Trong những thi hào đời Đường, bốn người nổi danh nhất là hai người họ Đỗ (Đỗ Phủ, Đỗ Mục) và hai người họ Lý (Lý Bạch, Lý Thương Ẩn). Mỗi người có những cái hay riêng, nếu phân tích đối chiếu những bài thơ hay nhất của họ thì phải viết cả một cuốn sách. Bài này chỉ giới thiệu vài vần thơ độc đáo của Lý Thương Ẩn, một thi hào thích dùng những ẩn dụ và diễn tả gián tiếp những tình cảm và ý tưởng của ông. Theo như tôi biết, Lý Thương Ẩn là thi sĩ Trung Hoa cổ điển duy nhất thích dùng allegory và metaphor giống như Beaudelaire và Rimbaud.
Bài thơ “Mã Ngôi” của Lý Thương Ẩn miêu tả bi kịch Đường Minh Hoàng khi An Lộc Sơn làm phản. Trước đó, Dương Quý Phi đã ngoại tình với An Lộc Sơn và nhận họ An làm “con nuôi” để gã tự do vào cung thăm “dưỡng mẫu.” Nhờ Quý Phi đề bạt, Đường Minh Hoàng rất tin tưởng An Lộc Sơn và phong “con nuôi” làm Tiết Độ Sứ nắm binh quyền phương Bắc. Thấy thế lực mình đã mạnh, họ An bèn tự xưng là Yên Đế và đem quân đánh kinh thành, lấy danh nghĩa là đánh Dương Quốc Trung, anh họ Dương Quý Phi hiện đang làm Tể Tướng.
Biết quân Yên rất thiện chiến, tướng nhà Đường là Kha Thư Hàn cố thủ ải Đồng Quan, làm quân Yên không tiến được. Ý của Kha Thư Hàn là muốn chờ danh tướng nhà Đường là Quách Tử Nghi phối hợp hai mặt tấn công quân Yên thì mới có thể chiến thắng, nhưng Đường Minh Hoàng (đã già và không còn minh mẫn như hồi trẻ) bắt Kha Thư Hàn phải xuất quân ngay lập tức. Hậu quả là 20 vạn quân Đường bị đánh tan tành, An Lộc Sơn tiến thẳng vào Trường An, làm Hoàng Đế phải bỏ kinh đô chạy trốn vào đất Thục.
Trên đường bôn tẩu, tới Mã Ngôi thì toàn bộ quân lính nổi loạn đòi giết chết Dương Quốc Trung và Dương Quý Phi thì mới chịu giúp vua đi trốn. Sau khi Dương Quốc Trung bị giết, vua đích thân ra xin tha cho Quý Phi, nói rằng phi tử chỉ ở thâm cung không liên quan đến triều chính, nếu giết đi thì rất tội nghiệp. Quân sĩ đều hô vạn tuế nhưng vẫn đứng yên. Quần thần đều nói lòng quân đã biến, cần giết Quý Phi mới có thể yên lòng tướng sĩ. Vua phải gạt lệ để cho Quý Phi tự sát.
Các quan sợ Đường Minh Hoàng sau này nếu phục quốc thì sẽ trả thù họ vì đã bức tử Quý Phi, nên họ nhân tiện ép Đường Minh Hoàng thoái vị và lập thái tử nối ngôi. Còn An Lộc Sơn, sau khi làm phản “bố mẹ nuôi” tự xưng Hoàng Đế thì bị con ruột là An Khánh Tự giết chết để cướp ngôi, sự phân hóa này đã giúp nhà Đường chiến thắng. Đường Minh Hoàng rút cục cũng trở về Trường An, nhưng chỉ là Thái Thượng Hoàng ngồi chơi xơi nước với một ít cung nữ già hầu hạ, không còn uy quyền gì nữa. Có phải ông thông cảm sự ngoại tình của Quý Phi vì ông quá già không thể làm nàng thỏa mãn, cho nên ông vẫn thương nhớ Quý Phi khôn nguôi? Tuy nhiên, nhiều phần chắc là ông nuôi ảo tưởng không muốn nhìn thực tế phũ phàng, vẫn tin là Quý Phi không ngoại tình và phải chết vì những tin đồn ác ý. Cũng có thể ông quá cô đơn buồn bã trong tuổi già, tâm lý ông tự động xóa bỏ những lầm lỗi của Quý Phi và chỉ còn nhớ đến những năm tháng hạnh phúc với nàng mà thôi.
Bài thơ “Mã Ngôi” của Lý thương Ẩn có hai câu 5-6 như sau:
Thử nhật lục quân đồng trú mã,
Đương thời thất tịch tiếu Khiên Ngưu.
