làm việc với thầy Điện và thầy quyết định xin về trường Nông Lâm Súc Bảo Lộc. Âu cũng là cái duyên và duyên nợ của thầy với trường trung học Nông Lâm Súc Bảo Lộc và nha học vụ NLS bắt đầu từ đây.
Trước đó, vì các chính biến gay gắt ở miền Nam nói chung và trường Quốc Gia Nông Lâm Mục nói riêng, thầy hiệu trưởng Đỗ Cao Thọ và một vài giáo sư khác đã được thuyên chuyển khỏi trường Nông Lâm Mục. Tình hình thiếu giáo sư trở nên trầm trọng và Bác sĩ Đặng Quan Điện buộc phải tuyển nhiều giáo sư mới cho trường. Đó là những kỹ sư trẻ đầy nhiệt huyết như các cô Võ thị thúy Lan, Dương tuấn Ngọc, Võ thị Vân, thầy Nguyễn Thanh Vân, thầy Lê Thiện Chí, thầy Nguyễn văn Vũ, Thầy Nguyễn Ngọc Ẩn...
Đến bây giờ thầy vẫn nhớ cảm giác lâng lâng thới thới khi ngồi trên chuyến xe đò lần đầu tiên lên vùng đất Bảo Lộc. Cảnh vật hai bên đường hoang sơ với núi đồi thơ mộng làm say đắm lòng người chứ không chen chúc như bây giờ. Lúc đó thầy Nguyễn Viết Trực đang làm hiệu trưởng và thầy được phân nhiệm phụ trách các môn: Vật Lý, Hoá Học, Công Thôn, Anh Văn, Pháp Văn ... tổng cộng 32 tiết trong tuần.
Đến đầu năm 1965, Thầy Đặng Quan Điện gọi thầy về Saigòn để giao cho Thầy chức vụ Tổng Giám Canh (và thầy Nguyễn Thanh Vân chức vụ Giám học). Thầy từ chối với lý do không biết và không có kinh nghiệm về canh tác các loại cây trồng nhất là những loại cây vùng nhiệt đới, nhưng thầy Điện gạt phắc, thầy Điện nói "không biết thì phải học, anh đã học ở Hoa Kỳ, tất nhiên biết về phương pháp luận (methodology), vả lại làm Tổng Giám Canh anh phải làm "planning" nhiều hơn là thực hành các kỷ xảo. Mà cho dù anh có học các phương pháp canh tác chăng nữa thì cũng không thông thạo bằng các bác công nhân trong đội trồng trọt". Kể đến đây giọng thầy chùng xuống và mơ màng như đang hồi tưởng lại lúc nói chuyện với thầy Điện. Thầy nói trường NLS Bảo Lộc lúc đó đang quản lý hơn 850 hecta đất rừng giới hạn bởi quốc lộ 20 về hướng Đông, nhìn qua núi Đại Bình tới toà Hành Chánh tỉnh và thị xã Bảo Lộc ở phiá Bắc, còn về phiá Tây là Kohinda cùng với khu vực thác Damri ngày nay và phía Nam là các cơ sở trà tư nhân như Đỗ Hữu ... (được biết một vài đồn điền trà tư nhân đã lấn đất của trường). Trường đã canh tác hơn 100 hecta trà, 20 hecta cà phê gồm các giống như Arabica, Robusta va Chari, để giúp các sinh viên trường QGNLM và học sinh trung học NLS thực tập, ngoài ra còn có các trại chăn nuôi heo, gà, bò sữa và đoàn trâu Murrha, nhận từ viện trợ của chính phủ Ấn Độ và một vài con ngựa.
Đến tháng 3 năm 1967, nha Học Vụ NLS mở thêm các lớp Cao Đẳng Sư Phạm và Kiểm Sự NLS, trong đó có lớp kiểm sự về ngành cây cao su phối hợp với viện Khảo Cứu Cao Su Việt Nam (IRCV), một tổ chức nghiên cứu khoa học của Pháp ở Việt Nam. Bác sĩ Đặng Quan Điện cử thầy về làm việc với IRCV tại đồn điền S.I.P.H ở Lonh Khánh để đào tạo các chuyên viên về cây cao su. Ở đây Thầy vừa tổ chức các buổi học do các giảng viên người Pháp của viện IRCV giảng dậy, vừa tham gia các đề tài nghiên cứu của viện.
Năm 1968, sau biến cố Mậu Thân, tình hình chiến sự trở nên dữ dội, thầy không thể ở lại Long Khánh mà phải trở về nha Học Vụ NLS Sàigòn và chương trình đào tạo kiểm sự Canh Nông chuyên ngành cây cao su phải ngưng lại sau khi đào tạo được 2 khoá.
Từ năm 1968 đến đầu năm 1973, thầy làm việc tại nha học vụ NLS ban Cao Đẳng Sư Phạm. Trưởng ban là thầy Trần thiện Chu. Ít lâu sau, thầy Chu lên làm Thanh Tra Mục Súc, và thầy Nguyễn Thanh Vân thay thế, làm trưởng ban CĐ Sư Phạm cho đến năm 1971-72, về làm hiệu trưởng trường NLS Định Tường (Mỹ Tho). Thời gian này, thầy Đặng Quan Điện được thuyên chuyển về Học Viện Quốc Gia Nông Nghiệp, tức trường Cao Đẳng Nông Nghiệp Sàigòn, và thầy Hà Văn Thân làm Giám Đốc Nha Học Vụ NLS, cử thầy Hoành làm Thanh Tra Canh Nông.
Đến tháng 2 năm 1973, Thầy cùng thầy Trần Thiện Chu, thầy Nghiêm Xuân Thịnh nhận được học bổng Common Wealth sang Úc học tiếp chương trình sau đại học (postgraduate). Thầy Chu và thầy Thịnh học chương trình Ph.D tại New England University, bang New South Wales, còn thầy Hoành thì học cao học ngành Khoa Học Đất Đai tại trường đại học University of Sydney. Cuối tháng 2 năm 1975, thầy Hoành về nước sau khi hoàn tất chương trình học và trở về làm việc tại ban CĐ Sư Phạm NLS, lúc đó do thầy Đặng Hữu Thạt điều hành.
Tháng 5 năm 1975, trong tình hình đất nước đổi thay, thầy Hoành cùng toàn ban giảng huấn CĐSP-NLS được đưa về trường đại học Sư Phạm Kỹ Thuật, khoa Nông Nghiệp tại Thủ Đức.
