- Châu Âu Du Ký
- Đạo - Đời Và Tình Nông Lâm súc Bảo Lộc
- Đất Mũi Cà Mau
- Chị Chín Cò
- Một Cõi Đi Về
- Nhớ Mãi Buổi Chiều Xuân
Thật cảm động khi nhận được email của chị Lợi nhờ viết vài lời giới thiệu cho bài Châu Âu Du Ký, tường thuật lại chuyến đi du lịch qua 5 nước Pháp, Hòa Lan, Bỉ, Đức, Ý của chị. Phải thú thật là ngay sau khi đọc lá thơ của chị thì tôi rất ngần ngại, vì tôi không biết gì nhiều về chị thì biết ăn nói sao đây? Nhưng chợt nhớ lại câu nói của nhà văn Alessandro Manzoni: “Một trong những điều tốt đẹp của tình bạn, đó là có thể ký thác một bí mật cho nhau." Ở đây thì không có gì là bí mật cả, nhưng được một người tin tưởng mình như một người bạn để ký thác một công việc, cho dù bất cứ một công việc gì thì cũng là một điều sung sướng và hãnh diện lắm thay.
Cách đây không lâu, trong lời giới thiệu bài "Bên Dòng Sông Hậu" cho anh bạn nối khố Bùi đức Thắng, tôi có nhắc đến một mẫu đối thoại nho nhỏ giữa hai Bố Con trong tuyển tập sách dịch của nhà văn Hà mai Anh, trong đó ông Bố mừng cho người con trai của mình đã có nhiều người bạn thân trong khi cá nhân ông cho tới giờ phút đó vẫn chưa thể tìm được cho dù chỉ một người… Sau đó, ông Bố nhắn nhủ thêm cho người con rằng: "Những người bạn là những viên ngọc qúi hiếm, họ sánh bước với con trong những giai đoạn của cuộc đời và khuyến khích con. Họ sẵn sàng lắng nghe con, họ nâng đỡ con khi con cần họ và mở lòng ra với con. Phần con, con cũng hãy tỏ rõ cho các bạn con biết rằng con đang yêu thương họ đến đâu.”
Vâng! “con cũng hãy tỏ rõ cho các bạn con biết rằng con đang yêu thương họ đến đâu”. Tác động bởi dòng suy tưởng trên, nên tôi đã vội vàng hồi âm ngay cho chị Lợi biết niềm vui mừng khi được chị tín nhiệm.
Nhắc đến tên Bùi thị Lợi thì rất nhiều người biết đến, chị hoạt động rất hăng say trong mọi công việc hội họp và tiếp đón bạn bè, nhờ đó cho dù chúng ta đang phải sống rải rác khắp năm châu bốn biển, nhưng cũng đã nối được vòng tay lớn lại với nhau. Từ năm 1982 đến 2008 đã có khoảng 26 buổi họp mặt chính thức gia đình Nông Lâm Súc Bảo Lộc chúng ta.
Xin mời các bạn hãy cùng tôi đọc lại lời nhận xét của Thầy Phan bá Sáu về hoạt động của chị trên Trang Nhà: “... từ những năm trước, khi bầu trời chưa được quang đãng lắm sau cơn ba đào của vận nước, chị Bùi thị Lợi đã cùng một số anh chị em có lòng đã tìm mọi cách để tổ chức ngày họp mặt hằng năm của anh chị em NLSBL. Trong buổi giao thời, lòng người xao xuyến, có cơ hội gặp mặt nhau, nói với nhau đôi lời để đem lại chút niềm tin, là điều thật sự hết sức cần thiết! Một việc làm khởi nguồn từ sự cần thiết tìm lại tình người trong hoàn cảnh suy thoái đạo đức, quả đã nói lên được ý nguyện chung, do đó, càng ngày đã được anh chị em tìm về với nhau trong ngày họp mặt càng đông hơn, và đã trở thành một ngày thông lệ hàng năm! Riêng những anh chị ở nước ngoài có dịp trở về thăm quê nhà và muốn gặp bạn bè cũng được chị Lợi sẵn lòng tiếp đón và thường là mối dây cho các cuộc gặp gỡ. Chị đã có ít nhất đôi lần gặp chúng ta tại xứ Cờ Hoa nầy. Những chuyến trở lại mái trường xưa trước đây đều có sự đóng góp tích cực của chị…”
Ngoài ra, nếu chú
ng ta chịu khó lật lại những trang trước của Trang Nhà thì sẽ thấy sự đóng góp rất tích cực qua nhiều bài vở của chị. Từ bài “Hippie Chính Truyện” viết về chính chị vào tháng 3 năm 2007, đến “40 năm trở lại miền Đất Hứa” tường thuật chuyến viếng thăm trở lại trường của một nhóm bạn bè do chị tổ chức vào tháng 8, 2008, rồi đến “Một chuyến Mỹ Du” và sau đó là một loạt các bài đặc biệt viết về quí Thầy Cô như Thầy Đặng Quang Điện "Một nén hương kính dâng Thầy", Thầy Phạm Phi Hoành "Thầy tôi bây giờ", Thầy Châu Kim Lang "Có một người Thầy như thế", Cô Nguyễn Nguyệt Yến "Cánh chim không biết mỏi", Thầy Hà Văn Thân "Một cõi đi về" Thầy Trần Ngọc Xuân "Nhớ mãi buổi chiều Xuân" v…v... tất cả những dấu ấn đó đủ nói lên tấm lòng của chị đối với ngôi trường, bạn bè và Thầy Cô NLS chúng ta. Một lần nữa, hãy cùng nhau thử đọc lại lời nhận xét từ một người chưa từng gặp chị bao giờ, đó là anh Vương Thế Đức: “... chị Bùi Thị Lợi với tấm lòng một mực thương kính thầy cô và sự quí mến bạn bè đã được thể hiện qua việc làm của chị bấy lâu nay; chị đã không ngần ngại, bỏ công tìm mọi cách để tiếp cận với các thầy, cô giáo cũ, thăm hỏi chuyện trò, và qua đó chị đã khéo sắp xếp ghi sơ lược về cuộc đời, sự cống hiến cũng như tình cảm tốt đẹp của riêng chị cũng như của tập thể NLS Bảo Lộc vẫn còn giữ được về họ… loạt bài của chị đã được dần đăng trên Trang Nhà của Hội và bài nào cũng được đọc giả đón nhận nồng nhiệt với số lần đọc khá cao.”
Một người hoạt động tích cực và thương kính Thầy Cô như thế thì thử hỏi làm sao mà không nhiều người biết hoặc nghe đến cho được! Riêng cá nhân tôi, chắc nhờ có duyên may nên cho đến nay đã được hội ngộ với chị vài lần.
Vào cuối năm 1968, trong một dịp trở lại trường để thăm người em trai đang học lớp Đệ Nhị cũng như có dịp gặp lại người em gái thân thương; chính nhờ cuộc viếng thăm này mà tôi đã được gặp chị Lợi lần đầu tiên, khi tôi mời người em gái đó đi uống nước cùng với chị Lợi vì 2 người là bạn rất thân với nhau.
Rồi 36 năm sau, tức là vào năm 2004 thì tôi mới có dịp gặp lại chị lần thứ hai nơi quán Faifo của chị Ngô Anh Thuấn ở khu Tân Định cùng với Thái Thị Tốt, Nguyễn Thị Nga, Nguyễn Thị Kim Nguyệt, Đặng Thị Hoà Bình và rất đông bạn bè khác. Vẫn dáng người nhỏ nhắn, gương mặt xinh tươi với nụ cười cởi mở thân thiện và đặc biệt là tài ăn nói lưu loát pha lẫn dí dỏm của chị khiến buổi họp mặt hôm đó rẩt vui tươi và sống động. Và ngay ngày hôm sau, tôi lại có dịp cùng chị và các bạn khác quây quần nói cười rôm rả bên nhau vui như ngày Tết chung quanh nồi bún bò Huế ngạt ngào nơi nhà chị Nguyễn Thị Nga thuộc quận Tân Bình.
Lần thứ tư gặp lại chị là vào ngày 1 tháng 1 năm 2008. Chính kỳ họp mặt thường niên này mà tôi mới được thấy tận mắt và mới thật sự thán phục sự tổ chức thật khéo léo cũng như tài điều khiển chương trình rất là hoạt bát của chị mà trước đây tôi chỉ nghe mà thôi. Gặp được chị vài lần như vậy thì tôi lại có thêm một nhận xét nữa là nét mặt của chị không thay đổi mấy cho dù thời gian vẫn bình thản trôi qua, phải chăng nhờ tính tình luôn vui vẻ, hiếu động nơi con người chị chăng!?
Tóm lại, như chúng ta đều biết, về mầu sắc thì cũng chỉ có từng ấy mầu, nhưng có người chỉ cần phối hợp hai mầu đen trắng thôi là đã tạo nên một bức tranh thủy mạc thật tuyệt vời, cũng có người lại thích pha trộn nhiều mầu sắc khác nhau như Pablo Picasso đúc kết nên những kiệt tác, khiến cho khách thưởng lãm phải trầm tư suy tưởng. Đó chính là cái sắc thái đặc biệt khác nhau của người họa sĩ. Đồng một thể ấy, với tiếng Việt của chúng ta, cũng chỉ với từng ấy 24 mẫu tự căn bản, mà có người đã tạo ra những vần thơ đủ sức du hồn ta về đến một "suối mơ bên dòng thu vắng" cũng có người lại trải ra những dòng chữ khiến người đọc phải trăn trở nhớ nhung.
Riêng chị Lợi thì như thế nào? Xin mời quí Thầy Cô và các bạn hãy bỏ chút thì giờ đón nhận lời mời để cùng chị trèo lên tầng hai của tháp Effel ngắm nhìn toàn bộ kinh đô ánh sáng Paris, nơi có ga Lyon đèn vàng, sau đó nhẹ bước xuống chuyến đò thả hồn xuôi theo dòng sông Seine tràn đầy thơ mộng. Hoặc nhàn hạ dạo chơi trong công viên rộng 32 hecta với hơn 4.5 triệu đóa hoa Tulip đủ loại đủ mầu ở Vương Quốc Hòa Lan rồi cùng nhau tìm một bàn xinh xắn ẩn mình dưới những khóm hoa ngạt ngào hương thơm trong khu vườn rộng nổi tiếng của quán BeerGarten ở Đức để cùng nâng ly thưởng thức một trong những thú uống bia ngoài trời của dân tộc này ...v…v
Còn nhiều… còn rất nhiều điều hay và lạ lùng đang chờ đón tất cả với sự xếp đặt khéo léo các mẫu tự lại với nhau qua bài viết sau đây của chị (Trang Nhà, Con Đại Thử)
CHÂU ÂU DU KÝ
Thời gian còn là công nhân viên nhà nước, tôi từng được cử đi tham quan học tập nhiều nơi như Thái Lan, Singapore, Mã Lai, Trung Quốc. Nói là học tập nước ngoài chứ sự thật chỉ là tham quan, du lịch. Trong khi các cán bộ cấp cao hơn thì đi Nga, đi Úc, đi Châu Âu, tôi biết tầm cỡ mình chỉ có vậy. Thế rồi tình cờ tôi cũng được duyên may xin được Visa đi Mỹ mà tôi đã kể cho các bạn nghe trong bài viết Một Chuyến Mỹ Du. Lẽ ra thì tôi đã rất mãn nguyện rồi. Nhưng thói đời “được voi thì đòi tiên”, tôi vẫn khát khao một chuyến du lịch Châu Âu. Mãi đến lúc về nghỉ hưu, bây giờ thì phải áp dụng quốc sách “nuôi quân 35 năm, dụng quân 1 ngày”. Tôi gom góp tiền lương, tiền thưởng, tiền để dành … đủ 1 vé đi “tua” qua 5 nước: Pháp- Bỉ- Hà Lan- Đức- Ý trong 14 ngày. Tôi đã chuẩn bị thật chu đáo cho chuyến đi mà tôi biết chắc chỉ có 1 lần trong đời.
Đặt chân đến lãnh sự quán Pháp để phỏng vấn cho việc xin visa với thái độ rất ung dung vì tôi tự an ủi rằng nếu bị từ chối thì mình sẽ dùng số tiền đó vào việc dưỡng già. Một tuần sau, công ty du lịch Vietravel là nơi tôi đăng ký cho chuyến đi đã gọi báo tin rằng visa đi Châu Âu được chấp nhận. Cũng vui, vậy là bắt đầu sắp xếp hành lý.
Một buổi chiều cuối tháng tư, phi trường Tân Sơn Nhất rực nắng tiễn đoàn chúng tôi lên đường đi Pháp. Thủ tục xuất cảnh rất nhanh, chuyến bay tạm dừng quá cảnh ở Singapore rồi làm một hơi hơn 10 tiếng đồng hồ thẳng đến Paris. Trong suốt chuyến bay người tôi cứ nửa mơ nửa tỉnh, ngoài các bữa ăn chính ra, thỉng thoảng giọng cô tiếp viên lại ngọt ngào bên tai:“coffee or tea, ma’am?”.
7 giờ sáng hôm sau máy bay đáp xuống phi trường Charles De Gaulle, thủ tục nhập cảnh cũng rất nhanh chóng. Vừa bước chân ra khỏi ngưỡng cửa phi trường thì đã thấy xe cùng hướng dẫn viên địa phương chờ sẵn nơi car-park từ bao giờ để đón và đưa đoàn chúng tôi đi tham quan ngay điểm đầu tiên: Tháp Effel. Tôi không lạ gì kỳ quan thế giới này vì đã nhiều lần thấy nó qua phim ảnh, sách báo, nhưng bây giờ, được đứng ngay dưới chân ngọn tháp thì tôi mới thấy rõ vẻ đồ sộ đến độ sững sờ của nó, đưa tay chạm nhẹ vào khối thép lành lạnh, tôi không khỏi bồi hồi xúc động: mình đang đứng giữa kinh đô của ánh sáng đây sao?. Chúng tôi xếp hàng để vào thang máy lên tầng 2 của tháp, đứng ở đây ngắm được toàn cảnh thành phố Paris, dòng sông Seine thơ mộng với rất nhiều chiếc cầu bắc ngang, cảnh quan thật ngọan mục.