Cuối năm 1980, phong trào "vượt biển" đang lên, thầy cũng thử thời vận vài phen, nhưng chẳng những không thành mà còn bị "tóm" và đưa lên rừng Đồng Phú tỉnh Sông Bé để "lao động cải tạo". Tại đây Thầy được phụ trách tổ sản xuất gồm một số kỹ sư và chuyên viên Nông Nghiệp hướng dẫn các trại viên trồng trọt vài chục héc ta lúa cạn và cả trăm hécta đậu nành. Vụ mùa năm 1980-1981, đậu nành trúng lớn, Thầy cùng các dược sĩ cùng chung số phần, chế biến tương bắc cho cả trại dùng.
Đến tháng Giêng năm 1982, Thầy được trả tự do, Thầy về làm việc tại công ty Dịch Vụ Kỹ Thuật, nơi tập hợp rất nhiều Kỹ Sư, Kiến Trúc Sư, Cử Nhân Kinh Tế ... cùng cảnh ngộ. Thầy tham gia nhiều dự án phát triển kinh tế xã hội ở vùng đồng bằng sông Cửu Long và Cao Nguyên, chuyên nghiên cứu về các vùng đất trồng. Nhóm nghiên cứu gồm cả thầy NguyễnPhi Long, người một thời làm Giám Đốc Trung Tâm Thực Nghiệm Canh Nông và giảng dậy tại trường NLS Bảo Lộc, cùng nhiều kỹ sư khác. Thầy tâm sự, nhờ được đi thực địa suốt 6 năm công tác tại công ty DVKT, thầy mới có được kinh nghiệm thực tế về những kiến thức đã học ở trường và nhất là được học hỏi thêm về một số cây trồng như lúa, mía..v..v. Đúng như lời thầy Đặng Quan Điện đã nói với thầy năm xưa là: "không biết thì tự học... khắc biết..."
Cuối năm 1988, thầy chuyển công tác về công ty Du Lịch Dịch Vụ Dầu Khí (OSC-VN) làm ở bộ phận đối ngoại. Thời đó Việt Nam vừa mở cửa đón nhận các công ty phương tây vào làm ăn, nên các tổ chức kinh tế của Việt Nam cần các chuyên viện thông thạo tiếng Anh, Pháp, Đức. . . Lần đầu tiên từ sau 1975, thầy được cử đi Thái Lan (1989), Malaysia (1991)... Thầy nói "lại một sự đổi đời nữa". Thầy nhớ lại những khoảng năm 1985-1986, có lần thầy cùng nhóm chuyên viên đang lội bùn để lấy tiêu bản đất ở huyện Duyên Hải, (Cần Giờ ngày nay), thầy nhìn lên trên trời cao theo dõi bóng một chiếc phản lực bay vút qua trên không phận Việt Nam, lúc ấy thầy chua xót thở dài: chẳng biết mình còn có cơ hội nào để ngồi trên máy bay như khi xưa?!!!". Đúng là số phận thăng trầm.
Khi công ty OSC-VN xuất bản tờ nguyệt san "Du Lịch Bốn Mùa", thầy phụ trách phần phiên dịch thành tờ báo tiếng Anh (Four Season Travel), thế là thầy làm quen với nghề làm báo. Năm 1992, thầy được giới thiệu với tờ Việt Nam News, tờ nhật báo tiếng Anh đầu tiên ở Việt Nam sau năm 1975. Tờ báo này thuộc cơ quan Thông Tấn Xã Việt Nam và có văn phòng đại diện ở miền Nam. Thế là thầy của chúng ta, lúc ban đầu chỉ là cộng tác viên, sau hai năm đã trở thành biên tập viên của Việt Nam News.
Trong thời gian hơn 10 năm làm công tác báo chí, thầy có dịp tiếp xúc với các tổ chức kinh tế nước ngoài đến Việt Nam làm ăn. Thầy được mời đi tham dự nhiều cuộc họp báo, hội thảo chuyên đề ở trong và ngoài nước như Singapore, Malaysia, Pháp...
Còn nhớ khoảng thập niên 1990, Sài gòn chưa xử dụng điện thoại di động rộng rãi, mỗi lần gửi thư mời họp mặt, tôi thường đích thân gửi đến tận tay mỗi người. Hồi đó tôi rất vui khi được gặp thầy ở toà soạn báo Việt Nam News. Trong khi nhiều người trí thức của chế độ cũ phải nghỉ hưu sớm, thì thầy là một trong những người may mắn vẫn còn làm việc. Có lẽ người ta nể trọng kiến thức và trình độ ngoại ngữ của thầy.
Thầy tự hào mà không kiêu ngạo. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, việc gì đúng thì Thầy làm, Thầy không chịu khuất phục dưới áp lực nào. Bản tính Thầy phóng khoáng, ở tuổi U60 mà Thầy đi làm bằng xe Honda 250cc chạy ào ào giữa Sài Gòn như anh hùng xa lộ. Nhiều lần tình cờ gặp Thầy, tôi chưa kịp chào thì Thầy đạ chạy vụt qua.
Đến năm 2004 thì Thầy chính thức nghỉ hưu, nhưng vẫn viết bài cho các báo từ đó đến bây giờ. Tuy nhiên công việc của Thầy có một thời gian bị gián đoạn vì căn bệnh hiểm nghèo đã cướp đi của Thầy nhiều sức lực và thời gian. Sau nhiều lần phẩu thuật, hiện nay bệnh trạng của Thầy tương đối ổn định. Định mệnh đã tuyên cho Thầy một bản án treo. Dù vậy Thầy vẫn lạc quan yêu đời, bình thản chấp nhận số mạng.
Hôm nay ngồi viết những dòng nầy tôi thầm cầu xin Thiên Chúa ban phép lạ cho sức khoẻ của Thầy hồi phục, để Thầy còn đi cùng chúng ta một quảng đường xa hơn, dài hơn trong cuộc đời này
Thầy hứa sẽ viết lại một vài kỷ niệm trên trường để tặng trang nhà nlsbaoloc.info, như chuyện dẫn học sinh NLS Bảo Lộc đi bắt lâm tặc, hay chuyện tai nạn lật xe Jeep ở cột cờ...
Thầy ơi, tụi em đang chờ để được đọc bài của Thầy
Sài Gòn tháng 12 năm 2008
Bùi Thị Lợi
Cánh Chim Không Biết Mỏi - Bùi Thị Lợi
Đó là cô giáo của chúng ta. Tên của cô thường được hiểu lầm là tên của một loài chim báo hiệu mùa Xuân về, và mãi đến hôm nay tôi mới được nghe cô giải thích thật ra tên của cô: Yến là ánh sáng, Nguyệt là trăng. Ánh trăng cao nguyên đã một thời dắt chúng ta, cô Nguyễn Nguyệt Yến.