Đến giờ ăn trưa, ê hề các món thịt heo, bò, gà, trừu nướng và rượu vang đỏ, chúng tôi nâng ly chúc mừng ngày đầu tiên trên xứ người. Ở châu Âu nước lọc đóng chai giá mắc ngang bằng rượu vang, nhưng nước máy từ mọi vòi nước đều đạt tiêu chuẩn vệ sinh có thể uống được và miễn phí. Ăn trưa xong, tiếp tục chuyến du thuyền trên sông Seine. Thật như trong mơ, thành phố Paris lướt qua trên mặt sông, tôi chợt nhớ tới con sông Sài Gòn với những chiếc du thuyền trên bến Bạch Đằng, bao giờ quê hương tôi mới theo kịp xứ người. Thuyền cặp bến mà tôi vẫn còn bồng bềnh như đang trên mặt nước. Lại tiếp tục lên xe tham quan kinh đô thời trang của thế giới, ngang qua nhà hát Garnier, quảng trường Concorde, đại lộ Champs Élysée, cổng Khải Hoàn Môn, những địa danh nổi tiếng và cuối cùng về đến khách sạn Novotel Paris Porte D’Italy là trời cũng vừa xụp tối.
Sáng sớm hôm sau thức dậy chào ngày mới với sức khỏe được phục hồi, tôi và người bạn đường thân thương đã sẵn sàng cho chương trình tham quan. Đầu tiên là ghé qua vườn Luxembourg, địa danh được nghe nhiều trong thi ca, tiếc là không có nhiều thời gian để ngồi trên ghế đá nhìn những chiếc lá vàng rơi (lá còn xanh), chúng tôi phải đến Viện bảo tàng Louvre cho kịp giờ. Thật đúng là đi tour, ngắm cảnh xem hoa thôi chứ có 2 giờ làm sao thưởng thức được các kiệt tác của những danh họa nổi tiếng. Dù vậy tôi cũng mãn nguyện được tận mắt thấy bản chính bức họa Nụ cười MonaLisa của Leonardo De Vinci, các bức tượng bằng đá cẩm thạch được điêu khắc thật sống động, các nếp áo của tượng trông mềm như lụa thật, bức tranh Napoleon tấn phong nàng Josephine làm hòang hậu với hàng trăm người hiện diện mà sau đó tôi được xem lại một bản sao bức tranh này trong cung điện Versaille, thật tuyệt vời nét cọ tài hoa của nhà danh họa.
Buổi chiều đoàn đến tham quan nhà thờ thánh tâm Sacre Coeur trên đồi Mont Martre, du khách đến đây rất đông. Người lớn tuổi thì vào nhà thờ cầu nguyện, thanh niên nam nữ thì ngồi nằm phơi nắng trên bãi cỏ, trên các bậc thềm, các họa sĩ đường phố vẽ thuê chân dung cho khách, không gian thật êm đềm. Ăn tối xong, tôi có cái hẹn với cô em người bạn thân theo chồng định cư ở Quận 14, họ đến đón chúng tôi về thăm căn hộ nhỏ trong một chung cư. Anh chồng người Pháp rất vui vẻ hiếu khách, họ mời chúng tôi uống bia và đưa chúng tôi đi một vòng ngắm nhìn cảnh Paris về đêm. Tháp Eiffel rực sáng ánh đèn thật hòanh tráng, khu phố Paris mới Arc de Défense với những tòa nhà cao tầng làm tôi nhớ New York. Tôi cảm thấy mình thật hạnh phúc khi gặp người thân quen nơi xứ lạ quê người. Chia tay chúng tôi hẹn gặp lại ở Sài Gòn.
Ngày thứ ba điểm đến là lâu đài Versaille cổ kính. Chúng tôi xếp hàng chờ đợi khá lâu mới vào được bên trong. Nơi ở ông Hoàng bà Chúa phương tây khác xa Tử Cấm Thành Bắc Kinh Trung Quốc, sang trọng, hiện đại hơn và một điều thú vị là họ có đủ các phòng ăn, phòng ngủ, phòng khách với những chum đèn pha lê lộng lẫy, sáng choang, những bức tranh tường, tranh trên vòm nhà hoành tráng, nhưng một du khách tò mò hỏi hướng dẫn viên phòng vệ sinh (WC) của vua ở đâu, chịu thua, ngày xưa quý tộc đi bô các bạn ạ.
Rời điện Versaille chúng tôi trở về trung tâm thành phố, trên đường về ghé thăm một nông trại chăn nuôi bò sữa, có 1 cửa hàng bày bán các sản phẩm thu họach từ nông trại, bên cạnh là một vườn trồng hoa tulip. Lần đầu tiên trong đời tôi được thấy nhiều hoa tulip đến vậy, những luống hoa dài ngút tầm mắt với đủ các sắc màu đỏ, vàng, cam, trắng, hồng, tím. Giá như ngày mai về lại Sài Gòn tôi sẽ mua một bó hoa thật to dành tặng bạn bè và người thân, rất tiếc chuyến đi còn dài. Buổi chiều khi chúng tôi đến viếng nhà thờ Đức Bà Paris, tôi hình dung cảnh thằng gù nhà thờ Đức Bà leo thoăn thoắt trên các mái vòm nhà thờ như trong truyện của Victor Hugo, tôi để ý thấy 1 bức tượng thánh tử đạo ôm cái đầu của mình bị cắt ra để lên đĩa. Sau này tôi mới nghe một người quen đạo công giáo giải thích đó là thánh Joan, bị hoàng hậu nước Pháp thù ghét xui công chúa xin cha chặt đầu ông. Thật quá ác độc. Người bạn đường của tôi đã từng công tác ở Pháp nên thông thạo mọi ngõ ngách, rủ tôi ra phía sau nhà thờ Đức Bà nơi có một vườn hoa tulip rất đẹp và chúng tôi chụp được mấy tấm ảnh sau lưng nhà thờ rất độc đáo.
Rời nước Pháp chúng tôi sang Bỉ, cuộc hành trình bằng xe buýt thật thú vị. Hai bên đường những cánh đồng trồng bông cải nở hoa vàng rực, xa xa thấp thoáng các trại chăn nuôi gia súc, cảnh đẹp thanh bình như trong tranh vẽ. Biên giới Pháp Bỉ không có rào chắn, cửa khẩu chỉ có một biểu tượng cao ngút bên vệ đường, thật thuận tiện cho giao thông. Chúng tôi đi ngang qua Viện nguyên tử Atominum, ngừng lại chụp vài “pô” mô hình cấu trúc nguyên tử khổng lồ, đường kính mỗi khối cầu là 18 mét, thật vĩ đại. Đến Bruxelle tham quan cung điện Hoàng Gia, quảng trường LaGrande, Mannekin Pis tượng chú bé đứng tè, biểu tượng của vương quốc Bỉ. Tôi thật thất vọng, tưởng là to lớn lắm nhưng chỉ là bức tượng đồng nhỏ xíu cao khỏang 50 cm đặt ở 1 góc phố. Nghe kể thời kỳ chiến tranh quân Đức bao vây Bruxelle chúng đặt khẩu pháo ở đây để bắn vào thành phố, nửa đêm có 1 chú bé vô tình đứng tè ngay trên họng pháo nên quân Đức không tấn công được. Để tưởng nhớ chiến công hi hữu này người ta đặt bức tượng cũng là biểu tượng cùa vương quốc.
Chúng tôi nhận phòng tại khách sạn La Maison Du Dragon, ăn tối xong bạn tôi có người bạn thân đang công tác ở Bỉ nên được anh ấy đưa đi 1 vòng thành phố bằng tàu điện ngầm thật thú vị. Anh ấy còn đưa chúng tôi tham quan Phố Đèn Đỏ, là phụ nữ mà đến những nơi này thật không hay ho gì nhưng chúng tôi cũng tò mò muốn đi cho biết. Nhìn ngắm các cô gái ăn mặc mát mẻ đứng sau các cửa kính trong các tư thế hở hang mời gọi, tôi thấy xót xa thương cảm cho họ, dù ở đất nước văn minh hiện đại, dù nghề nghiệp đó được công nhận và bảo vệ, nhưng thật phi nhân và tàn nhẫn quá. Lúc về chúng tôi rủ nhau vào quán uống bia. Bia tươi ở Bỉ thật ngon, Chocolat ở Bỉ cũng thật tuyệt, nhưng giá tiền thì cả bia và chocolat đều không tuyệt chút nào.
Hôm sau đoàn rời Bỉ để sang Hà Lan cũng bằng xe buýt. Chúng tôi đến thành phố cảng Rotterdam với những cây cầu thật ấn tượng, đến La Haye tham quan tòa án quốc tế, tòa nhà quốc hội, cung điện Hoàng gia. Vì không có thời gian nên chúng tôi chỉ lướt qua thật nhanh nhưng cũng kịp chụp được tấm ảnh ở tượng đài ngọn lửa hòa bình vĩnh cữu bên ngoài cổng Tòa án Quốc tế, nơi đặt các viên đá đại diện các nước trong đó có viên đá cẩm thạch trắng của Việt Nam.
Đoàn đến thành phố Amsterdam nhận phòng ở khách sạn Dorint Amsterdam Airport, một khách sạn mới rất tiện nghi hiện đại có hồ bơi trong nhà, có phòng tắm hơi, có mát xa. Lần đầu tiên tôi hưởng thụ trọn vẹn tiêu chuẩn một du khách VIP. Sáng hôm sau đoàn tham quan vườn hoa Keukenhof, nơi đang diễn ra lễ hội hoa tulip lớn nhất thế giới. Lần này thì tôi choáng ngợp thật sự. Trong mơ tôi cũng không thể tưởng tượng nổi có lúc mình được đứng giữa một khung cảnh đẹp như mộng như vườn địa đàng vậy. Ở đây họ sắp xếp trưng bày hoa theo từng chủ đề. Trong công viên rộng 32 hecta với hơn 4,5 triệu đóa hoa tulip đủ loại đủ màu, một con suối nhân tạo chảy quanh các khóm cây đổ vào cái hồ trung tâm nơi đó có các con thiên nga trắng muốt và các con vịt Nhật Bản xinh xắn ung dung bơi lội. Không bút mực nào diễn tả hết vẻ đẹp tuyệt vời của hoa viên này. Tôi tha hồ chụp ảnh, bạn tôi chắc cũng mệt vì phải chiều tôi, chỗ nào tôi cũng muốn chụp, khóm hoa nào, gốc cây nào tôi cũng dừng lại. Làm sao cho đủ, đời người chắc cũng chỉ được 1 lần đến đây. Ước gì được thong thả dạo chơi cả ngày, thời gian thật khắc ngiệt, những lúc như vậy lại trôi qua quá nhanh.
Đã đến lúc phải ra xe, tôi thật đi không nỡ mà cũng đành phải đi. Còn 1 điểm đến cũng không kém phần thú vị đang chờ. Đó là khu đồng quê Zaanse Schaus, nơi còn giữ lại những chiếc cối xay gió truyền thống, cũng là 1 biểu tượng của đất nước Hà Lan. Bên bờ lau sậy, mặt nước sông dâng lên mấp mé đường đi, những chiếc cối xay gió vươn lên sừng sững thật giống những cánh tay của con quái vật khổng lồ mà chàng Don Quixote từng chiến đấu. Khung cảnh làng quê thật yên ả hữu tình, chúng tôi ghé xem xưởng làm guốc gổ cũng là một nét truyền thống của người Hà Lan. Chỉ có một chỗ tôi không muốn vào xem mà cũng phải vào đó là Trung tâm Thương Mại Kim Cương. Tôi thật không hứng thú lãnh vực này nhưng đã đến thì cũng xem cho biết. Người Hà Lan có nếp sinh hoạt độc đáo là sử dụng xe đạp làm phương tiện di chuyển trong thành phố, có những lằn đường dành riêng ưu tiên cho xe đạp. Ở đây ra đường chúng ta không sợ đụng xe hơi mà chỉ sợ xe đạp đụng. Tôi đã không tin vào mắt mình khi nhìn thấy bãi giữ xe đạp công cộng hàng ngàn chiếc xếp thứ tự thẳng tắp. Những chỗ cho thuê xe đạp không cần người quản lý …
Buổi chiều đoàn chúng tôi lên du thuyền đi dọc theo sông Amstel, len lỏi giữa khu phố cổ có những ngôi nhà được xây cất từ hơn trăm năm, cuộc sống thật yên bình. Rời đất nước Hà Lan xinh đẹp tôi thật lưu luyến, đất nước có địa hình thấp hơn mực nước biển mà không thấy hiện tượng ngập nước. Còn Sài Gòn chúng ta biết bao giờ mới được bằng người, thương ôi.
Từ Hà Lan sang Đức chúng tôi đi máy bay khoảng gần 2 giờ. Nước Đức đúng là tấm gương thực hiện nếp sống văn minh hiện đại về trật tự vệ sinh đường phố. Thành phố Munich như vừa được lau chùi hút bụi xong, một bồn hoa ở góc phố cũng tươi đẹp như ở cửa hàng hoa. Cung điện Nymphenbourg chỉ được ngắm từ bên ngoài nhưng cũng đủ thỏa mãn du khách với lối kiến trúc độc đáo phối hợp hài hòa hồ nước và bãi cỏ xung quanh. Thú vị nữa là đến tham quan hãng xe BMW, chúng tôi có thể lên ngồi thử bất cứ chiếc xe mẫu nào, thật cứ như là một đại gia. Chiều tối đoàn được đến tham quan xưởng bia Hofbrauhau, nơi sản xuất ra loại bia nổi tiếng trên thế giới và sau đó chúng tôi vào quán BeerGarten. Người ta thường nói:“Đến Munich mà không uống bia ở quán BeerGarten thì chưa phải là đến Munich”. Tại sao vậy? Xin thưa là vì quán BeerGarten có nguyên một cái vườn cây xanh mát rất rộng, bàn ghế xinh xắn ẩn mình dưới những khóm hoa muôn màu sắc và ngạt ngào hương thơm, khiến cho khách đến hưởng được cái thú vui ngồi uống bia ngoài trời, vừa thưởng thức vị bia vừa thưởng thức vị hoa ngây ngất, vì thế lúc nào quán cũng rất đông và nhộn nhịp.
Ăn uống xong chúng tôi về khách sạn Holiday Inn Munich nghỉ ngơi để hôm sau đi chuyến bay sớm đến Milan.
Chỉ 1 giờ bay nhưng loay hoay thủ tục ở phi trường mất gần hết buổi sáng. Đến Milan chỉ kịp tham quan nhà thờ Duomo, nhà hát Scala và khu phố thời trang Emanuell rồi về nhận phòng khách sạn nghỉ ngơi. Hôm sau khởi hành đi Venice với một đọan bằng tàu thủy. Thật là một kỳ quan tuyệt vời, thành phố nổi trên biển với kiến trúc độc đáo, có nhiều chiếc cầu nhỏ xinh xinh bắt qua những con sông hẹp, chúng tôi thuê thuyền độc mộc Gondola len lỏi qua các khu phố cổ, anh lái thuyền người Ý cao to phải cúi rạp người mỗi khi thuyền đi qua các vòm cầu cong cong nhỏ xíu, tôi và chị bạn muốn đổi chỗ cho nhau để chụp hình nhưng anh lái thuyền nhất định không cho vì sợ thuyền chòng chành bị lật. Lên bờ chúng tôi tham quan quảng trường và nhà thờ thánh Marco mà biểu tượng là con sư tử có cánh. Nơi đây có rất nhiều chim bồ câu dạn dĩ sẵn sàng mổ lấy mẩu bánh vụn trong tay chúng ta. Chúng tôi tham quan xưởng thủy tinh, tôi thật thán phục các nghệ nhân chế tạo thủ công các món đồ thủy tinh tinh xảo. Rời Venice trở về đất liền tôi vẫn còn vương vấn chiếc cầu than thở, con thuyền độc mộc, những chú chim bồ câu …
Hôm sau đoàn khởi hành đi Rome, ghé qua thành phố Pisa tham quan tháp nghiêng, lại một kỳ quan nữa của thế giới. Thật đáng khâm phục công trình nghiên cứu và gìn giữ kiến trúc đồ sộ như vậy bị nghiêng lún hàng trăm năm qua vẫn không sụp đổ, bạn tôi nói nếu tháp Pisa không nghiêng thì đã không nổi tiếng. Còn ở Việt Nam mình cũng có nhiều công trình nghiêng lún sao không thấy nổi tiếng vậy nhĩ?
Xe đưa đoàn đến Rome thì trời đã tối, đèn đường mờ mờ trông thành phố càng cũ kỹ, tôi hơi thất vọng. Rome huyền thọai đây sao? Nhận phòng ở khách sạn Euro Star Rome Congress .
Sáng hôm sau điểm đến đầu tiên là Vatican. Trái ngược với ấn tượng đêm qua. Đây mới đúng là Rome trong mơ của tôi. Một quảng trường rộng lớn với những hàng cột đá uy nghi, hàng đoàn người xếp hàng dài ngoằn ngoèo chờ đến lượt vào tham quan tòa thánh địa của người Công Giáo. Đầu tiên chúng tôi được hướng dẫn xuống viếng khu lăng mộ 16 đời đức Giáo Hoàng, thật cổ kính trang nghiêm. Không phải là người công giáo mà đến đây tôi cũng bồi hồi xúc động với lòng thành kính tôi cầu nguyện. Đi qua khu lăng mộ tôi sững sốt khi bước vào trung tâm vòm điện Vatican, có rất nhiều tranh, tượng thánh, bệ thờ, người đến viếng rất đông nhưng không ai chen lấn, tất cả đều trật tự, đến phút cuối bạn tôi mới điều chỉnh được máy ảnh chụp chế độ trong tối, và tôi may mắn có được những tấm ảnh mà có lẽ nhiều người rất mong được chụp.
Rời tòa thánh Vatican chúng tôi đến Đấu trường La Mã, biểu tượng của thành Rome, kiến trúc này không còn nguyên vẹn nhưng vẫn giữ được hào khí một thời. Đứng ở đây ta nghe như vẵng tiếng reo hò của hàng ngàn khán giả cuồng nhiệt cổ vũ các trận đấu sinh tử giữa người và người và người với mãnh thú, ta nghe như tiếng hổ gầm, tiếng đao kiếm va chạm. Trải qua cả ngàn năm, tường thành sụp đổ nhiều nơi nhưng câu danh ngôn bất hủ “đường nào cũng về đến La Mã” minh chứng cho sự trường tồn và câu triết lý “cái gì của César hãy trả lại cho César” ai cũng còn nhớ.
Buổi chiều đoàn tham quan điện Patheon, tận mắt nhìn thấy ngôi đền thờ có trước Thiên Chúa với những hàng cột đá nguyên khối hùng vĩ mà hàng ngàn năm trước con người đã dùng sức mình xây nên nơi thờ cúng thượng đế. Đến xem giếng phun Trévi. Đặc biệt là đài phun nước Piazza Di Spagna nơi người ta tin rằng khi cầu ước điều gì ném một đồng xu xuống hồ sẽ được tọai nguyện. Buổi chiều cuối cùng trên đất nước Italia trời thật lạnh, tôi rút trong túi áo khoác ra 1 đồng 50 xu Euro. Tôi thầm ước cho người thân, bạn bè của tôi tất cả đều được an bình và hạnh phúc, rồi tôi xoay lưng ném đồng 50 xu đó qua vai rơi thẳng xuống hồ nước.
Bùi Thị Lợi
Sài Gòn tháng 6 năm 2009
Chủ Nhật tuần trước Hằng gọi điện thoại cho tôi giọng rất vui: Chị ơi, H.Huệ nhờ em mời chị Chủ Nhật tuần sau 10-7 ăn trưa ở quán ăn Ngon lúc 11 giờ. Tôi hỏi ngay: Chuyện gì? Hằng nói Huệ không cho biết lý do cứ đến rồi sẽ biết. Tôi quá quen cái tính úp úp mở mở của Huệ chuyên dành cho bạn bè những bất ngờ đầy ngạc nhiên thú vị nên cũng không thèm thắc mắc làm gì.
Mấy ngày sau tình cờ gặp PĐLong, tôi hỏi: Long có biết Huệ mời chị em mình dự tiệc gì không? Long cũng ngập ngừng dè dặt đoán mò: Chắc là Huệ từ giã bạn bè đi định cư đó chị. Tôi nghe qua thoáng buồn vì nghĩ rằng mình sắp xa một người bạn nữa, nhưng cũng vội vui mừng ngay với ý nghĩ có thể bạn mình sẽ có một cuộc sống mới hạnh phúc hơn… Thế rồi ngày qua ngày, cuối tuần tôi có việc nhà phải về quê ở Biên Hòa, nhớ đến lời mời của Huệ tôi cũng có ý lười không muốn tham dự, nhưng lại nghĩ biết đâu bạn mình sắp đi xa thật thì biết bao giờ mới gặp lại. Thôi thì...
Sáng Chủ Nhật tôi phải chạy xe Honda từ Biên Hòa xuống Saigon thật sớm để kịp giờ...
Đến nơi tóc tai phờ phạc, áo quần còn vương bụi đường tôi chỉ kịp ném vội cái balô vào nhà rồi đi thẳng ra quán. Từ lúc quán Ngon khai trương quán mới xây dựng lại đây là lần đầu tiên tôi đến nên hơi lạ lẫm, vừa ngừng xe tôi thấy anh Nguyễn Hữu Minh đứng trước cửa, tôi yên tâm vì mình không đến quá trể nhưng cũng hơi ngạc nhiên vì mời cả anh Minh ở Vĩnh Long lên thì chắc là chuyện không nhỏ. Tôi cho xe vào gởi ở tầng hầm rồi đi thang máy lên, đúng là quán mới hiện đại thật, tôi gặp Thoại ở cửa nhưng không nhìn thấy các bạn ngồi đâu, quán rộng quá, tôi lại gọi cho Hằng, Hằng ra đón, tôi chưa kịp ngắm nhìn khung cảnh bày trí của quán, chỉ thấy mới lạ, khang trang hơn xưa nhiều.
Hôm nay Chủ Nhật quán rất đông khách nhưng bàn ghế sắp xếp rất ngăn nắp, từng khu vực riêng dành cho khách rất lịch sự, từ xa tôi đã nhận ra hình ảnh rất đổi thân quen: một dãy bàn nối tiếp nhau thật dài, hai hàng ghế kín chổ ngồi, tiếng nói cười rộn rã…đúng là không khí NLS, tôi nhận ra Thầy Châu Kim Lang và đến chào trước tiên, kế đến là anh Nguyễn Văn Phước dạy Công Thôn, và hai anh Lai Minh và Hữu Minh dạy Mục Súc ngồi ở vị trí đầu bàn trang trọng, tiếp theo là các bạn khóa 70-73. Thủy Lâm có: PĐLong, DXTriều, NVThoaị, NVDũng. Mục Súc có: TQTâm, LVThạch, NĐTrọng, TTTuyết, NTVân, LNHạnh, LTLiên, HTKHuệ, BTHGấm, NTKLoan, TTĐạt, NCBình. Canh Nông có: NVHùng, NTThủy,PTHằng, NVBình, Công thôn có: LKKhôi, TAThái. Chỉ có Thuấn và tôi là học khác thôi. Thuấn đã dành cho tôi ghế ngồi giửa Thuấn và Thầy CKLang.
Vừa an vị tôi thấy một người tiến tới chào hỏi bắt tay và gọi tôi bằng Chị, nhìn dáng người thấp, mái tóc bạc muối tiêu, ánh mắt hóm hỉnh, môi cười rất tươi, đặc biệt cái mũi to phúc hậu mà theo tướng số là Quí Nhân…Thật tình tôi không nhớ là ai, nhưng nghe chào gọi tôi là chị tôi biết là học sau tôi nên tôi mạnh dạn hỏi: Em học lớp nào? – Dạ, Lớp Công Thôn. Tôi chưa kịp hỏi tiếp thì Hằng đã níu tay tôi nói nhỏ: Nguyễn Mai Sơn đó chị, tôi nghe tên nầy rất quen, nhất là sau khi hoàn thành tập Kỹ Yếu tôi nhớ nhiều tên bạn bè lắm. Rất tự tin tôi hỏi tiếp: Sao lâu nay không thấy Em tham dự các buổi họp mặt NLS? Sơn cười cười không trã lời, bấy giờ Lê Kỳ Khôi đứng kế bên mới lên tiếng: Chị ơi đây là NMSơn là Linh Mục ở TaiWan mới về và là người chiêu đãi Thầy Trò mình hôm nay đó. Tôi giật mình, thôi chết rồi, vậy là mình hố một vố quá nặng rồi. Mình đã dám xưng Chị và gọi Linh Mục là Em. Tôi thầm trách Huệ đã đưa tôi vào tình huống khó xử nầy. Tôi vội vàng xin lỗi, Mai Sơn cười hiền hòa nói: không sao, chị cứ tự nhiên. Tôi hết sức bối rối không biết xưng hô thế nào cho hợp lý. Tôi đạo Phật nên không quen gọi Cha xưng Con, tôi đành cười chữa thẹn và lắng nghe bạn bè cùng lớp nói chuyện với Mai Sơn, có đứa gọi tên Sơn, có đứa gọi là Cha, có đứa tôi nghe gọi là Mầy…
Tôi chợt nhớ có lần người em trai của anh Phan Đình Thọ CN69 được thụ phong Linh Mục ở Đức về VN thăm gia đình mở tiệc chiêu đãi bà con bạn bè, tôi hân hạnh được mời, vị linh mục trẻ không mặc lễ phục trông như một người thanh niên bình thường đã chuyện trò rất vui, người nói: khi về với gia đình thì Linh Mục có thể được xưng hô như người bình thường. Dù vậy tôi vẫn còn thấy e ngại nên không dám chuyện trò với Mai Sơn, bây giờ thì tôi đã biết lý do buổi họp mặt hôm nay.
Thầy CKLang cũng bị bất ngờ như tôi, Thầy nói Huệ gọi điện mời Thầy cũng bí mật không nói lý do nên Thầy đến dự với y phục chỉnh tề có cả cravatte rất lịch sự vì sợ nhở gặp sự kiện quan trọng. Thầy cũng không biết nhiều về Mai Sơn nên hỏi tôi. Thầy hỏi tôi thì tôi hỏi ai bây giò?? Tôi quay sang hỏi Hằng và Thủy nhưng hai bạn cũng không rõ lắm. Tò mò, tôi đánh liều đến hỏi thẳng MaiSơn. Tôi xin phép trước được gọi Cha bằng tên Mai Sơn, Cha vui vẻ đồng ý và nói một chút về mình: Mai Sơn quê quán ở Lộc Sơn Bảo Lộc, vào NLS từ năm Đệ Ngũ, lên Dệ Tam chọn bang Công Thôn niên khóa 73, tốt nghiệp TúTài 2 NLS Mai Sơn lên DaLat thi vào học trường nhà Dòng. Sau năm 75 Mai Sơn định cư ở Mỹ và tiếp tục học trong trường nhà Dòng ở Mỹ sau đó chuyển sang học ở Taiwan và được thụ phong Linh Mục tại đây.
Tôi thắc mắc hỏi vậy cha giảng đạo bằng tiếng gì? Cha nói: Tiếng Quan Thoại và tiếng Quảng Đông, có bạn nói Cha thông thạo 6 thứ tiếng, tôi chợt nhớ hôm đi Cà Mau các bạn đã nhắc nhiều đến người bạn cùng lớp giờ đã là Linh Mục, bây giờ thì tôi thấy tên Mai Sơn thật quen, Mai Sơn tặng cho mỗi người 1 tấm ảnh của mình mặc áo trắng và đội nón lá kiểu Trung Quốc có kèm theo địa chỉ: 28-1 Wenhoa Rd Minhsiung Chayl Country (621) Taiwan ROC TL: 886 933478309. Gia đình Mai Sơn vẫn còn người thân ở Bảo Lộc nên thỉnh thoảng Cha về thăm nhưng đây là lần đầu tiên sau gần 40 năm Cha mới có dịp gặp lại bạn bè.
Đối với Đạo Cha là một Linh Mục trọn vẹn đức tin, đối với Đời Mai Sơn là người bạn trọng nghĩa thân tình. Vì vậy mà hôm nay đón mừng Cha Nguyễn Mai Sơn có đông đủ bạn bè xa gần từ trên Bảo Lộc có Vân, Liên, Đạt... Ở ngoài Vũng Tàu có Trọng, Hùng, Thạch… Đồng Nai có Khôi... Vĩnh Long có hai Thầy Lai Minh và Hữu Minh…Thậm chí Thanh ở tận Cà Mau cũng vác nguyên bao bắp trái hái ở ruộng nhà, lên đến Gò Công từ chiều hôm qua ngủ lại, sáng nay dậy sớm luộc bắp chín rồi chở lên Saigon cho kịp mời Thầy và bạn bè khi trái bắp hãy còn hơi nóng. Hương vị ngọt ngào của đặc sản Cà Mau từ lần cả nhóm bạn về thăm Đất Mũi đến nay vẩn còn nồng ấm và hôm nay lại tiếp tục lan tỏa.
Một lần nữa tôi xin được tuyên dương tinh thần đoàn kết thân ái của các bạn khóa 70-73. Và hy vọng tinh thần bất diệt nầy sẽ lan rộng mãi trong vòng tay lớn của tình bạn Nông Lâm Súc Bảo Lộc.
Viết xong đêm 10 tháng 7 năm 2011
Bùi Thị Lợi
Linh Mục Nguyễn Mai Sơn
Ai trong chúng ta chắc cũng đã nhiều lần được nghe và nhìn thấy những hình ảnh về vùng đất tận cùng của Tổ quốc. Thế nhưng chắc cũng không có mấy người được có cơ hội đặt chân đến cột mốc tọa độ Quốc gia GPS 0001. Nơi điểm cuối cùng của hình cong chữ S trên bản đồ địa lý Việt Nam. Ấy vậy mà hôm nay nhóm bạn NLS Bảo Lộc Niên Khóa 70-73 đã cùng nhau thực hiện chuyến đi về thăm vùng Đất Mũi Cà Mau 3 ngày thật vô cùng thú vị.