Hiện nay cô vẫn còn ở ngôi nhà trong con hẻm nhỏ đường Trần Quang Diệu, thuộc quận 3. Mặc dù mỗi năm một lần tôi viết địa chỉ nhà cô trên thiệp mời họp mặt NLS đến thuộc lòng, và mỗi lần có dịp đi ngang con hẻm nhỏ tôi thường nhủ: hôm nào mình phải ghé thăm cô. Thế mà sáng nay tôi và chị Ngô anh Thuấn bị lạc đường. Con hẻm đó bây giờ người ta xây cất nhà khang trang quá, cả nhà cô cũng vậy, may mà chị Thuấn còn nhớ nhà cô gần kề một ngõ quẹo nhỏ nữa. Chúng tôi gỏ cửa, và được đích thân cô ra mở cửa. Cô nhận ra chúng tôi ngay và vui vẻ gọi đích danh Ngô Anh Thuấn và Bùi Thị Lợi. Chúng tôi cũng rất vui khi được gặp cô. Nhiều năm trước, cô đều có mặt thường xuyên trong các buổi họp mặt ngày 1 tháng Giêng. Chúng tôi còn nhớ một lần họp mặt tại nhà cô, vào khoảng thập niên 80, lúc đó nhóm bạn NLS ở Sài Gòn mới liên lạc được khoảng vài chục người, đời sống xã hội lúc bấy giờ còn rất nhiều khó khăn, chúng tôi thấy mỗi lần họp mặt ở nhà hàng tốn kém quá nên nghĩ ra cách mượn nhà ai đó rộng rãi để họp mặt. Đầu tiên là kéo đến nhà thầy Phan Quang Định, rồi đến nhà thầy Phạm Minh Xuân, kế đến kéo về nhà cô Nguyệt Yến. Nhà cô cũng không rộng lắm, dọn dẹp hết bàn ghế đồ đạc cũng vừa đủ chỗ cho 50 - 60 người, chúng tôi ngồi quay quần dưới nền nhà. Vậy mà vui lắm, hạnh phúc lắm. Thế mới biết tình đoàn kết Nông Lâm Súc Bảo Lộc là tuyệt vời.
Cô nói: mấy năm gần đây, ngày 1 tháng Giêng học sinh NLS Bình Dương cứ đưa xe đến tận nhà đón cô đi họp mặt với tụi nó. Năm nay, cô nhất quyết không đi Bình Dương nữa. Cô sẽ đến với Nông Lâm Súc Bảo Lộc. Cô đã nhận được thư mời của chúng tôi và cô để ngay trên đầu bàn để nhớ.
Còn chúng tôi cũng có cái lỗi là mấy năm gần đây không thấy cô đi họp nhưng cũng không có dịp ghé thăm cô. Chúng tôi cứ lo lắng không biết sức khoẻ của cô như thế nào. Tôi và chị Thuấn cứ hẹn mãi đến sáng nay mới đi được để đến thăm cô và chúng tôi đã có một buổi trò chuyện rất vui. Tôi chợt có ý nghĩ ghi lại để kể với các bạn.
Cô của chúng ta sinh năm 1934 tại Chợ Lớn. Lúc nhỏ cô học tiểu học ở trường Việt Nam Học Đường, rồi qua cấp hai tại trường Huỳnh Khương Ninh, đến lớp 12, cô chuyển qua trường Gia Long. Đậu Tú Tài, cô thi vào đại học Văn Khoa và tốt nghiệp Cử Nhân chuyên khoa Nhân Văn. Năm cô 25 tuổi, cô bắt đầu đi dậy trường cấp 1 ở Bà Điểm, Hốc Môn. Đến khi được đề cử làm hiệu trưởng thì cô cảm thấy không thích hợp chức vụ nên xin đổi qua dậy cấp 2 trường trung học Mỏ Cầy. Ở đây, thầy hiệu trưởng Hồ Văn Trai biết ngày xưa cô học giỏi môn Toán nên giao cho cô phụ trách môn Toán. Đến năm 1966, tình cờ cô biết trường trung học Nông Lâm Súc Bảo Lộc, vốn yêu thích cảnh đẹp núi đồi cao nguyên, nên cô về sở Giáo Dục để xin chuyển về Bảo Lộc.
Cô nói mấy năm dậy ở Bảo Lộc là thời gian đẹp nhất của cô. Chẳng những trường Nông Lâm Súc Bảo Lộc có khung cảnh thơ mộng mà học trò NLS Bảo Lộc cũng để lại cho cô nhiều ấn tượng tốt đẹp. Cô kể có một lần cô bắt gặp có một nhóm nam sinh len lén khiêng một trái mít từ sau vườn nhà giáo sư đi ra. Cô gọi lại hỏi, các bạn rất bình tĩnh trả lời: "thưa cô, tụi em thấy trái mít chín nên hái dùm!", cô cười xoà và cho các bạn khiêng trái mít về lưu xá. Cô kể tiếp, có một lần từ Sàigòn trở lên trường, cô lại bỏ quên chìa khoá ở nhà, đang bối rối thì gặp mấy học trò của mình đi ngang, chỉ cần một cọng kẽm, các bạn ngoáy mấy vòng là mở được cửa nhà cô. Cô nói thương nhất là tụi học trò lúc nào cũng quan tâm đến cô, hôm nào cô bệnh không lên lớp được, là các học trò đến nhà thăm cô. Cô cần dọn dẹp, khuân vác đồ đạc là các bạn sốt sắng giúp cô thật chu đáo vì cô sống độc thân, đơn chiếc, và mãi đến bây giờ cô vẫn còn sống độc thân, các bạn ạ! Cô kể, lúc ở trên trường, mỗi cuối tuần cô thường đi với cô Hạ Huỳnh Yến lên Đà Lạt. Hai cô có nhiều kỷ niệm với nhau, nhưng từ lúc cô Hạ Huỳnh Yến đi Mỹ thì cô bặt tin bạn.
Sau biến cố Mậu Thân, cô được chuyển về trường NLS Bình Dương, cho đến 30 tháng 4 năm 1975, thì cô được chuyển về trường Nguyễn thị Minh Khai và dậy học đến năm 1988 thì chính thức nghỉ hưu, nhưng cô vẫn tiếp tục dạy hợp đồng với hai trường Ngô Thời Nhiệm và trường Nguyễn thị Diệu.
Có một điều đặc biệt lý thú là cô tốt nghiệp Cử Nhân Nhân Văn nhưng cô không dậy Văn mà chỉ dậy duy nhất môn Toán. Có một lần bà hiệu trưởng trường Nguyễn thị Minh Khai có ý nghi ngờ khả năng dậy Toán của cô cử nhân Nhân Văn nên đích thân đến dự một buổi lên lớp của cô, sau đó bà ta an tâm tin tưởng giao cho cô phụ trách môn Toán cho các lớp. Cô có một phương pháp sư phạm rất hay là cô vừa dậy vừa kể chuyện vui nên học trò rất dễ tiếp thu bài.
Cô cũng có cơ duyên thú vị là làm thầy cả hai thế hệ mẹ và con. Như trường hợp của chị Ngô Anh Thuấn, niên khoá 1965-1968 học trò của cô, sau đó Hạnh Chương, con gái chị Thuấn cũng được là học trò của cô khi học trường Nguyễn thị Minh Khai năm 1988. Cho đến bây giờ, đã vào tuổi 74, cô vẫn còn mở lớp dậy Toán ở nhà để dậy thêm cho các em cấp 2. Cô cười nói nhỏ với chúng tôi rằng đôi lúc cô phải nói dối rằng tuổi cô chưa đến 70 vì sợ phụ huynh học sinh nghĩ rằng cô già yếu và không tin tưởng cho con em đến học. Giá như các bạn gặp cô bây giờ cũng sẽ thán phục vì cô ở tuổi thất thập cổ lai hy mà cô vẫn còn tráng kiện, vui vẻ lạc quan, nhanh nhẹn đứng lớp mỗi ngày. Với mấy dẫy bàn ghế đơn sơ, học trò của cô gồm nhiều lớp, mỗi lớp độ 10 em. Cô chỉ dậy duy nhất môn Toán. Cô nói: thật là duyên trời định, vì nếu cô dậy Văn thì bây giờ đâu có mở được lớp dậy thêm vì đâu ai cần học thêm môn Văn. Nhờ môn Toán mà cô tự lo cho bản thân và còn chu cấp cho cả gia đình người em trai bị tai biến. Cô vui vẻ khoe mỗi tháng cô thu nhập cũng khá, cô còn để dành được chút vốn xây lại ngôi nhà và giúp đỡ cho mấy đứa cháu.
Cô như cánh chim không mỏi, tân tụy chăm chút giảng dậy, các học trò yêu kính cô và mặc dù tuổi của chúng đáng là cháu nội ngoại của cô nhưng vẫn một mực tôn kính hai chữ: Thưa Cô.
Nhìn cô vẽ những hình khối mạnh mẽ trên tấm bảng đen, chúng ta như thấy lại cô Nguyệt Yến trẻ trung của hơn 40 năm về trước. Cô hứa đến ngày 1 tháng Giêng năm 2009, cô sẽ đọc cho học trò NLS Bảo Lộc thân yêu của cô nghe bài thơ bất hủ "Mầu Mực Tím" của nhà thơ Kiên Giang. Chúng ta chờ nghe nhé.
Sài Gòn, tháng 12 năm 2008
Bùi Thị Lợi
TÂM NGUYỆN CỦA BẠN TÔI - Bùi Thị Lợi
Chiếc xe đò Mai Linh từ từ lăn bánh rời bến xe miền đông, để lại sau lưng thành phố SàiGon ồn ào náo nhiệt. Con đường quốc lộ bụi mịt mù luôn tấp nập xe cộ đi về. Hai bên đường nhà cửa hàng xóm, san sát, người đi bộ và xe hai bánh lấn chiếm cả lòng đường làm cản trở giao thông, thêm lệnh cấm xe chạy quá tốc độ cho phép nên chiếc xe đò đời mới tiện nghi với ghế nệm trắng tinh, máy lạnh mát rượi mà phải chạy rề rề. Tuy nhiên chúng tôi không quan tâm đến xe chạy nhanh hay chậm, ngồi bên nhau trên chiếc xe đò tốc hành SaiGon – Bảo Lộc chúng tôi cũng không quan tâm đến những hành khách khác. Cón nhớ ngày xưa có câu thành ngữ truyền khẩu trong giới Nông Lâm Súc là “chỗ nào có ba đứa con gái thêm một con vịt nữa là thành chợ Tân Bùi”. Bây giờ ở đây chúng tôi có bốn người Nga và Nguyệt nói cười râm ran, Năm có vẻ trầm tư hơn, bạn chăm chú nhìn cảnh vật hai bên đường. Đã lâu lắm có đến gần 20 năm bạn mới trở lại con đường này. Thỉnh thoảng nghe bạn kêu lên khe khẽ: Tới Dầu Giây rồi, … tới Định Quán rồi.
Nhìn thấy 2 hòn đá chồng cheo leo, Nguyệt bảo tôi kể lại cho Năm nghe chuyện cái bảng treo cấm leo trên hòn đá. Tôi bật cười nhớ lại lần đầu tiên Nguyễn minh Tâm kể câu chuyện này đã khẳng định chính mắt nhìn thấy bảng cấm ấy. Đến lúc xe qua khỏi thị trấn Phương Lâm, Tôi hỏi đố Năm biết ở đây trồng nhiều loại cây gì không lá, không hoa, không trái. Năm còn đang ngập ngừng thì Nguyệt nhanh tay chỉ mấy cây anten, Năm cười, nụ cười của bạn thật hiền. Dù năm tháng có làm tuổi đời chồng chất, dù bệnh tật có làm bạn mệt mỏi nhưng nụ cười của bạn vẫn hồn nhiên. Nhất là Nguyệt có một giọng cười thật sảng khoái. Khi xe lên đến Đèo chuối tôi nhắc lại chuyện những nàng tiên nữ đến đây tắm suối ngồi chéo đùi khép nép thì Nga và Nguyệt cũng bật cười. Giọng cười của Nguyệt làm bạn Năm đang buồn cũng phải vui lây. Dù cuộc sống gia đình Nguyệt còn nhiều lo toan vất vả nhưng bạn không bỏ sót một sinh hoạt Nông Lâm Súc nào, tôi rất khâm phục nhiệt tình của bạn. Nga thì tương đối thoải mái hơn. Bây giờ bạn đã là bà ngoại, kinh tế gia đình ổn định, thời gian gần đây Nga nhận trách nhiệm tổ chức các buổi họp mặt của khóa thật chu đáo. Chuyến đi này cũng do Nga chủ xướng.
Thật ra chuyến đi này là tâm nguyện của Võ Thị Năm. Từ sau khi cơ quan văn phòng đại diện Bộ Nông nghiệp của Năm giải thể. Năm rời khỏi khu nhà tập thể ở chung cư hồ Con Rùa là chúng tôi bặt tin. Mãi đến cuối năm 2006 tình cờ trong lễ tang ba Trần công Điền tôi mới nghe tin về Năm. Ngày xưa bạn sống khép kín, không giao du rộng rãi với bạn bè, dù lúc còn ở nội trú tôi và Nga ở chung phòng với Năm. Sau về Saigon cùng học chung lớp Kiểm sự nhưng cũng không nghe Năm tâm sự điều gì. Chỉ biết bạn từng có một mối tình lớn ở trên trường nhưng tốt nghiệp xong thì chuyện không thành và bạn vẫn sống độc thân cho đến bây giờ. Mỗi tháng bạn về Saigon môt lần để tái khám bệnh và mua thuốc, bây giờ thì quỹ thời gian của bạn không còn nhiều nữa. Bạn mới hối hả tìm lại bạn bè, bạn ghé thăm nhà của những bạn thân. Bạn tham dự các buổi họp mặt Nông Lâm Súc. Bạn nói còn một tâm nguyện là ao ước được đi một chuyến lên Bảo Lộc để thăm lại trường xưa. Bạn không thể đi một mình. Bạn muốn đi cùng chúng tôi, và chúng tôi lên đường.