Cơ duyên bắt đầu từ chuyến đi Vũng Tàu của nhóm vào tháng 9 năm 2010. Lần đó Lê văn Thạch tặng cho mỗi bạn 1 tờ vé số, may mắn được trúng 400.000đ mỗi vé, ai nấy vui mừng hẹn nhau để dành tiền đi Cà Mau vì nghe Phan Trung Thanh sắp cưới vợ cho con trai ở “miệt dưới”. Đến đầu tháng 12 năm 2010 trong buổi tiệc mừng Trần Đại Hữu (MS 70-73) về thăm quê hương, Thanh Lùn chính thức mời bạn bè về Cà Mau dự đám cưới con trai mình vào cuối tháng 4/2011.
Thế là chương trình đi ăn cưới kết hợp tham quan du lịch vùng Đất mũi được lớp trưởng Quang Charlot soạn thảo và thông báo rộng rãi đến tất cả bạn bè cùng khóa. Mọi người náo nức muốn tham gia nhưng vì nhiều lý do riêng cuối cùng danh sách đăng ký đi chỉ còn lại 15 bạn và 3 vị khách mời là Thầy Lai Minh và Thầy Nguyển Hữu Minh và vợ là cô Ni Na.
Chúng tôi thuê xe 15 chỗ ngồi vì vợ chồng Văn Công Bông đi Máy bay xuống Cà Mau rồi mới nhập chung với đoàn vì lý do đường xa không thuận tiện cho sức khỏe của VCBông. Điểm hẹn xe đón đầu tiên là góc đường Phan Đăng Lưu-Nuyễn Văn Đậu, tôi cẩn thận đến sớm nhưng vẫn thấy đã có mặt Hằng, Vân ,Liên, Yến, rồi Bình, Long ,Hà Huệ. Hơn 9 giờ tối xe đến, trên xe đã có Quang, mọi người tay bắt mặt mừng chuyện trò râm ran không để ý gì đến chuyện xe chạy vòng vèo qua những con đường TP về đêm đông đúc xe cộ. Xe vào Chợ lớn đón Hạnh, Trung và Tâm rồi trực chỉ ra Xa lộ Đông Tây. Buổi tối những con đường TP rực rỡ ánh đèn, chẳng mấy chốc xe đã vào đường cao tốc Saigon - Trung Lương, con đường hiện đại nhất Sàigòn hiện nay. Nhờ con đường nầy chúng ta rút ngắn thời gian đi từ Saigon xuống Mỹ Tho thật thuận tiện. Xe đến Bến Tre, mọi người tạm dừng câu chuyện vui đùa trêu ghẹo nhau để chiêm ngưỡng vẻ đẹp về đêm của cây cầu mới xây dựng ở Xứ Dừa: Cầu Rạch Miểu. Bây giờ đã hơn 12 giờ khuya, đường quốc lộ vắng tanh, thỉnh thoảng mới thấy vài chiếc xe Honda vội vã vụt qua. Hai bên đường những bụi dừa nước mập mờ ẩn hiện dưới ánh đèn xe. Nếu đi một mình lúc nầy chắc là tôi sợ hãi lắm hoặc giả tôi cũng đã nhắm mắt ngủ gục trên xe chứ không thể ung dung nhàn nhã ngồi nghe những câu pha trò dí dỏm của các bạn.
Trên chuyến xe nầy tôi là người khách đặc biệt vì tất cả các bạn đều học cùng khóa chỉ riêng tôi học trước 2 khóa, thế nhưng tôi không hề có cảm giác lạc lỏng xa lạ vì từ lâu tôi đã quá thân quen với tất cả các bạn. Nhiều bạn là những đứa em tinh thần trong phong trào Hướng Đạo với tôi thời đó. Tôi hết lòng thương mến các bạn và các bạn cũng rất yêu quí tôi. Nhìn các bạn hồn nhiên vui đùa tôi chạnh lòng nhớ các bạn cùng khóa 68-71 của tôi. Những năm trước chúng tôi cũng thường tổ chức những cuộc họp mặt nhóm và những chuyến đi chơi cùng nhau rất vui, nhưng thời gian gần đây nhiều bạn trong khóa đi định cư, những bạn ở lại như buồn, như mệt mỏi cũng thưa dần những cuộc rong chơi. Các bạn ơi hãy nhìn lại xem quỹ thời gian của chúng ta không còn bao nhiêu nữa đâu, hãy tìm lại nhau, tìm lại những kỷ niệm một thời chúng ta từng tự hào đã có, những kỷ niệm tuyệt vời của tình bạn NLS BaoLoc.
Xe đến Trà Vinh khoảng 1 giờ sáng, ngừng đón Thầy Cô Hữu Minh và Lai Minh xong cuộc hành trình tiếp tục. Thời gian không còn ý nghĩa gì nữa, chuyến xe đêm rộn rã tiếng cười vui, đã quá nửa đêm về sáng nhưng không ai buồn ngủ. Cô Ni Na nhanh chóng hòa vào không khí vui nhộn của các bạn, hình như cô đã quá quen với những đứa học trò nghịch ngợm của chồng. Tôi nhớ ngày xưa Thầy Hữu Minh đã rất nhiệt tình dẫn dắt phong trào Du Ca ở trường, bây giờ sức khỏe của Thầy có hơi yếu nhưng Thầy vẫn còn hóm hỉnh và chân tình lắm. Còn Thầy Lai Minh thì khiêm nhường ít nói nhưng cũng góp phần không nhỏ vào câu chuyện trêu đùa của các bạn.
Xe đi qua cầu Cần Thơ, cây cầu huyết mạch của giao thông vùng đồng bằng sông Cửu Long, trước kia ở đây là một bến phà rộng lớn, xe cộ thường bị ùn tắc. Tôi có một kỷ niệm nhớ đời ở đây xin kể cho các bạn nghe. Hồi đó vào khoảng 30 năm về trước tôi nghe theo lời người ta dẫn đứa con gái 4 tuổi đi xuống Cà Mau tìm đường “cứu nước”. Khi đến bến phà Cần Thơ trời cũng chập choạng tối, người ta chỉ cho trẻ con và người già ngồi trên xe qua phà còn lại phải xuống đi bộ. Tôi theo đoàn người đi bộ qua phà trước còn xe sắp hàng chờ chưa tới lượt thì có lệnh hết giờ hoạt động của phà, lúc đó tôi đã qua bên kia bờ mà con tôi thì còn ngồi trên xe ở bờ bên nầy. Tôi hốt hoảng thuê ghe chèo tay ngược trở qua, nửa chừng thì có chuyến xe cứu thương cần qua phà nên họ cho xe đò theo qua, vì vậy tôi lên bờ bên nầy thì xe đưa con tôi lại qua bờ bên kia, thế là một lần nữa tôi lại xuống ghe trở lại, đêm tối bến sông lộng gió. Chiếc ghe nhỏ chòng chành giữa những ngọn sóng tôi cứ tưởng mình bỏ mạng trên dòng sông Hậu để lại đứa con gái nhỏ bơ vơ…thế nhưng Trời thương, lần đó tôi thoát, nhưng chuyến đi thì không thoát nhờ vậy bây giờ tôi mới ngồi đây kể chuyện cho các bạn nghe…
Chúng tôi đến Tp Cà Mau đúng 6 giờ 30 sáng. Ghé quán café ăn sáng và nghỉ ngơi một chút. Vợ chồng VCBông cũng vừa xuống tới, thấy sức khỏe của VCBông hồi phục chúng tôi rất vui. Cô hướng dẫn viên du lịch của Cty Du Lịch Đất Mũi đón chúng tôi đưa ra bến tàu khởi hành đi Mũi Cà Mau. Mặc dù ngồi suốt đêm trên xe hầu như thức trắng nhưng không ai lộ vẻ mệt mỏi. Đoàn có thêm con gái và em gái của Thanh Lùn tổng cộng đúng 20 người vừa đủ chỗ một chuyến Canô. 8 giờ sáng tàu khởi hành từ TP Cà Mau theo dòng sông Bảy Háp qua các địa danh Tắc Cò, Năm Căn, Giá Ngự. Quang cảnh hai bên bờ sông thật lạ lẫm và hấp dẩn chúng tôi, những ngôi nhà mấp mé nước, phương tiện di chuyển duy nhất ở đây là ghe thuyền. Mỗi lần có một chiếc thuyền đi ngược lại, sóng nước dạt vào canô gây nên những chấn động giống như chúng ta đi xe trên đường gặp ổ gà vậy. Chúng tôi giành nhau ra mũi canô ngồi ở vị trí chụp ảnh đẹp nhất; Nguyễn Thành Trung tha hồ bấm máy, nhân dịp nầy giống như Trung đi săn ảnh vậy, thật vui.
11giờ đoàn đến khu du lịch sinh thái mũi Cà Mau. Chúng tôi lên bờ tham quan hệ sinh thái rừng ngập mặn thuộc vườn Quốc Gia Mũi Cà Mau. Tôi thấy cũng giống như Cần Giờ nhưng biển ở đây sạch hơn, đẹp hơn. Đặc biệt là Panô biểu tượng Mũi Cà Mau hình một chiếc thuyền buồm dược dựng lên đúng ngay nơi cột mốc tọa độ Quốc Gia – GPS 0001. Đứng ở đây tôi cảm thấy như có một điều gì đó làm lòng mình xao xuyến, dù sao được đặt chân lên điểm tận cùng của Tổ quốc cũng là một vinh hạnh, đáng để tự hào…
Nghe nói trước đây hàng năm mũi Cà Mau được phù sa bồi lấn từ 80-100m. Nhưng theo thông tin mới gần đây Mũi Cà Mau có nguy cơ… biến mất do xâm thực từ biển, với nơi sâu nhất vào khoảng 1km. Đây cũng được gọi là khu dự trữ sinh quyển thế giới. Thế nhưng rất tiếc chưa được khai thác đúng tầm mức, khu du lịch vẫn còn thiếu nhiều tiện nghi, có lẽ vì vậy mà du khách đến đây không nhiều. Ngoài cái chòi cao khoảng 20 mét được gọi là Vọng Hải Đài và cái nhà hàng Thủy Tạ mà thức ăn không có món nào hấp dẫn thì Mũi Cà Mau chỉ là một vùng trời nước mênh mông nắng gió…Chúng tôi ăn trưa, chụp ảnh, nghỉ ngơi đến 2 giờ thì lên Canô về lại Cà Mau. Chuyến về hình như canô chạy nhanh hơn, mọi người cũng lộ vẻ mệt mỏi vì nắng gió và nóng. Sau chuyến đi bộ vòng quanh vùng đất mũi ao ước được khám phá đã toại nguyện, chúng tôi đều mong mau về bến. Xe du lịch đã đợi sẵn, đưa chúng tôi đi thêm khoảng mấy chục cây số nữa mới vào đến huyện Trần Văn Thời. Tại đây một lần nữa lại xuống xe để đi xuồng vì không có đường lộ cho xe hơi. Nhà Thanh Lùn cho xuồng máy ra đón chúng tôi. Vì xuồng nhỏ chỉ chở được 5-6 người nên chúng tôi phải đi nhiều chuyến, chuyến đầu trót lọt, đến chuyến thứ hai có một sự cố là Liên và Vân hơi lúng túng khi lên bến nên xuồng lật cũng may là chỉ bị ướt quần áo chút xíu nhưng cũng khiến hai bạn giật mình.
Gia đình Thanh đón tiếp đoàn thật niềm nở, một nồi bắp luộc được đem ra chiêu đãi, chưa bao giờ tôi được ăn một trái bắp ngọt và ngon như vậy. Bắp nhà Thanh trồng mới hái mà, có bạn ăn 2, 3 trái mà vẫn còn thèm…nhưng phải dành bụng cho bữa cơm chiều, nghe nói Thanh mới tát ao bắt cá lóc nướng để đãi bạn. Tôi nhìn Thanh mộc mạc chân thành giữa nhóm bạn bè thành phố, tôi thật sự xúc động vì tình bạn cao đẹp đã giúp chúng tôi vượt hàng trăm cây số để về đây chia vui cùng nhau. NLS Bảo Lộc là vậy đó!
Thanh quê quán ở Bảo Lộc, chưa học xong lớp 12 thì bị động viên. Anh đi lính đóng quân ở Cà Mau. Sau 75 đi học tập rồi cưới vợ và chọn quê vợ làm quê mình. Lần nầy cưới vợ cho con trai đầu lòng được Thầy Cô và bạn bè không ngại đường xa về tham dự hẳn là Thanh hạnh phúc lắm. Đêm đó Thanh cứ đi tới đi lui chuẩn bị chỗ ngủ cho mọi người. Cà Mau bây giờ cũng không còn nhiều muỗi như câu ca dao tục ngữ: Muỗi kêu như sáo thổi - Đỉa lội tựa bánh canh. Nhà Thanh ở trong vùng sâu hẻo lánh nhưng có điện nên cũng thoải mái. Đêm đó tôi mệt mỏi ngủ thiếp đi trong tiếng nhạc ồn ào của ban nhạc tiệc cưới. Nghe nói có nhiều bạn còn thức khuya ca hát và cả nhảy nhót nữa, thật tiếc cho tôi…
Sáng hôm sau chúng tôi dậy thật sớm vì 6 giờ nhà Thanh đã chuẩn bị đi đón dâu bằng xuồng máy. Chúng tôi ở nhà chỉnh đốn y phục, nhóm con trai thì đơn giản nhưng các bạn gái cũng điệu một chút, cũng trang điểm, cũng đầm đìa…Tranh thủ đám rước dâu chưa về chúng tôi tha hồ chụp ảnh, mặc dù ai cũng có máy riêng nhưng vẫn muốn nhờ Nguyễn Thành Trung chụp hình vì Trung có máy ảnh nhà nghề chụp ảnh đẹp hơn nhiều.
Hơn 8 giờ sáng đám rước dâu về tới, tiệc cưới diễn ra, thủ tục ra mắt hai họ thật đơn giản. Khách khứa cũng có mặt đông đủ và nhập tiệc ngay dù chỉ mới 9 giờ sáng. Chúng tôi cũng vậy, bữa ăn sáng cũng là bữa tiệc cưới thật vui vẻ, cũng có ban nhạc sống phục vụ và chúng tội cũng tham gia văn nghệ hết sức nhiệt tình. Mở đầu là Thầy Hữu Minh, rồi cô Ni Na, rồi Long Khều, và Liên nữa…bà con hai họ nhìn bạn bè của đàn trai một cách ngưỡng mộ, chắc là gia đình Thanh cũng hạnh phúc lắm.
Nhưng chúng tôi phải kết thúc chương trình ca hát để thực hiện chuyến tham quan Hòn Đá Bạc mà Thanh Lùn đã chuẩn bị sẵn để chiêu đãi chúng tôi. Thanh đã thuê một chiếc xuồng máy lớn chở được 20 người để đưa cả đoàn đi. Từ nhà Thanh đi theo đường sông xuôi dòng Kinh Hòn khoảng 30 km. Chúng tôi phải đi khoảng 2 giờ phơi người giữa trưa nắng gắt trên chiếc xuồng không có mui vậy mà tiếng nói cười vẫn khuấy động cả một khúc sông, nào là chuyện ai mặt mâm, ai mặt thớt và ai mặt như cái mền..hi..hi.. Rồi chuyện ai cứng ai mềm…Thật không còn chuyện gì mà các bạn không dám nói đùa…
Xuồng cặp bến, chúng tôi phải đi bộ thêm vài cây số nữa mới đến Hòn Đá Bạc, nghe Thanh nói ở đây mấy chục năm nhưng đây là lần đầu tiên Thanh đến đây. Đây là khu du lịch mới khai thác. Hạ tầng cơ sở tương đối qui mô, với địa hình eo biển có bãi đá được thiên nhiên ưu đải sắp xếp thành những hình tượng lạ mắt. Một con đường dẫn ra cây cầu bắt ngang eo biển nhỏ, hai bên là bải bùn phù sa bồi đắp, gặp nắng hạn khô nứt nẻ tạo thành những nét họa tiết rất lạ. Nguyễn Thành Trung nổi máu nghệ sĩ kêu Nguyễn Thị Vân bước xuống bãi bùn để chụp những bức ảnh nghệ thuật, nhưng Vân không lường được đất bùn chưa khô vì vậy bạn bị lún, và những tấm ảnh nghệ thuật được chụp với đề tài thật bất ngờ vui nhộn. Và chuyện Vân được các bạn trai rửa chân rửa dép được kể lại cho nhau nghe với nhiều tình tiết thêm thắt…cho đến lúc về vẫn còn vui.
Gọi là Hòn Đá Bạc nhưng chúng tôi không nhìn thấy hòn đá nào bạc cả. Vượt qua cây cầu khá là thơ mộng chúng tôi ra đến hòn đảo nhỏ có xây 2 con rồng bằng xi măng uốn lượn thế giao long rất đẹp. Bãi biển nước trong xanh, có ít du khách, hình như ở đây xa xôi quá và không tiện giao thông nên du lịch không phát triển được nhờ vậy cảnh quan vẫn còn hoang sơ, sạch đẹp. Tôi nghĩ rằng nếu đến đây vào buổi sáng sớm hoặc chiều mát thì sẽ thú vị hơn nhiều. Vì nắng gắt mà không có chỗ nghỉ ngơi nên mọi người có vẻ mệt mỏi, núp vào bóng cây chỉ còn 4,5 người trong đó có tôi tiếp tục chinh phục ngọn đồi có chùa thờ xương cá Voi gọi là Đền Nam Hải Lăng Ông. Ngoài mép núi có những hòn đá xếp hình giống như bàn tay năm ngón gọi là Bàn tay đá thiên tạo và vết tích dấu chân tiên lõm vào mỏm đá… Tôi cũng chụp được mấy tấm ảnh mà nhiều bạn không chụp được vì bỏ cuộc giữa đường. Đã đến lúc ra về, bây giờ thì không còn ai đi bộ nổi nữa, chúng tôi thuê xe Honda ôm chở từng 2 người ra bến đò. Lượt về trời chuyển mưa nên dịu mát đôi chút, tôi cảm thấy buồn ngủ, trong một thoáng tôi nhớ lần đi du thuyền trên sông Seine ở Pháp, cũng buổi chiều nắng tắt, gió sông hiu hiu mà chuyến đi quá mệt mỏi tôi cũng thèm được chợp mắt như thế nầy. Tôi biết so sánh du thuyền ở Paris với xuồng máy ở Cà Mau thì quá khập khiễng nhưng suy cho cùng thì đi du lịch ở đâu cũng vậy thôi, cũng thoải mái cũng vui chơi, có khi được đi với bạn bè về thôn quê thế nầy còn hạnh phúc hơn du lịch Châu Âu nữa đấy, các bạn thử xem có cảm giác giống tôi không…
Chúng tôi trở về nhà Thanh khoảng 3 giờ chiều, vợ Thanh đã dọn sẵn bàn ăn với nồi cháo vịt bốc khói. Những con vịt do chính Thanh nuôi mập ú mà không có mỡ được dọn với món gỏi không chê vào đâu được. Vừa mệt vừa đói, chúng tôi không khách sáo, Thanh đem ra chai rượu mạnh mà Quang tặng từ mấy năm trước, Thầy Trò cụng ly lốp bốp…
Ăn uống xong chúng tôi chia tay gia đình Thanh, Thanh xin phép vợ tiển chúng tôi ra TP Cà Mau mai về, vợ Thanh đã chuẩn bị cho mỗi người 1 gói quà nghe đâu là khô mắm gì đó, thật chu đáo, cám ơn cô dâu NLS đã hết lòng tiếp đãi bạn bè của chồng…Thành Trung chắc đã chụp đươc những tấm ảnh lúc chia tay ở bến sông trước nhà Thanh. Trên bờ vẫy tay lưu luyến, dưới xuồng cũng lưu luyến vẫy tay, thật cảm động biết bao giờ gặp lại. Chiếc xuồng máy đưa chúng tôi ra đường lộ để lên xe về lại TP Cà Mau, vừa kịp trời chạng vạng là thời điểm của đàn chim cò bay về tổ. Chúng tôi đến vườn chim thành phố hy vọng tận mắt thấy được quang cảnh ngoạn mục nầy, rất tiếc hôm nay đàn cò bay về thưa thớt quá, tuy vậy Thành Trung vẫn canh chụp được mấy tấm ảnh đàn chim đang bay thật đẹp, tôi rất ngưỡng mộ cậu em tài hoa nầy.
Rời vườn chim chúng tôi về khách sạn nhận phòng, tắm gội xong chưa kịp nghĩ ngơi thì Hằng đã gọi tập trung đi hát Karaoke. Hình như sau khi rũ sạch bụi đường chúng tôi đều cảm thấy phấn khởi trở lại. Cà Mau bây giờ cũng văn minh hiện đại như môt thành phố lớn. Đêm tối phố xá cũng đông vui, sau khi chạy một vòng TP, chúng tôi ghé vào nhà hàng Karaoke cũng đẹp và tiện nghi như Saigon vậy. Bây giờ thì tôi hoàn toàn thư giãn, các bạn hát cứ hát, tôi sau khi ăn thêm 1 trái bắp mà Thanh đã chu đáo bảo vợ gói đem theo cho chúng tôi ( bắp ngon thật ăn hoài không chán ) tôi ngồi ôm gối ngủ ngon lành. Không để ý Trung lén chụp được tấm hình giấc ngủ Hoa Dã Quỳ thật ngộ nghỉnh mà sau nầy tôi phải năn nỉ lắm Trung mới hứa không phổ biến.
Khoảng hơn 10 giờ thì các bạn quyết định đi ăn tối, lần nầy Thầy Cô Hữu Minh đãi cả đoàn ăn mì, hủ tiếu, bánh canh… Ăn xong chúng tôi về khách sạn ngủ một giấc ngon lành.
Sáng hôm sau chúng tôi dậy sớm trả phòng, ghé ăn sáng vội vã rồi rời TP Cà Mau. Vợ chồng VCBông và Thanh đi Taxi theo đoàn đến tham quan nhà thờ cha Trương Bửu Diệp ở Tắc Xậy. Chúng tôi thực sự chia tay nhau ở đây, VCBông đi máy bay trở về Saigon, Thanh đi xe Honda ôm về lại nhà. Tạm biệt nhau, hẹn gặp lại nhé bạn thân.
Chúng tôi về qua Bạc Liêu ghé xem nhà Công Tử Bạc Liêu bây giờ là quán café và khách sạn, một hình thức quảng cáo du lịch vậy mà chẳng có gì đặc biệt cả.
Chúng tôi vội về Cần Thơ vì có hẹn với Trần Ngọc Dũng. Xe đến trễ vì kẹt đường và vì chạy nhầm đường, tội nghiệp Dũng Quéo chờ rất lâu bỏ cả buổi họp và công việc làm để gặp mặt bạn bè. Có nhiều bạn hơn 40 năm mới gặp lại Dũng, không nhận ra nhau nhưng nghe gọi tên Dũng Quéo là nhớ ngay. Bữa ăn trưa vội vã không kịp hàn huyên tâm sự vì đường về còn quá xa, chúng tôi một lần nữa chia tay nhau trong niềm lưu luyến…
Rời Cần Thơ đoàn ghé qua Trà Vinh để đưa Thầy Cô về tận nhà, Thầy Lai Minh có nhã ý mời ăn Bánh Canh nhưng không còn thời gian, chúng tôi chỉ kịp ghé qua tham quan ngôi chùa Âng cổ kính nổi tiếng lâu đời của người Khơ Me Nam Bộ xây cất bên cạnh một cái ao vuông ngộ nghỉnh có tên là Ao Bà Om.
Cảm động nhất là dù trời chiều tối nhưng Thầy Hữu Minh vẫn nhiệt tình chở Thầy Lai Minh bằng xe Honda chạy theo hướng dẫn chúng tôi đường tắt ra khỏi Trà Vinh. Một lần nữa cám ơn Thầy, nhờ vậy mà đoàn về đến Saigon khoảng 10 giờ tối, kịp cho các bạn ở Baoloc đón xe đò về luôn ngay trong đêm. Chúng tôi chia tay nhau không nói được nhiều nhưng lòng thầm hẹn sớm có dịp gặp lại trong những chuyến đi xa thú vị hơn nữa.
Tôi kết thúc bài viết nầy với câu đề tặng: Tặng tất cả bạn tôi, các bạn NLS Baoloc. Dù là cùng khóa tôi hay học trước tôi cũng như học sau tôi. Tôi luôn yêu quí và trân trọng các bạn. Hẹn gặp lại…
Tháng 5 năm 2011
Nhóm Bạn NLS Bảo Lộc Niên khoá 70-73
Chị Chín Cò - Bùi Thị Lợi
Chị tên là Đặng Thị Chín, là sinh viên khóa 5 Trường Quốc Gia Nông Lâm Mục B’Lao. Chị có người anh ruột tên Đặng văn Tám cũng là sinh viên khóa 3 của trường. Không nhớ từ bao giờ các anh chị từ khóa 1 cho đến khóa 8 đều gọi chị với cái tên thân thương là Chín Cò. Nghe kể ngày xưa học trên trường chị thuộc típ người đẹp chân dài, chị có dáng người cao thon thả, chị được di truyền từ người mẹ từng nổi tiếng một thời là hoa khôi trường nữ sinh áo tím Gia Long Saigon.
Chị là con gái út trong gia đình có 8 người con. Ba của chị làm tới chức Tri Phủ nhưng với bản chất hiền hòa nhân ái ông cũng chỉ là một viên chức nhà nước cần mẫn giản dị. Còn Ông Nội của chị làm đến chức Đốc Phủ Sứ. Ông xây dựng ngôi nhà trên mảnh đất tổ tiên (tọa lạc giữa trung tâm T.P Mỹ Tho). Công trinh xây dựng từ năm 1914 đến năm 1918 mới hoàn thành. Một ngôi nhà theo kiểu kiến trúc của người Pháp cho đến nay đã gần 100 năm, ngôi nhà vẫn được gìn giữ nguyên vẹn từ mái ngói âm dương đến các khung cửa làm bằng gỗ quí và đặc biệt là các cây cột gỗ mun đen bóng to bằng vòng tay ôm, đở một giàn rui mè cũng bằng gỗ mun chạm khắc rất tinh xảo. Thời bây giờ không dể gì tìm thấy được một ngôi nhà xưa có giá trị nghệ nghệ thuật mà còn gìn giữ được nguyên vẹn như vậy, thật là một ngôi nhà cổ quí hiếm. Hiện nay ngôi nhà ấy được gia đình chị chăm nom bảo tồn làm ngôi nhà Từ Đường của Dòng Họ Đặng. Chị nói để giữ được chủ quyền của ngôi nhà ấy âu cũng là phước báu của gia đình chị. Hiện nay trong ngôi nhà ấy vẫn còn 1 căn phòng dành riêng cho chị, là nơi chị lưu giữ lại những kỹ niệm của thời thơ ấu, thuở nhỏ chị từng là nử sinh trường T.H Nguyễn Đình Chiểu Mỹ Tho.
Năm 1959 chị xin nhập học khóa 5 trường QGNLM Ban Mục Súc. Đến năm 1962 chị tốt nghiệp về công tác tại Hiệp Hội Nông Dân Mỹ Tho. Năm 1963 chị chuyển về Chánh Hưng phụ trách chương trình Heo Bắp. Sau đó chị lại chuyển đến Viện Pasteur Saigon. Được 1 năm chị lại chuyển qua Viện Quốc Gia Vi Trùng Học và Bệnh Lý Gia Súc. Cùng năm đó chị lập gia đình với anh Trần Hải Đảo cũng từng là sinh viên khóa 5 trường QGNLM (cùng lớp với chị, nhưng sau đó anh tiếp tục thi vào trường Đại Học Nông Nghiệp Saigon và tốt nghiệp Bác Sĩ Thú Y khóa 11, về công tác tại lò heo Chánh Hưng. Còn chị một lần nữa lại chuyển công tác về Trạm Thú Y Thành Phố vào năm 1965.
Anh Chị có 5 người con, 4 trai và 1 gái. Hai người con trai lớn của anh chị cũng tốt nghiệp Đại Học Nông Lâm TP và công tác ngành Thú Y theo nghề của cha mẹ. Biến cố năm 75 làm thay đổi đời sống gia đình anh chị, ngôi nhà anh chị được cơ quan cấp cho trước đó bị chính quyền mới thu hồi. Anh chị gom góp vốn liếng dành dụm mua được căn nhà mặt tiền đường Gia Long nay là đường Lý Tự Trọng. Anh mở phòng mạch chữa trị bệnh gia súc, chị tiếp tục làm công nhân viên chắt chiu từng đồng lương và nuôi 5 đứa con ăn học. Hạnh phúc đơn sơ êm ấm không được bao lâu, đến năm 1988, anh lâm trọng bệnh qua đời. Bấy giờ chị mới đúng là thân cò lặn lội, một mình tần tảo nuôi con. Kể sao cho hết những khó khăn vất vả của một bà mẹ góa. Vừa làm Mẹ vừa làm Cha chị nuôi dạy 5 đứa con, cưới vợ gả chồng cho tất cả.