Xe chạy mãi rồi cũng đến Bão Lộc. Qua khỏi mấy chục Kilômet đường quanh co. Cảnh vật nơi đây không thay đổi. Vẫn núi rừng, vẫn hố sâu đèo cao. Mùa này vách đá bên đường đã mọc lác đác vài khóm hoa thạch thảo, loài hoa gợi lại cho tôi bao kỷ niệm. Xe đến Đại Lào, Tân Hà, Thánh Tâm. Vừa thoáng nghe mùi hương trà thơm thơm trong gió thì đã thấy ngôi Đại Thính Đường của trường sừng sửng. Ngày xưa khuôn viên của trường rộng hơn bây giờ nhiều, cảnh quang cũng thông thoáng hơn. Chúng ta có thể trông thấy trường từ xa. Bắt đầu từ tiệm trà Đỗ Hửu là địa phận của trường rồi.
Còn bây giờ người ta chia cắt, nguyên dãy nhà giáo sư của các thầy Châu Kim Lang, Phan Bá Sáu, Phan Quang Định, Cô Ngọc, Cô Lan đã bị tách ra khỏi trường. Một bức tường rào được xây sát vách Đại Thính Đường. Người ta xây thêm một dãy lầu để làm văn phòng chắn ngang phía trước. Từ ngoài nhìn vào nếu không còn ngôi Đại Thính Đường với lối kiến trúc đặt biệt thân quen thì khó mà nhận ra trường chúng ta với cái tên xa lạ: Trường trung học Kỹ thuật và Dạy nghề. Xa xa phía trong, 3 dãy lớp học A,B,C đang được sơn sửa lại với màu vôi lòe loẹt chói mắt. Con đường Cô Độc Lộ dẫn qua các lớp học không còn bóng dáng cây Tai Tượng nào. Văn phòng nơi ngày xưa chúng ta hăm hở mỗi đầu tháng được bác Nhật gọi lên nhận Măng-đa hay nhận thư của gia đình bây giờ được đổi tên là nhà truyền thống với tượng đài Lý Tự Trọng đứng trên cái hồ không có nước. Con đường Đỗ Mai từ cổng vào còn sót lại vài gốc Đỗ Mai cằn cổi bị cưa cụt ngọn. Sau lưng thư viện được cho thuê đất trồng trà. Nhìn lại con đường Hoàng Hoa mới buồn bả làm sau. Ngày xưa rợp bóng hoa Muồng vàng mà giờ đây phát hoang như con đường làng trống trải. Đứng ở cột cờ mà bây giờ là cây cột đèn lạc lõng. Nhìn về phía bên nầy các lưu xá A,B,C được xây sửa, rào chắn khác lạ. Nhìn phía bên kia lưu xá D, E cũng không còn vẻ thân quen. Duy chỉ có ngôi nhà Thầy Hiệu Trưởng là còn nguyên dáng vẻ cũ, được sơn phết lại không biết dùng để làm gì. Có một thời nơi đây là nhà khách. Không còn thấy chút vết tích nào của các khu chuồng trại, thực hành Nông trại ngày xưa. Tất cả đã được phân lô chia đất cho cán bộ giáo viên xây cất nhà riêng. Ngậm ngùi trước cảnh vật đổi sao dời, tôi và Nga nhắc lại một kỷ niệm vui vui. Hôm đó Thầy Kim giao cho chúng tôi thực tập bài học Phối giống Heo. Con heo nái đã được cho vào chuồng ép chờ sẵn. Con heo nọc được dẫn vào, sơ sẩy làm sau bị sút dây, con heo nọc thoát ra ngoài chạy quanh chuồng rượt chúng tôi. Trong tình cảnh hiểm nghèo như vậy Nga vẫn bình tỉnh khôi hài : “Ê con kia chờ mày chứ đâu phải tụi tao “Bây giờ nhớ lại, thật tiếc cái tuổi hồn nhiên. Chúng tôi đi lần về lưu xá E, con đường bằng lăng ngày xưa đi từ cổng sau lưu xá xuống Câu lạc Bộ ngày xưa rậm rạp hoa Quỳ, nay cũng không còn. Nhìn lên căn phòng mà ngày xưa tôi, Nga và Năm cùng ở.
Nhớ mùa Giáng Sinh năm 1968 tôi đã dùng màu nước vẽ lên lên khung cửa kính hình ông già Noel đội cái mủ chóp đỏ và hàm râu trắng xoá như bông tuyết. Bây giờ cửa kính đã được thay bằng cửa gổ và đóng im lìm. Nga cũng nhắc chuyện cái chai Kynkyna La Rode của Năm và bạn cười thật buồn không ngờ chúng tôi nhớ dai đến vậy. Nguyệt có vẻ mỏi chân, bệnh đau khớp khiến bạn đi khập khễnh nên chúng tôi không muốn đi xa thêm nữa. Buổi chiều cao nguyên xuống rất nhanh. Tôi vội vã chụp vài tấm hình trước khi những tia nắng cuối ngày mất hút sau đỉnh núi Đại Bình. Nhìn đỉnh núi Đại Bình tôi chợt nhớ chị Cao Xuân Liễu, chị có cửa tiệm Number One Hair and Nail ở California. Có lần tôi được dịp đến nhờ chị chăm sóc dáng vẻ của mình. Tiệm của chị Liễu nằm trên ngọn đồi Laguana Hill, phong cảnh rất đẹp, ở đó cũng có một ngọn núi. Chị Liễu nói với tôi: “Chiều chiều chị nhìn lên đỉnh núi xa xa phủ sương mù trông như núi Đại Bình ở Bão Lộc và chị nhớ trường nhớ bạn quá”. Và chị cũng ao ước một lần về thăm. Tôi nghe các bạn dự tính năm 2010 sẽ rủ nhau về trường tổ chức Đại Hội Nông Lâm Súc hoành tráng. Tôi cầu chúc các bạn thành công. Vì tôi đã thất bại một lần. Năm 2005 tôi không xin được giấy phép tổ chức họp mặt kỷ niệm 50 năm thành lập trường. Đó cũng là tâm niệm của tôi đã không thực hiện được.