Đến năm 1990, chị được cho nghỉ hưu trước thời hạn mặc dù trước đó chị đạt danh hiệu Chiến Sĩ Thi Đua trong 2 năm liền. Nhưng chị không hề bận tâm, vì lúc bây giờ chị đã gây dựng được một nền tảng kinh tế gia đình vững chắc, các con chị trưởng thành đều thành đạt. Nhờ có sự góp sức của các con chị xây được ngôi nhà lớn có mặt bằng tầng trệt cho thuê, thu nhập đủ để chi phí sinh hoạt trong gia đình thoải mái, ngoài ra chị còn tích cực tham gia các công tác từ thiện. Chị là một Phật tử mộ Đạo, chị dành phần lớn thời gian cho việc đi lễ chùa và đi cứu trợ những người gặp hoàn cảnh khó khăn, thiên tai, hỏa hoạn. Chị luôn có tên đầu tiên trong danh sách Mạnh Thường Quân đóng góp cho quỹ tài trợ giúp đỡ anh chị em trong đại gia đình NLS.
Bản thân chị sống rất đơn giản, chị ăn chay trường. Từ lâu chị là khách mời danh dự, là thân hữu của nhóm bạn cựu học sinh Trung Học Nông Lâm Súc Bảo Lộc. Trong những lần tổ chức họp mặt đầu năm hay những dịp kỷ niệm về trường, chị đều nhiệt tình ủng hộ cả tinh thần lẫn vật chất. Chị luôn đi đầu trong những chuyến viếng thăm chúc Tết Thầy Cô.
Không biết ngày xưa chị xinh đẹp thế nào? Chứ bây giờ khi đã vào tuổi Thất Thập Cổ Lai Hy, với mái tóc bạc trắng màu bạch kim quý phái, với dáng người thong dong, thư thả, thoạt nhìn người ta dễ lầm tưởng chị là một Việt Kiều mới về nước.
Tôi có duyên được quen thân với chị từ những lần họp mặt Nông Lâm Mục Súc từ những năm 1990. Hỏi ra mới biết ngày xưa tôi được tuyển vào làm ở Viện Quốc Gia Vi Trùng Học và Bệnh Lý Gia Súc là thay thế vị trí của chị. Thời gian qua chị cũng ủng hộ chúng tôi rất nhiều trong sinh hoạt Nông Lâm Súc. Riêng cá nhân tôi cũng nhận được ở chị nhiều ưu ái, chị ân cần chăm sóc tôi như đối với cô em gái nhỏ, nhờ có chị an ủi dỗ dành mà tôi vượt qua được những chông gai trên đường đời có lúc tưởng chừng làm tôi gục ngã.
Chị như cánh cò thanh thoát vươn cao trong bầu trời NLS. Cầu chúc chị nhiều sức khỏe, thâm tâm an lạc, để chị có nhiều cơ hội giúp người nhất là giúp anh chị em trong đại gia đình Nông Lâm Súc chúng ta.
Bùi Thị Lợi
Sài Gòn, tháng 11 năm 2011
MỘT CÕI ĐI VỀ - Bùi Thị Lợi
Quá khứ có những thăng trầm, có lúc đầy nhọc nhằn nhưng cũng có lúc thật êm đềm. Có lẽ qua thời gian ký ức của ta chỉ thích giữ lại những gì an vui, đẹp đẽ và cố dần quên đi những gì ta không vừa ý. Và hình như ký ức cũng tìm cách thi vị hóa những sự việc trong quá khứ để chúng lắng đọng trở thành những kỷ niệm thú vị khó quên của đời ta.
Việc quay về với quá khứ để được sống với kỷ niệm, có lẽ là một điều hết sức tự nhiên của đời người. Và chính với ý hướng đó chúng ta tìm về với nhau, cùng tìm lại những nơi ghi lại dấu chân ta ở những ngày xa xưa. Xa hơn chút nữa, chúng ta gợi nhớ lại những gì đã xảy ra vào thời ấy nhưng với một tâm hồn thanh thản, vị tha hơn và trong tâm tình tràn đầy yêu thương cùng sự thân thiết gắn bó. Hình ảnh chốn cũ, Hoàng Hoa lộ, Đỗ Mai lộ, Đại Thính Đường, Lưu Xá E, Câu Lạc Bộ, Quán Chị Tráng… v…v… đã được chúng ta nhắc đến như những huyền thoại. Hình ảnh của người bạn đồng môn, nhân viên nhà trường, thầy cô giáo dần dần được nhắc lại, đem lại cho nhau làn hơi ấm trong tuổi sắp hay đã xế chiều.
Khởi đầu, với tâm tình của người hoc trò cũ, qua Đặc San 2007, Vương Thế Đức đã gợi lại hình ảnh cùng những kỷ niệm vui buồn cũng như thân tình với hai người thầy đã vĩnh viễn ra đi, đó là các anh Nguyễn Thanh Vân và Nguyễn Viết Huyền. Tiếp đến, trên Trang Nhà và Đặc San 2008, anh đã viết một loạt bài về các Thầy Cô khác mà anh vẫn còn có dịp liên lạc với họ. Tiếp sức, Nguyễn Triệu Lương cũng đã ghi lại những gì còn đọng lại trong ký ức của mình về hai người cô đó là cô kỹ sư Võ thị Thúy Lan và Võ thị Vân. Đồng nhịp, anh Từ văn Trường, môt cựu học viên khóa I và về sau là Giáo sư phục vụ tại trường, qua bài viết của anh, anh đã góp thêm trong việc nhắc lại gần như khá đầy đủ về quí vị nhân viên phục vụ tại trường, kèm theo những nét đặc thù của mỗi vị. Tiếp nối, theo chân các đàn anh, chị Bùi thị Lợi với tấm lòng một mực thương kính thầy cô và sự quí mến bạn bè đã được thể hiện qua việc làm của chị bấy lâu nay; chị đã không ngần ngại, bỏ công tìm mọi cách để tiếp cận với các thầy cô giáo cũ, thăm hỏi chuyện trò, và qua đó chị đã khéo sắp xếp ghi sơ lược về cuộc đời, sự cống hiến cũng như tình cảm tốt đẹp của riêng chị cũng như của tập thể NLS Bảo Lộc vẫn còn giữ được về họ.
Một bài viết của chị trong tâm tình tôn kính, tưởng nhớ về Bác sĩ Đặng Quang Điện, người đã khai sinh và nhiều năm trực tiếp điều hành hệ thống Trung học chuyên nghiệp NLS, bài viết ấy đã được xếp vào danh sách 10 bài được đọc nhiều nhất dù chỉ mới được đăng vào những tháng gần đây. Trong loạt bài về Thầy Cô của chị, chị viết về những thầy cô đã để lại nhiều dấu ấn đẹp và đậm nét cho Trường NLS Bảo Lộc như thầy Châu Kim Lang, thầy Phạm Phi Hoành, cô Nguyễn Nguyệt Yến, thầy Trần ngọc Xuân. Loạt bài của chị đã được dần đăng trên Trang Nhà của Hội và bài nào cũng được đọc giả đón nhận nồng nhiệt với số lần đọc khá cao.
Để nói lên sự hâm mộ của đồng môn đối với chị Thái thị Tốt, có bạn đã không ngần ngại phát biểu “Những ai không biết Thái Thị Tốt, không phải HV-NLS Bảo Lộc!” Tôi nghĩ câu nói đó cũng rất đúng với chị Bùi Thị Lợi. Quả thế, từ những năm trước, khi bầu trời chưa được quang đãng lắm sau cơn ba đào của vận nước, chị Bùi thị Lợi đã cùng một số anh chị em có lòng đã tìm mọi cách để tổ chức ngày họp mặt hằng năm của anh chị em NLSBL. Trong buổi giao thời, lòng người xao xuyến, có cơ hội gặp mặt nhau, nói với nhau đôi lời để đem lại chút niềm tin, là điều thật sự hết sức cần thiết! Một việc làm khởi nguồn từ sự cần thiết tìm lại tình người trong hoàn cảnh suy thoái đạo đức, quả đã nói lên được ý nguyện chung, do đó, càng ngày đã được anh chị em tìm về với nhau trong ngày họp mặt càng đông hơn, và đã trở thành một ngày thông lệ hàng năm! Riêng những anh chị ở nước ngoài có dịp trở về thăm quê nhà và muốn gặp bạn bè cũng được chị Lợi sẵn lòng tiếp đón và thường là mối dây cho các cuộc gặp gỡ. Chị đã có ít nhất đôi lần gặp chúng ta tại xứ Cờ Hoa nầy. Những chuyến trở lại mái trường xưa trước đây đều có sự đóng góp tích cực của chị, và khi chúng ta có Trang Nhà dot.com, rồi thêm dot.net thì những tin tức về trường, về bạn… qua ngòi bút của Bùi Thị Lợi đã đến với chúng ta khá thường xuyên. Trang nhà càng ngày càng nhận được nhiều bài viết cũng như hình ảnh từ các bạn ở quê nhà, trong số ấy có hai cây bút rất khỏe đã liên tục viết bài cho trang nhà không mệt mỏi, đó là anh Bùi Tho (Bảo Lộc) và chị Bùi thị Lợi (Sàigòn). Trang nhà rất trân trọng sự đóng góp của quí vị.
Vừa mới đây, chúng tôi nhận được bài viết của chị về ông Hà văn Thân, cựu Giám Đốc Nha Học Vụ NLS. Tôi nghĩ chị Bùi thị Lợi biết nhiều về Ông Hà văn Thân không qua liên hệ thầy trò trước đây mà do sự tiếp xúc về sau nầy trong những lần thầy trò họp mặt, đặc biệt là giai đoạn ông ấy ở Pháp thường hay đi về và mỗi năm lưu lại ở Việt Nam khá lâu. Thật tình tôi cũng không biết nhiều về ông ấy, tuy rằng, giữa chúng tôi là anh em cô cậu ruột. Từ quan hệ ruột thịt ấy tôi xin ghi thêm những điều biết về Ông Thân cho vui, mặc dầu tin tức có được cũng chỉ do người trong gia đình nói lại thôi.
Ông Bà ngoại tôi người Huế, thuộc loại phú nông, có 4 người con trai đầu và 2 cô con gái cuối. Thân phụ ông Thân là người con trai thứ tư, và thân mẫu tôi là con gái út. Cậu tôi được gởi ra Hà-Nội học về Thú Y. Sau khi ra trường ông được bổ dụng vào miền nam, có lẽ vì ở Huế và các tỉnh lân cận không có nhu cầu. Tại vùng đất miền nam trù phú nầy, cậu tôi kết hôn với một người con gái thuộc gia đình giàu có, nhưng cậu tôi, thân sinh của ông Thân, trở nên rất giàu là do vợ chồng biết cách làm ăn cùng với vận hên trời cho. Đã giàu, trời lại giúp thêm, Cậu Mợ tôi trúng lô độc đắc vé số Đông Dương 100 ngàn đồng. Đây là số tiền lớn kinh khủng so với vật giá sinh họat thời bấy giờ (lương một người thư ký chỉ khoảng 4 đồng một tháng). Câu mợ tôi đã dùng hầu hết số tiền đó mua ruộng, vì vây, ông có một số ruộng đất rất lớn. Nghe má tôi nói lại, hình như ông có khoảng 5-7 ngàn mẫu ruộng, phần lớn nằm ở Cần Thơ và Sóc Trăng. Sau nầy một phần bị truất hữu mua lại bởi chính sách người cày có ruộng của chánh phủ Việt Nam Cộng Hoà. Sau cuộc đổi đời, mất sạch, công khố phiếu không được thanh toán, đất điền bị trưng thu, liệu con cháu của cậu tôi có còn được một xẻo nào để dung thân không? Không khéo lại còn bị khép vào tội địa chủ bóc lột!
Lúc tôi khoảng 7 tuổi, cậu tôi có lên Đà-Lạt thăm ba má tôi. Ở thời kỳ đó mà cậu tôi đi xe hơi Ford mới toanh thật oai vệ. Thời gian ấy câu tôi có quốc tịch Pháp.
Ông Hà Văn Thân du học tại Pháp rất sớm và sống tại đó khá lâu. Ông hấp thụ tính thẳng thắng của người cha và tính hiền hòa nhân ái của người mẹ nên tính tình của ông ấy trung thực và hiền hòa. Không phải chỉ lúc nầy, mà ngay trong thời gian dạy học hoặc trong thời còn đang giữ những chức vụ Giám Đốc hay Tổng Giám Đốc, ông hết sức bình dân. Sự hiền hòa của con người Miền Nam, lại hấp thụ một nền văn hóa tuyệt vời của Pháp khiến ông trở thành một con người phóng khoáng và rất dễ mến. Tôi nghĩ đó là lý do trong thời kỳ giá trị đạo đức bị xem rẻ, tình nghĩa dễ dàng cho xuống ống cống, và ông bị chánh sách ngược đãi thì ông vẫn được những người quanh ông quí mến tận tình giúp đỡ. Không phải một lần mà nhiều lần với những con người và hoàn cảnh khác nhau. Những mẫu chuyện ông Thân kể lại với chị Lợi phản ánh phần nào con người của ông, đồng thời cũng nói lên tâm tình con người NLS Bảo Lộc đầy tình nghĩa của chúng ta.
Xin góp thêm đôi điều và trân trọng giới thiệu đến quí vị bài viết của chị Bùi Thị Lợi. Với sự tích cực đóng góp và lòng thương quí đặc biệt về trường và tập thể NLSBL, chắc chắn chúng ta sẽ được đọc thêm nhiều bài khác của chị. (Gurnee, Mar.18.2009, Lục Phan, Trang Nhà)
MỘT CÕI ĐI VỀ
Còn nhớ lần đầu tiên tôi được anh Nguyễn Khoẻ mời đến nhà dự tiệc tất niên mừng Thầy Hà Văn Thân ở Pháp về thăm quê hương (Đó là khỏang cuối năm 2000). Một buổi chiều tôi đi với chị Ngô Anh Thuấn tìm theo địa chỉ trong thư mời. Nhà anh Khoẻ ở mãi Quận 9, một vùng ngoại thành hẻo lánh, qua khỏi khu vực Cát Lái, xa ơi là xa .... Hai bên đường đồng ruộng mênh mông hoang vắng, chúng tôi đi mãi, đi mãi... phải hỏi thăm hai ba lần mới tìm được nhà. Nói là nhà chứ kỳ thực là xưởng sản xuất bàn ghế bằng sắt, inox. Cơ sở rất rộng, có ao cá vườn cây rất thoáng mát và một căn nhà nho nhỏ xinh xinh.