Buổi tối chúng tôi thuê khách sạn ở đối diện cổng trường, ngồi ngoài balcon khách sạn nhìn qua bên kia đường là khuôn viên trường. Chúng tôi tưởng chừng như đang ngồi trên balcon lưu xá E, rất tiếc đêm không có sương mù, không gian chỉ hơi lành lạnh nhưng cũng đủ gợi lại cho chúng tôi bốn mái đầu điễm bạc những hồi ức 40 năm về trước và như vậy tôi đã hoàn thành tâm nguyện của bạn tôi.
Viết xong ngày 20- 4-2008
Bùi Thị Lợi
MADEMOISELLE - Bùi Thị Lợi
Thế hệ Nông Lâm Súc Bảo Lộc của những niên khóa 1965-1970 không ai mà không nhớ biệt danh dễ thương mà học trò chúng ta gọi riêng cô giáo dạy Pháp văn, cô Nguyễn Thị Kim. Từ lâu chúng ta không có được thông tin nhiều về cô. Hôm nay tôi muốn chia xẻ với các bạn những giây phút gặp gỡ ngắn ngủi nhưng đầy ấp thân tình cô trò.
Tôi được học cô 3 năm liên tục nên tôi nhớ cô rất rõ. Hồi đó cô cắt tóc ngắn như búp bê, khi lên lớp cô thường mặc áo dài trắng eo rất thon, lúc nào cũng khoát chiếc áo len mỏng. Cô rất hiền, luôn nở nụ cười thật tươi, dù chúng tôi có nghịch phá hay lười biếng cũng không thấy cô quở trách, mà cô chỉ nhỏ nhẹ khuyên bảo. Vì vậy chúng tôi yêu kính cô hơn là nể sợ và cũng vì vậy mà môn Pháp văn cô dạy tôi nhập tâm nhiều hơn. Sau này học anh văn là sinh ngữ phụ, tôi vẫn quen miệng: Oui! Mademoiselle.
Ngày xưa trong lớp, tôi cũng chỉ là một học trò bình thường như bao nhiêu học trò của cô. Đến lúc đi làm việc, tình cờ tôi quen anh Nguyện, cán bộ Ty Nông Nghiệp Lâm Đồng là cháu của cô. Qua câu chuyện thăm hỏi bây giờ tôi mới cảm thấy mình thân thương cô hơn. Nghe kể sau khi chuyển về Sài Gòn, cô lập gia đình rồi định cư ở Mỹ trước năm 1975. Mãi đến năm 1995 anh Nguyện cho tôi hay tin cô về thăm quê hương. Tôi xin phép được đến thăm cô, tôi gặp đứa con gái nhỏ của cô lúc ấy khoảng 15, 16 tuổi thật xinh đẹp. Cô bé không biết nói tiếng Việt. Cô bảo tôi có thể nói chuyện với em bằng tiếng Anh hay tiếng Pháp cũng được. Tôi xấu hổ chỉ biết cười và bập bẹ mấy câu xã giao đơn giản. Riêng cô đã hỏi thăm tôi rất nhiều về thầy cô và học trò NLS Bảo Lộc. Tình cờ năm đó anh Lê Văn An TL68, chồng chị Nguyễn Thu Thanh MS70, mới mất, tôi đưa cô đến thăm gia đình chị Thu Thanh. Cô còn gửi số tiền gọi là ủng hộ các em trong sinh họat. Sau đó mỗi đầu năm cô đều nhờ anh Nguyện chuyển cho chúng tôi số tiền ủng hộ họp mặt. Một thời gian sau, anh Nguyện cùng gia đình đi định cư. Tôi lại bặt tin cô.
Vào khoảng năm 2005, cô có dịp về Sài Gòn. Lần này anh Châu Kim Đính KS NLM cho tôi biết tin. Tôi vui mừng chạy vội đến cô vào một buổi sáng sớm. Lúc đó gia đình cô chuẩn bị đi du lịch nên cô trò chỉ kịp trao đổi mấy câu thăm hỏi. Dù vậy tôi cũng thấy rất vui vì được gặp cô giáo của mình. Cô không quên nhờ tôi chuyển lời hỏi thăm quí thầy cô và bạn bè NLS vì cô không có thời giờ để gặp gở mọi người dù trong lòng cô luôn nhớ. Thỉnh thoảng tôi liên lạc qua email với cô. Được biết cô đã nghỉ hưu, và cô đã có một đứa cháu ngọai, xin chúc mừng cô.
Tháng 10-2009 cô gởi cho tôi mấy tấm ảnh tư liệu thật quí. Ảnh chụp cô và học trò NLS trong họp đoàn Vạn Hạnh. Ảnh cô chụp ở bờ hồ Bảo Lộc hơn 40 năm trước và tấm hình mới nhất cô chụp ở Mỹ. Chúng tôi đã chọn tấm ảnh cô chụp năm xưa để in vào Kỷ Yếu. Tôi hứa sẽ gởi tập Kỷ Yếu tặng cô. Nhưng cô bảo đừng gởi. Để Tết cô về Sài Gòn, cô gặp em.
Sau ngày 01-01-2010, tôi loay hoay mãi không còn nhớ gì nữa. Chợt sáng nay đang lướt qua các thư mục trong email thì dòng chữ “cô mong gặp em” làm tôi xúc động. Tôi nhấp vội con chuột và đọc nhanh mail của cô. Cô đã về đến Sài Gòn, cô nhắn tin muốn gặp tôi, cô cho số điện thọai…. Tôi reo lên: “Ôi! cô đã về”. Tôi nhấc điện thọai gọi ngay. Bên kia đầu dây có tiếng trả lời: Cô không có ở đây. Tôi chưa kịp thất vọng thì đã nghe tiếp: hảy gọi đến số này… Tôi vội cám ơn. Gọi tiếp: Lần này thì chính cô nhấc máy. Cô trò mình gặp nhau nhé. Dạ… Em hãy đến… cô chờ… Dạ em đến ngay. Đặt điện thọai xuống, tôi thay áo lấy xe đi ngay, sợ cô chờ. Tôi kịp lấy cuốn Kỷ Yếu và mấy cuốn album hình họp mặt NLS các năm gần đây đem cho cô xem. Đi được một đọan đường tôi mới chợt nhớ mình quên đem theo máy ảnh để chụp với cô vài tấm hình kỷ niệm. Quay trở lại thì sợ chậm trễ cô chờ. Thôi thì đành vậy. Và tôi đến chỗ hẹn trước. Tiệm phở 5 sao đường Cao Thắng. Tôi ngồi chờ cô mà lòng rộn vui. Nhìn qua lớp cửa kính, tôi nhận ra dáng cô từ xa. Ôi! cô giáo của tôi.