Nghe nói Thầy định cư ở Pháp, thỉnh thoảng về Việt Nam nghỉ ngơi. Thầy không còn người thân ở Sài Gòn, mỗi lần về Thầy ở nhà anh Nguyễn Khoẻ là một cựu học sinh NLS Bảo Lộc (68-69). Với Thầy, anh Khoẻ không là bà con họ hàng nhưng đặc biệt có một mối ân tình sâu nặng với Thầy, nghe nói ngày xưa Thầy đã giúp anh Khoẻ một việc gì đó. Còn chuyện anh Khoẻ lên trường NLS Bảo Lộc cũng là một cơ duyên kỳ ngộ lý thú. Năm đó Thầy làm Chánh Chủ Khảo ở Huế, tình cờ quen anh Khoẻ trong một quán bún bò, nghe anh Khoẻ có ý muốn vào Sài Gòn học ngành NLS, Thầy bèn giới thiệu cho anh Khoẻ lên Bảo Lộc thi tú tài NLS. Và ở đây anh Khoẻ lại có một món nợ đời với Thầy Phạm Phi Hoành (tôi sẽ kể chuyện này cho các bạn nghe sau) mà mãi đến bây giờ khi nhắc đến Thầy Hoành, anh Khoẻ cười rất vui và nói nếu như ngày xưa Thầy Hoành cho anh Khoẻ thêm ½ điểm nữa thì cuộc đời anh Khoẻ chắc không thành đạt như bây giờ.
Trở lại câu chuyện về Thầy Hà Văn Thân. Thầy quê ở làng Thạnh Thới An Tỉnh Sóc Trăng. Ông ngoại của Thầy là người có công tiên phong thành lập làng. Ba của Thầy học ngành Thú Y ở Hà Nội, nghe kể nhờ trúng số độc đắc nên có tiền mua một lô đất dài 2 km ở mặt tiền đường, Thầy trở thành con địa chủ. Năm 1947 Thầy sang Pháp du học, được Ông Tỉnh Trưởng Sóc Trăng là người Pháp cho ở trọ. Đến năm 1957 Thầy được Ông Châu Tâm là ba của Thầy Châu Tâm Luân bấy giờ làm Tổng Thư Ký Bộ Canh Nông mời Thầy về nước làm việc cho Bộ. Thầy được tuyển dụng về Nha Học Vụ NLS lúc ấy đặt tại garage của Văn Phòng Bộ đường Nguyễn Bỉnh Khiêm. Thầy được diện kiến với Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Thầy rất có uy tín, nếu cần đi Pháp để báo cáo trực tiếp công việc Thầy chỉ cần đề xuất là được chấp thuận cho đi ngay. Nhưng đề án cơ giới hoá Đồng Tháp Mười do Thầy phụ trách bị Mỹ phản đối vì Mỹ không muốn Việt Nam lệ thuộc kỹ thuật máy móc của Pháp.
Cùng thời điểm này Trường Quốc Gia Nông Lâm Mục B'lao bãi khoá biểu tình chống đối Bộ Nông nghiệp rút bớt tiền học bổng. Để giải quyết vấn đề, Bộ quyết định cho Khoá I đi tập sự và Thầy Hà Văn Thân hướng dẫn khoá I, Thầy ký sự vụ lệnh và phát học bổng cho khoá I, Thầy dạy môn Nông Cụ Cơ Giới cho các khoá II, III, IV .. Thầy xem các anh chị như bạn, những lúc rổi rảnh Thầy hay rủ các anh đánh cờ.
Đến năm 1961 Thầy có quyết định đi Mỹ tu nghiệp. Kể đến đây Thầy cười nói lúc ấy muốn đi Mỹ phải mua sắm áo lạnh tốn kém Thầy do dự không muốn đi, cuối cùng bị động viện khoá 12 Thủ Đức. Tốt nghiệp khoá học quân sự Thầy về Nha Chiến Tranh Tâm Lý ở Thị Nghè. Đến năm 1965, giải ngũ Thầy lại trở về Nha Học Vụ NLS bây giờ đã chuyển qua số 9 Mạc Đỉnh Chi. Thầy giữ chức vụ Chánh Sự Vụ phụ trách cấp Trung Đẳng và Sơ Đẳng. Thầy Đặng Quan Điện phụ trách cấp Cao Đẳng
Năm 1967 Thầy đi Mỹ học ngành Farm Machinery, nhưng mới một năm Thầy lại được triệu tập về nước để giải quyết một số việc nội bộ. Số là Thầy phụ trách việc lương bổng cho tất cả các trường NLS, nên khi có biến cố 1968, tướng Nguyễn Cao Kỳ cải tổ hành chánh, Thầy phải về thu xếp ... Thầy tiếp tục làm việc ở Nha Học Vụ NLS đến cuối năm 1974. Đầu năm 1975 thì chuyển qua Tổng Nha Nông Nghiệp. Một lần nữa Thầy cười nói: Thầy làm Tổng Giám Đốc Tổng Nha Nông Nghiệp có 4 tháng mà phải đi học tập cải tạo 3 năm.
Thầy lập gia đình năm 1960, Thầy có 2 con trai, 1 con gái và 2 cháu ngoại. Tất cả đều định cư ở Pháp. Một người con trai của Thầy hiện làm công tác Ngoại Giao cho Pháp ở Bờ Biển Ngà. Thầy gọi mẹ của Thầy Phan Bá Sáu là cô ruột. Hoa hậu Hà Kiều Anh là cháu gọi Thầy là ông Chú.
Thầy có 1 người con nuôi là người Miên làm công tác Miên vận chức vụ Đại Tá Thượng Nghị Sĩ chế độ VNCH nên khi Thầy đề xuất xây dựng một trường NLS ở Sóc Trăng là được chấp thuận ngay. Vì Sóc Trăng là vựa lúa của đồng bằng Nam bộ nên thầy muốn thành lập 1 trường Cao Đẳng NLS ở đây. Rất tiếc trường chưa được xây xong thì giải phóng.
Thầy đi học tập 3 năm, chuyển qua nhiều trường trại, có rất nhiều kỷ niệm vui buồn mà luôn có sự hiện diện của học sinh NLS Bảo Lộc. Thầy kể lại cho chúng ta nghe:
- Đầu tiên ở trại Long Thành. Mấy tuần đầu còn bán những tư trang mang theo như đồng hồ, nhẫn ...Vài tháng sau là bắt đầu lo đói. Một hôm có một anh cán bộ trẻ tự xưng là học sinh NLS chào Thầy, hỏi Thầy có cần giúp đỡ gì không? Thầy nói muốn gửi thư về nhà xin tiền. Anh ta hứa giúp. Đêm đó Thầy vừa mừng vừa lo, không biết có kết quả gì không? Sáng hôm sau xuống căn tin, gặp anh ta tươi cười mời Thầy bát phở nóng và chuyển cho Thầy 50 ngàn đồng gia đình gửi. Thầy mừng ơi là mừng, Thầy nói có đi học tập mới biết cái đói thật là khủng khiếp.
- Sau đó Thầy được chuyển ra trại Thanh Cẩm - Thanh Hoá. Một buổi chiều Thầy thấy buồng bên cạnh có người ngoắc mình (Buồng được ngăn chia thành phần người ở, cho phép nói chuyện chứ không cho qua lại). Anh ta giới thiệu là học sinh Cao Đẳng Nông Nghiệp. Anh dặn Thầy sáng đi lao động nhớ đưa tay ra hiệu cho anh ta thấy để chiều về anh đem thức ăn về cho Thầy, vì anh ta lao động nặng được phần ăn nhiều hơn nên sẽ để dành cho Thầy bồi dưỡng thêm.. Thật cảm động và thắm thía câu nói: một miếng khi đói bằng một gói khi no.
- Đến khi được thả về Sài Gòn, lần đầu tiên được anh Khoẻ mời Thầy ăn món gà hầm thuốc bắc để tẩm bổ quá ư là sung sướng nhưng Thầy vẫn nhớ mãi những xẻ chia ngọt bùi trong thời gian học tập.
Cải tạo về Thầy làm việc ở Công Ty Dịch Vụ Kỹ Thuật thuộc hội Trí Thức Yêu Nước, Thầy phụ trách kỹ thuật máy cày, thường phải đi công tác ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Lần đó đoàn về Long An ở lại đêm trong một trường học, cách xa thành phố điều kiện điện nước khó khăn. Nhất là nước thì cực kỳ hiếm, nước để ăn uống còn hiếm thì làm gì có nước tắm. Ăn cơm xong, trời tối, cả đoàn ra sân ngồi hóng mát thì có 1 anh xưng là học sinh NLS Bảo Lộc mời tôi ra nói nhỏ: Thầy vào lấy khăn, em đưa Thầy đi tắm nước mưa cho mát. Còn gì sung sướng cho bằng, buồn ngủ mà gặp chiếu manh, tắm gội xong anh ta còn dẫn Thầy đi ăn cháo vịt. Thật hạnh phúc khi gặp lúc khó khăn Thầy luôn được những học trò NLS giúp đỡ chăm sóc tận tình.
Đến năm 1982 Thầy được cho nghỉ việc vì Ông Giám Đốc cho rằng Thầy có ý muốn đi Pháp. Mà thật vậy, năm 1983 cả gia đình Thầy được Chính Phủ Pháp chấp nhận cho định cư theo diện công dân Pháp. Thầy kể nhờ Ông Phạm Văn Hai chủ hãng dệt Mỹ Á nộp dùm hồ sơ chỉ 1 tuần sau là được duyệt. Thật may mắn, ở hiền gặp lành.
Nhìn lại cuộc đời mình Thầy nói: "Tôi biết ơn các anh em NLS Bảo Lộc đã giúp đỡ tôi rất nhiều. Tiện đây cho tôi gởi đến các anh chị và nhất là anh Khoẻ lời cám ơn chân thành"
Mỗi năm Thầy ở Pháp 3 tháng, về Việt Nam 9 tháng. Thầy vẫn ở nhà anh Nguyễn Khoẻ số 69 Bưng Ông Thoàn, Quận 9. Ở đậy rộng rãi, mát mẻ, yên tĩnh. Thầy và anh Khoẻ vẫn thường tổ chức các buổi liên hoan mời bạn bè NLS tham dự. Bây giờ đường từ trung tâm ra Quận 9 không còn hoang vắng nữa, đồng ruộng đã biến mất thay vào các khu dân cư đô thị mới. Mỗi lần có dịp đến thăm Thầy tôi thường đi nhờ xe hơi của các anh chị NLS nên cũng không còn thấy xa. Nhưng tôi vẫn nhớ cảm giác của lần đầu tiên gặp Thầy trong buổi tiệc tất niên. Tôi đã chuẩn bị để hát tặng Thầy bài Một Cõi Đi Về. Nhưng không nhớ vì lý do gì tôi đã không hát và cho đến bây giờ mỗi lần nhớ đến Thầy Hà Văn Thân tôi lại nhớ bài hát của Trịnh Công Sơn. Xin chúc Thầy luôn vui khoẻ và mãi bình an hạnh phúc trong Cõi đi về của mình
Bùi Thị Lợi
Nhớ Mãi Buổi Chiều Xuân - Bùi Thị Lợi
Tôi đến Trường NLS Bảo Lộc năm 1967 như một người chập chửng vào nghề thì anh Trần Ngọc Xuân đã giắt lưng 10 năm kinh nghiệm! Bây giờ tôi mới biết anh Xuân và tôi cùng một tuổi, con trâu Đinh Sửu. Tuy cùng tuổi con trâu, nhưng có lẽ anh được sinh vào ban đêm hay là sinh ở thành phố nên chẳng có ruộng để phải cày bừa vất vả suốt ngày. Trong khi tôi lại được ra đời ban ngày mà lại ở vùng quê, thành thử từ bé đã có quá nhiều vất vả, ngay việc học hành cũng sình lên xọp xuống không biết mấy lần!
Một người đã trải qua nhiều năm kinh nghiệm, một người mới chân ướt chân ráo vào nghề, nhưng có lẽ tuổi tác xit xoát nhau nên dễ hiểu nhau hơn. Tôi không dám nhận là bạn thân của anh Xuân, vì thời gian sống và làm việc tại trường với nhau không đủ dài, nhưng tôi được phép nghĩ anh đã xem tôi như là một người bạn, và chúng tôi đã có cơ hội chuyện trò vói nhau nhiều lần không những tại Văn phòng mà ngay cả tại nhà anh nữa.
Từ đồng nghiệp cho đến anh chị học viên, ai cũng biết anh Xuân là một thầy giáo mẫu mực. Ngoài lương tâm nghề nghiệp và tinh thần trách nhiệm cao, anh Xuân là một người thầy thẳng thắng nhưng độ lượng. Anh hiểu và thương quí học viên không chỉ với tư cách của một người thầy, mà có lẻ còn có cả phần nào tình anh em hay cha con nữa kia.
Anh Xuân có cái thú chơi phim ảnh. Lúc bấy giờ phim ảnh cũng là món chơi xa xỉ đấy, nhất là phim màu. Hình như phim màu phải gởi ra nước ngoài để sang thì phải? không biết tôi có nhớ lầm không? Anh Xuân chụp hình, chuyển qua Slide và xem hình nổi rất đẹp. Nhiều lần anh cho xem, tôi rất thích. Tôi dự định bắt chước anh, nhưng tự hẹn rày hẹn mai và chưa bao giờ thực hiện được cả!
Thời gian mới lên trường, tôi và anh Phan quang Định rất thích tập cởi ngựa. Muốn cởi ngựa chúng tôi phải mua mấy kilo đường tán, và phải có bộ yên ngựa. Muốn có yên ngựa phải xin phép thầy Xuân. Có nhiều em học viên cởi ngựa không có yên như thổ dân da đỏ! Nhiều lần tôi nhờ các em học viên chuyển lời tôi đến thầy Xuân để mượn bộ yên cương. Vì cái thói thích cởi ngựa nầy mà anh Định đã bị ngựa cho té lăn cù tưởng đã gãy xương. Còn tôi, trong một lần khác, nhờ lanh tay đánh đu được trên cành cây thoát nạn!
Thời gian thụ huấn quân sự 9 tuần ở Lam Sơn, tôi và anh Xuân cùng chung một Đại đội 273. Tôi nhớ một buổi chiều, sau khi đi tập ở ngoài bãi về, chúng tôi được lệnh tập họp ngoài sân trại để nghe vị Chỉ huy phó Trại Huấn Luyện nói chuyện.
Hình như ông ta là Trung tá Thiên thì phải, ông chỉ nói chuyện tiếu lâm cho anh em khóa sinh chúng tôi đở buồn thôi. Chúng tôi ngồi bệt xuống đất theo hàng ngũ ngay ngắn, ông ta vừa đi đi lại lại vừa nói chuyện, bổng nhiên thấy ông tiến sát lại gần hơn và hơi cúi xuống để nhìn, rồi cười vui vẻ và nói: " Toi đó à, Xuân''. Anh Xuân cho tôi biết ông ta là người cùng xóm với anh ở Sài gòn chứ chẳng bà con chi. Nhưng bắt đầu ngày hôm sau, đại đội chúng tôi được sỹ quan đại đội đối xử dễ dàng hơn nhiều!