Vẫn giản dị, hiền hòa thân thương. Tôi ra đón cô. So với lần gặp trước đây tôi thấy cô khỏe và trẻ ra. Tôi nói ra nhận xét này thì cô cười nói có lẽ bây giờ nghỉ hưu, không phải đi làm nên cô thoải mái. Cô bảo tôi chọn món ăn, cô mời. Tôi hạnh phúc như đứa học trò nhỏ được nuông chiều. Tôi gọi một tô phở nhỏ và một ly sữa kem. Còn cô chỉ gọi một ly cam tươi và câu chuyện bắt đầu:
Tôi tranh thủ giới thiệu sơ lược cuốn Kỷ Yếu. Cô có vẻ rất thích thú, lướt qua danh sách, hình ảnh các Thầy Cô … Bất chợt cô kêu lên: “Sao các em viết tên cô họ Lê, cô họ Nguyễn mà”. Ôi chết rồi! một sự sai lầm không tha thứ được. Sau khi phát hành Kỷ Yếu chúng tôi biết có rất nhiều sai sót. Nhưng viết sai tên họ của cô giáo mình thì thật quá tệ, bây giờ biết đổ lỗi cho ai? Tôi xin lỗi, cô cười dễ dãi: Không sao đâu em. Lướt qua vài trang nữa cô lại phát hiện sai sót của ban biên tập, điều này thì chúng tôi đã biết trước nên không ngạc nhiên, nhưng trong lòng khâm phục trí nhớ của cô. Vì cô nhận ra trong Kỷ Yếu in nhầm hình chị Lâm Thị Cúc mà ghi tên và địa chỉ của chị Dương Thị Cúc. Thì ra chị Lâm Thị Cúc là học trò ruột của cô. Tôi kể cô nghe hôm tháng 10-2009 hai anh Vương Đình Ánh và Bùi Đức Thắng về Sài Gòn có mời nhóm bạn NLS ăn tối. Hôm đó chị Lâm thị Cúc có hỏi tôi địa chỉ mail của cô. Chị nói chị không quen sử dụng vi tính nhưng sẽ nhờ con chị mail thăm cô.
Cô rất vui khi nhìn lại tương đối khá đầy đủ những khuôn mặt thầy cô và học trò NLS, cô hỏi thăm từng người mà cô nhớ. Tôi cũng đưa cô xem album hình họp mặt hàng năm, đặc biệt là ngày 01-01-2010. Cô khen ngợi tình đoàn kết NLS Bảo Lộc chúng ta.
Thời gian qua thật nhanh, cuộc hàn huyên chưa thỏa thì đã đến lúc cô phải đi. Cô nhắn tôi gửi lời thăm thầy Châu Kim Lang, thầy Phạm Phi Hòanh, thầy Hồ Phước Hải… thăm cô Nguyễn Nguyệt Yến, cô Võ Thị Vân…, thăm tất cả học trò của cô mà tôi gặp. Tôi cũng giới thiệu với cô trang nhà nlsbaoloc.info. Mong rằng cô sẽ tìm được nhiều niềm vui. Chúc cô luôn vui khỏe, an lành. Mong gặp lại cô một ngày thật gần
Học trò của Cô,
B.T.Lợi, MS 71
MỘT NÉN HƯƠNG KÍNH DÂNG THẦY - Bùi Thị Lợi
Người xưa có câu: mùng một giỗ Cha, mùng hai giỗ Mẹ, mùng ba giỗ Thầy. Trong ba ngày quan trọng nhất của một năm, ngoài việc tỏ lòng hiếu thảo đến bậc sinh thành, chúng ta còn phải biết bày tỏ sự biết ơn và lòng thương kính đến người có công dạy dỗ mình khi họ đã khuất bóng. Qua đó, đạo lý cao đẹp của nền văn hoá Việt, " tôn sư trọng đạo", luôn được Ông Bà ta nhắn nhủ, dạy dỗ con cháu.
Thấm thoát đã tròn một năm ngày Thầy Đặng Quan Điện đã rời chúng ta, một vị Thầy đáng kính, đáng yêu của các anh chị ngành Nông Nghiệp Việt Nam nói chung và của các cựu học sinh Nông Lâm Súc Bảo Lộc nói riêng. Ông vốn là nhà kiến trúc, khai sáng và lãnh đạo hệ thống giáo dục nông nghiệp cấp trung học toàn Miền Nam trong một thời gian dài trước năm 1975.
Trong tâm tình ghi nhớ công ơn của Thầy, chị Bùi Thị Lợi đã thay anh em chúng ta đã đến thắp nén hương trước bàn thờ Thầy nhân ngày cúng giáp năm. Trang nhà xin trân trọng giới thiệu bài viết của chị Lợi. (Trang Nhà)
MỘT NÉN HƯƠNG KÍNH DÂNG THẦY
Hôm nay 4 tháng 11 năm 2008 là ngày cúng giáp năm (giỗ đầu) của cố Giáo Sư Bác Sĩ Đặng Quan Điện. Gia đình Thầy tổ chức lễ cầu siêu tại chùa Phật Đà, Quận Tân Bình, T.P. Hồ chí Minh.
Tôi không có may mắn được Thầy dạy cho một chữ nào vì năm đó tôi theo học lớp Kiểm Sự mà Thầy chỉ dạy cho các lớp Sư phạm. Thế nhưng trong cuộc đời, tôi lại có duyên được Thầy nhận là học trò cưng. Nhân kỷ niệm một năm ngày Thầy mất, tôi mạn phép giới thiệu với Trang Nhà đôi nét về cuộc đời và sự nghiệp của Thầy đã có một thời gắn bó với Trường Nông Lâm Súc Bảo Lộc chúng ta, và một số bạn trong chúng ta đã từng là học trò cưng của Thầy.
Thầy Đặng Quan Điện sinh năm 1926, quê Thầy ở Lái Thiêu, Bình Dương. Thầy lập gia đình với cô Lê Kim Chung và có hai người con trai (có một chi tiết thú vị: Thầy là anh em cột chèo với bạn Nguyễn Hồng Sơn, lớp mục súc khóa 68-71). Vào giữa thập niên 40 Thầy sang Pháp du học tại trường Thú Y Quốc Gia LYON, tốt nghiệp Bác sĩ Thú Y với luận án xuất sắc về đề tài nghiên cứu hệ động mạch gia cầm, Thầy đã được tặng giải thưởng F.X LESBRE. Năm 1951, Thầy sang Đan Mạch học kỹ thuật chăn nuôi heo, sau đó sang thực tập và nghiên cứu ở Viện Di Truyền và Cải Thiện giống gia súc bên Scotland, Anh Quốc.
Khi về nước, công việc đầu tiên của Thầy đảm trách là khảo sát, qui họach, thiết lập hệ thống các Trung Tâm Thực Nghiệm Chăn Nuôi đại gia súc như: T.T Tân Sơn Nhất, T.T Bò sữa Bến Cát, T.T Bò và Trâu sữa Hưng Lộc, T.T Nha Hố, T.T Khánh Dương v.v. Năm 1955, Trường Quốc Gia Nông Lâm Mục Blao được thành lập, Thầy đảm nhận chức vụ Chánh Sự Vụ Sở Cao Đẳng Học Vụ rồi Giám Đốc Nha Học Vụ Nông Lâm Súc kiêm Giám Đốc Trường Cao Đẳng NLS Sài Gòn.
Thầy đã cùng Bác Sĩ Vũ Ngọc Tân, Giáo sư Lê Văn Ký và Giáo sư Bùi Huy Thục xây dựng trường lớp, cư xá, thư viện, đại giảng đường, nông trại .... Tuy rất bận rộn với công việc ở Sở Cao Đẳng và Nha Học Vụ NLS nhưng hàng tuần Thầy vẫn lên Bảo Lộc 3 ngày thứ năm, thứ sáu, thứ bảy để giảng dạy 2 cấp Cao đẳng và Trung đẳng. Thầy phụ trách 3 môn Súc học Đại cương: Chăn nuôi, Dinh dưỡng và Di truyền. Ngòai ra thầy còn giảng dạy thêm môn Khí tượng và Khí hậu học. Sau khi các lớp Cao Đẳng NLS dời về Sài gòn và các khóa Trung Đẳng kết thúc chuyển sang hệ Trung học NLS thì chúng ta chỉ còn gặp Thầy ở Nha Học Vụ NLS và Trường Đại Học Nông Nghiệp.
Sau năm 1975, Thầy vẫn tiếp tục giảng dạy sinh viên Trung cấp, Đại học, hậu Đại học, đào tạo kỹ thuật viên Nông nghiệp, Kỹ sư Nông nghiệp, Thạc Sĩ, Tiến Sĩ. Thầy là thầy của nhiều Thầy trong ngành Nông nghiệp. Học trò của Thầy nhiều người đã trở thành viên chức lãnh đạo của nhiều cơ quan trong ngành nông nghiệp.
Thầy đã cống hiến cả cuộc đời cho sự nghiệp phát triển chăn nuôi, phát triển giáo dục nông nhgiệp. Thầy đã được tặng nhiều huy chương của Bộ và của Thành phố. Nhưng Thầy nói phần thưởng mà Thầy trân trọng nhất đó là sự thành công và lòng kính yêu của nhiều thế hệ sinh viên học sinh dành cho Thầy.
Bản chất thầy bình dị, đơn giản từ cách ăn mặc đến lời nói. Thầy nghĩ sao nói vậy, không trau chuốt. Nhớ kỹ niệm lần đầu tiên tôi được diện kiến Thầy là năm lớp 12, tôi đại diện học sinh bãi khóa bỏ học về Nha Học Vụ trình nguyện vọng lên Ban Giám Đốc. Hôm đó chúng tôi đến Nha thật sớm, chờ ở cổng. Khi xe Thầy đến, chúng tôi chờ mãi không thấy Thầy xuống, chỉ thấy bác Tài xế mặc áo sơ mi trắng mang giầy tây xách cặp đi lên lầu. Đến lúc được gọi lên trình diện, chúng tôi mới ngở ngàng sửng sốt, thì ra Thầy tự lái xe. Tôi chưa kịp hoàn hồn thì Thầy chỉ tôi và bảo "Nhỏ này có việc gì trình bày đi". Thật ra người được chỉ định trình bày với Thầy là Trần Tấn Phước, còn tôi và Châu văn Xịch chỉ đi theo cho đủ thành phần Ban Đại Diện học sinh. Nhưng thầy đã bảo thì tôi phải trình bày. Không nhớ tôi đã nói những gì mà Thầy dịu dàng bảo 3 đứa trở về trường, mọi chuyện để Thầy giải quyết. Sau lần đó tôi hết dám sách động bạn bè, và đó cũng là ấn tượng đáng nhớ của tôi về Thầy.
Mãi đến những năm 1990, nhóm bạn NLS Bảo Lộc ở Sài Gòn sinh họat thường xuyên tôi mới có dịp liên lạc và gặp lại Thầy. Với vai trò Ban Tổ Chức, tôi được gần gủi với Thầy nhiều hơn, được Thầy góp ý và chỉ dẫn ân cần. Có một câu nói của Thầy mà tôi thường nhắc lại cho nhiều bạn bè nghe. Thầy Đặng Quan Điện đã nói: "Thầy tự hào về những học sinh xuất thân từ trường NLS Bảo Lộc vì chúng ta đều là những người nếu không thành đạt vẽ vang thì cũng có thể đứng vững vàng trong xã hội và cuộc sống".
Trong hai lần kỷ niệm 40 và 45 năm thành lập trường vào năm 1995 và 2000, Thầy đã giới thiệu cho tôi hợp tác với trường Đại Học Nông Lâm T.P tổ chức đưa thầy cô và bạn bè về trường thành công tốt đẹp. Đến năm 2005, gặp trở ngại vì thủ tục hành chính khó khăn, chính Thầy đã góp ý là không cần phải về trường, chỉ cần thầy trò, bạn bè ngồi lại với nhau thì dù ở đâu cũng thắm đượm tình nghĩa. Thầy luôn có mặt trong các buổi họp đầu năm của nhóm NLS, ở tuổi ngoài 80 Thầy vẫn khỏe mạnh, nhanh nhẹn, Thầy hay cổ vũ những câu chuyện tiếu lâm của chúng tôi. Và các anh cũng hay kể những mẩu chuyện vui về Thầy. Có lần Thầy đi công tác ở một tỉnh miền Tây, sau khi công việc hoàn tất, lãnh đạo có ý chiêu đải Thầy, trong bửa tiệc có gọi mấy cô gái phục vụ, thoạt đầu Thầy rất vui vẻ vì thật thà tưởng như em cháu tiếp mình, đến khi các cô có thái độ quá mức cần thiết, Thầy đã lớn tiếng bảo "mấy cô đi ra, không thôi tôi gọi công an đó...". Trong giảng dạy Thầy thật nghiêm khắc, nhưng ngoài đời Thầy rất thân thiện. Sau này Thầy thường bảo chúng ta như là đồng nghiệp của Thầy. Riêng tôi vẫn hãnh diện là cô học trò nhỏ được Thầy thương mến. Thế mà ngày Thầy ra đi tôi đã không có mặt ở quê nhà để thắp một nén hương và đưa Thầy đến nơi an nghỉ cuối cùng. Hôm nay nhân ngày cúng giáp năm (giỗ đầu tiên), mượn những dòng chữ này tôi thành kính dâng lên Thầy tấm lòng yêu kính và tri ân của cựu học sinh Nông lâm Súc Bảo Lộc, và nguyện cầu cho hương hồn Thầy được siêu thăng tịnh độ.
Sài Gòn ngày 4.11.2008
Bùi Thị Lợi