Nhân đọc bài viết của chị Bùi thị Lợi về anh Trần Ngọc Xuân làm tôi nhớ đến anh, một đàn anh, một người bạn đáng kính. Hy vọng một ngày nào đó tôi được cầm tay anh, nhìn anh để biểu lộ lòng quí mến của tôi đối với anh.
Gurnee Feb.09.2009
Lục Phan
Nhớ Mãi Buổi Chiều Xuân
Khoảng thập niên 2000. Mỗi khi có dịp đi qua khu vực Quận 7 tôi vẫn nhớ trong địa chỉ NLS là nhà Thầy Trần Ngọc Xuân ở gần đâu đây, nhưng mãi vẫn không có cơ hội ghé thăm. Mỗi lần họp mặt ngày 1 tháng 1 gặp Thầy, tôi lại nghe câu mời: "Hôm nào rảnh mời các em ghé nhà tôi chơi". Và cứ thế .... Mấy năm gần đây không được gặp Thầy thường xuyên nữa, nghe nói Thầy bận chăm sóc bà mẹ già tuổi ngoài 90 nên không tiện dự các buổi họp mặt.
Khoảng thập niên 2000. Mỗi khi có dịp đi qua khu vực Quận 7 tôi vẫn nhớ trong địa chỉ NLS là nhà Thầy Trần Ngọc Xuân ở gần đâu đây, nhưng mãi vẫn không có cơ hội ghé thăm. Mỗi lần họp mặt ngày 1 tháng 1 gặp Thầy, tôi lại nghe câu mời: "Hôm nào rảnh mời các em ghé nhà tôi chơi". Và cứ thế .... Mấy năm gần đây không được gặp Thầy thường xuyên nữa, nghe nói Thầy bận chăm sóc bà mẹ già tuổi ngoài 90 nên không tiện dự các buổi họp mặt.
Tôi và chị Thuấn cứ nhắc nhau: mình phải sớm qua thăm Thầy và Bà Cụ. Vậy mà năm 2005 Bà Cụ mất, chúng tôi vô tình không hay biết, sau này mới nghe Thầy nói vì ngại làm phiền anh em NLS nên Thầy không báo tin. Thật Thầy làm tụi em có lỗi quá. Đến năm 2006 chị Lê Thị Nhài về thăm nhà, nhờ tôi tìm địa chỉ của Thầy, tôi mới biết Thầy không còn ở đường Trần Xuân Soạn nữa mà đã chuyển qua đường số 20 ở Quận 7. Thời gian gần đây Thầy nói sức khoẻ mình kém nên không muốn đi lại nhiều. Thỉnh thoảng tôi vẫn liên lạc với Thầy qua điện thoại và qua sinh hoạt anh chị khoá 1 Nông Lâm Mục. Thú thật đường qua Quận 7 không xa, nhưng tôi rất ngại mỗi khi có việc đi một mình qua đó. Và rồi một ngày cuối năm cơ duyên lại đến. Tôi có đứa cháu theo chồng về Quận 7. Đến thăm nhà đứa cháu, tôi chợt nhớ và nhờ đứa cháu chỉ đường tìm đến nhà Thầy.
Quận 7 bây giờ đường phố thay đổi nhiều quá. Ruộng đồng đã trở thành đô thị. Vùng bên kia là khu đô thị mới Phú Mỹ Hưng, nhà cao tầng san sát nhìn như một góc Singapore thu hẹp. Thật là một vùng ngoại ô trù phú. Tôi tìm được nhà Thầy dễ dàng và thật may mắn: Thầy có nhà. Trước khi đi tôi đã cẩn thận gọi điện thoại báo tin, nhưng Thầy đi vắng không ai nhấc máy. Dù vậy tôi vẫn nhũ mình cứ đến, nếu không gặp Thầy thì lần sau mình trở lại. Và thật là duyên may, tôi đang dáo dác tìm số nhà thì Thầy ra mở cửa. Tôi suýt không nhận ra Thầy. Bẳng đi mấy năm không gặp, không ngờ Thầy tôi thay đổi quá nhiều. Tôi cất tiếng thưa: "Em chào Thầy ạ". Thầy nhận ngay ra tôi. Thầy thoáng bối rối vì cuộc viếng thăm bất ngờ của tôi. Tôi cũng bàng hoàng vì những nét đổi thay của Thầy. Thầy gầy, tóc cắt ngắn nhưng vẫn bạc phơ. Thầy không còn đeo cặp kính trắng như mọi khi, chỉ có giọng nói trầm ấm của Thầy là vẫn vậy.Thầy nói trong nhà chật hẹp, nóng nực nên đem ghế ra trước sân, dưới bóng mát của cây điệp vàng, hai thầy trò ngồi hàn huyên. Bây giờ tôi mới biết Cô đã đi dịnh cư ở Mỹ. Thầy ở lại với cô con gái duy nhất và 2 đứa cháu ngoại xinh xắn có nhà ở gần đó. Một điều thú vị là Thầy vẫn còn sử dụng chiếc xe hơi hiệu La Dalat mua lại của Thầy Đặng Quan Điện từ năm 2000 đến nay vẫn chạy tốt. Thầy hứa hôm nào có dịp sẽ chở các em học sinh NLS Bảo Lộc đi một vòng Sài Gòn Chợ Lớn. Bạn nào muốn đi thì đăng ký với Thầy nhé.
Khi nghe tôi nói muốn viết một bài về Thầy, Thầy ngập ngừng từ chối. Thầy nói mình không có gì xứng đáng để viết. Tôi cố thuyết phục Thầy rằng nhiều bạn bè ở xa không có dịp về VN, rất nhớ Thầy, muốn được biết chút thông tin về Thầy. Cuối cùng Thầy xiêu lòng. Thầy nói sẽ nhắc lại sơ lược quảng đường đời Thầy đã đi qua nghe cho vui thôi. Rồi Thầy sẽ viết những cảm nghĩ của mình đối với trường và học trò NLS Bảo Lộc gởi cho tôi sau. Ôi, tôi cũng chỉ mong được như vậy. Và Thầy kể:
Thầy sinh năm 1937 tại Sài Gòn, học trung học ở Trường Petrus Trương Vĩnh Ký. Năm 1955 đọc báo thấy đăng tin Trường Quốc Gia Nông Lâm Mục B'lao tuyển sinh khoá đầu tiên. Thầy nộp đơn và thi đậu vào Ban Mục Súc. Sau 3 năm học tập đến năm 1958 tốt nghiệp được bổ dụng về Trường Canh Nông Thực Hành Cần Thơ sau đổi tên là Trường Trung Học NLS Cần Thơ cùng với 2 anh Phan Kỳ Lân (Ban Canh Nông) và Lê Quang Hồng (Ban Thuỷ Lâm). Ở xứ Cần Thơ gạo trắng nước trong, dừa xanh rợp bóng, phụ trách các lớp huấn sự Chăn nuôi nhưng lòng Thầy vẫn nhớ xứ B'lao đồi núi sương mù nên xin chuyển vể trường NLS Bảo Lộc dạy môn Mục Súc và Thực Hành Nông Trại (1964).
Thầy nói đây là khoảng thời gian thú vị nhất trong cuộc đời dạy học của Thầy. Vậy mà đến năm 1968 Thầy lại phải rời Bảo Lộc một lần nữa để về lại Sài Gòn vì không thể cưỡng lại nghị định thuyên chuyễn Thầy về đảm nhiệm chức vụ Chủ Sự Phòng Khảo Thí ở Nha Học Vụ NLS. Có chuyện này Thầy không muốn kể nhưng tôi có nghe: khoảng năm 1969 Thầy được đi tu nghiệp ở Mỹ vế ngành Giáo Dục Nông Nghiệp, Thầy đi qua nhiều tiểu bang, tham quan các trường hướng nghiệp. Sau đó Thầy dạy trường Trung Cấp Nông Nghiệp Thủ Đức. Bản tính hiền lành chân thật, Thầy được học trò yêu kính và đồng nghiệp quí mến. Trong câu chuyện Thầy thường ca ngợi các bạn đồng môn, còn mình thì thật khiêm tốn không muốn kể nhiều về mình. Tôi nghe có lần Thầy được đi cùng phái đoàn các giáo sư Đại học và Trung Học chuyên nghiệp sang Liên xô tham quan về công tác giáo dục nông nghiệp. Đến năm 1985 Thầy xin nghỉ hưu. Từ đó công việc hàng ngày của Thầy là đọc sách báo và vui cùng 2 đứa cháu ngoại.
Tôi xin phép Thầy chụp vài tấm ảnh, Thầy rất sẳn lòng, và chiêu đải tôi ly kem thật ngon. Tôi chào Thầy ra về và hẹn sẽ trở lại để xin bài Thầy viết. Đến mùng 6 Tết, chị Độc Lập gọi rủ tôi đi thăm Thầy. Chị nói trong tập hồi ký của chị cũng có một đoạn viết về kỷ niệm buổi thực hành nông trại đầu tiên với Thầy mà chị muốn đọc cho Thầy nghe. Chúng tôi lại chở nhau sang Quận 7, vì có hẹn trước nên Thầy đã chuẩn bị đón chúng tôi. Thầy đem chiếc xe La Dalat ra dự định chở chúng tôi, nhưng tôi không biết gởi chiếc xe Honda của mình ở đâu nên đành lẻo đẻo chạy theo sau mà lòng ganh tỵ với chị Độc lập được ngồi trên xe với Thầy. Phải công nhận chiếc xe của Thầy được người đi đường trầm trồ vì Sài Gòn khó tìm được chiếc xe thứ 2 như vậy. Thầy muốn đưa chúng tôi sang chơi nhà cô con gái, chị Độc Lập muốn mời Thầy đi ăn món đặc sản của quán ăn ngoại thành. Cuối cùng Thầy quyết định đến siêu thị Lotte, một siêu thị hiện đại mới khai trương ở Quận 7. Thầy nói thức ăn nhanh ở đây ngon mà rẻ, tôi và chị Độc Lập thích thú đi theo Thầy. Thầy nhắc kỹ niệm năm 1969 Thầy sang Mỹ tu nghiệp gặp chị Độc Lập du học bên đó. Đã 40 năm, đi hơn nửa vòng trái đất, bây giờ thầy trò gặp lại nhau chan chứa nghĩa tình.
Bỏ lại ngoài kia cái nắng chiều gay gắt, ngồi trong cửa hàng mát lạnh máy điều hoà mà tôi vẫn thấy ấm lòng. Trong khi chờ đợi chị Độc lập mua bánh mì Hamburger và nước uống, tôi đọc lướt qua những dòng chữ Thầy ghi trong trang giấy học trò mà Thầy viết cho chúng ta. Bây giờ tôi viết lại cho các bạn đọc nhé:
Suốt hơn 30 năm làm nghề giáo, những kỹ niệm mà tôi yêu thích nhất vẫn thuộc về thời gian sống ở bảo Lộc. Khí hậu mát mẻ của núi rừng, hoa lá xanh tươi, với ngôi trường xinh xắn và nhất là trường có chế độ nội trú cho học sinh, nhà giáo viên cũng ở trong khuôn viên trường nên mọi sinh hoạt của Thầy trò gần gủi, thân mật. Đang dạy học ở Cần Thơ, mà nhớ trường Bảo Lộc nên tôi xin chuyển về. Nhưng rất tiếc thời gian tôi dạy ở Bảo Lộc quá ngắn. Năm 1968 nhận quyết định chuyển về Nha Học Vụ tôi rất buồn.
Tôi nhớ một buổi trưa hè năm 1978, tôi vào công viên Tao Đàn ngồi nghỉ trưa, tình cờ gặp một anh cựu học sinh NLS Bảo Lộc cũng vào đây để tránh cái nắng SaiGon gay gắt như đổ lữa trong giờ nghỉ giải lao để rồi lại tiếp tục công việc lao động chân tay. Anh ấy chào tôi. Ban đầu tôi không nhận ra học trò mình vì sau cuộc bể dâu, nỗi vất vả cuộc đời thường đã làm người ta thay đổi nhiều. Trò chuyện với anh tôi được biết tin tức của học trò cũ ở Bảo Lộc ai còn ai mất, ai ở lại Sài Gòn, ai về quê làm ăn, ai tiếp tục công việc, ai ra bán chợ trời... Tôi nhớ từng người một, khuôn mặt, tính tình, có khi còn nhớ cả vị trí của họ ngồi trong lớp nữa. Hình ảnh các em học sinh nô đùa, cười giởn trên giảng đường, trên Hoàng Hoa Lộ đầy ấp hoa vàng hiện ra trong tâm trí tôi. Khác hẳn với những trường khác mà tôi đã dạy. Trường NLS Bảo Lộc gắn bó chúng ta lại như một gia đình lớn. Thắm thoát đã 4 thập niên trôi qua, mà mỗi lần gặp lại nhau chúng ta đều vui vẻ, đối xử với nhau thật tốt. Tình thân thương NLS Bảo Lộc đã được thử thách qua thời gian. Có 1 điều mà tôi xin gởi đến các bạn NLS, đó là khi còn ở trường các em gọi tôi bằng Thầy. Nhưng nay các bạn đã trưởng thành, đã ra đời, xin hảy gọi tôi bằng anh hay bằng chú cũng được. Tôi nghĩ mình chưa xứng đáng...
Thầy ơi, chúng em xin phép đọc cho Thầy nghe câu:" Nhất tự vi sư, bán tự vi sư". Dù học một bài, thực hành nông trại một buổi, chúng em vẫn mãi là học trò của Thầy. Dù cuộc sống bộn bề, lo toan, mỗi người một số phận, một hoàn cảnh, nhưng khi có dịp ngồi lại với nhau thì Thầy trò chúng ta vẫn nhớ hoài những năm tháng cùng sống và học tập dưới mái trường thân yêu.
Nắng chiều đã tắt tự bao giờ, trong cái se lạnh của buổi hoàng hôn, chúng tôi tạm biệt Thầy. Nhìn theo dáng Thầy chúng tôi cảm thấy chạnh lòng. Chị Độc Lập rưng rưng nước mắt, còn tôi cũng nghẹn lời không nói được câu cám ơn Thầy đã tặng cho mỗi đứa một hộp bánh làm quà. Thầy ơi, chúng em ước rằng mùa xuân năm sau lại được đến thăm Thầy, được Thầy dẫn đi ăn Hamburger.... để cho bạn bè gần xa ganh tỵ. Chúc Thầy vui khoẻ an lành.
Và mùa xuân sẽ còn mãi với Thầy như tên gọi Thầy Trần Ngọc Xuân.
Bùi Thị Lợi
Sàigòn, tháng Giêng 2009