(Ngày nọ, sáu đạo quân đều dừng ngựa [đòi giết Dương Quý Phi], thời đó, đêm thất tịch cười sao Khiên Ngưu). Câu sau nhắc đến lời thề đêm thất tịch (ngày 7 tháng 7 Âm lịch) của vua và Quý Phi: hai người đã nhìn sao Khiên Ngưu và thề sẽ đời đời kiếp kiếp làm vợ chồng sống chết có nhau. Nhưng cả hai cùng không giữ được lời thề: Quý Phi đã ngoại tình, còn vua để cho Quý Phi chết để mình được sống.
Hai câu thơ của Lý Thương Ẩn ngoài ý nghĩa sâu sắc, còn có sự đối chọi rất tài tình: “thử nhật” đối với “đương thời,” “lục quân” đối với “thất tịch,” còn “trú mã” (dừng ngựa) cũng đối rất chỉnh với tên sao Khiên Ngưu (dắt trâu). Như vậy tại Mã Ngôi, biến cố “dừng ngựa” đã làm cho lời thề “dắt trâu” hoàn toàn tan vỡ, khiến cho đêm thất tịch cười sao Thiên Ngưu khi nhớ đến những nguyện ước năm xưa của Đường Minh Hoàng và Dương Quý Phi: “Tại thiên nguyện tác tỵ dực điểu, tại địa nguyện vi liên lý chi” (Trên trời nguyện làm chim liền cánh, dưới đất nguyện làm cây liền cành).
xxx
Trong một bài thơ Vô Đề của Lý Thương Ẩn có 4 câu thơ cuối như sau:
Lạp chiếu bán lung kim phỉ thúy,
Xạ huân vi độ tú phù dung.
Lưu lang dĩ hận Bồng Sơn viễn,
Cánh cách Bồng Sơn nhất vạn trùng.
(Ngọn nến chiếu lung linh sợi kim tuyến và màu ngọc phỉ thúy, mùi xạ hương thoang thoảng trên hình thêu hoa phù dung. Chàng Lưu đã hận phải xa Bồng Sơn, lại càng xa cách Bồng Sơn vạn trùng).
Trong hai câu đầu, không có chữ ĐÊM mà đọc thấy cảnh ban đêm, không có chữ CHĂN GỐI mà có tượng chiếc chăn màu ngọc phỉ thúy khâu bằng kim tuyến và chiếc gối thêu hoa phù dung, không nhắc đến NGƯỜI ĐẸP mà thấy có hương, có hoa, có ngọc, là biết có mỹ nhân tuyệt thế. Tả “những đêm chăn gối với người đẹp” một cách gián tiếp và nhã nhặn như vậy, chỉ có Lý Thương Ẩn mới làm được. Hai câu cuối nhắc đến chàng Lưu đã lìa xa Thiên Thai, hối tiếc vì không bao giờ còn gặp lại tiên nữ, đó là nói đến mối tình của tác giả với người đẹp đã tan vỡ và không còn những đêm thần tiên với nàng nữa. Theo truyền thuyết, bài thơ Vô Đề này nói về cuộc tình lãng mạn của họ Lý với một nữ đạo sĩ rất xinh đẹp sau khi vợ ông đã mất.
XXX
Nhiều người cho rằng bài thơ “Cẩm Sắt” (Đàn Gấm) là bài thơ hay nhất và cũng khó hiểu nhất của Lý Thương Ẩn, và tôi hoàn toàn đồng ý. Bài thơ này diễn tả “ý tại ngôn ngoại” rất tài tình, lời thơ đạt nghệ thuật cao nhất của thể loại thơ Đường. Người không hiểu những ý nghĩa hàm chứa cũng có thể thấy bài thơ hay, còn hiểu được thì sẽ thấy đây là một kiệt tác có một không hai.
Cẩm sắt vô đoan ngũ thập huyền,
Nhất huyền nhất trụ tứ hoa niên.
Trang sinh hiểu mộng mê hồ điệp,
Vọng đế xuân tâm thác đỗ quyên.
Thương hải nguyệt minh châu hữu lệ,
Lam Điền nhật noãn ngọc sinh yên.
Thử tình khả đãi thành truy ức,
Chỉ thị đương thời dĩ vọng nhiên.
(1-2) Đàn gấm chẳng biết sao mà có năm mươi dây; mỗi dây, mỗi trụ đều mang ý tứ thanh xuân. (3-4) Trang Tử buổi sáng nằm mơ mình hóa bướm; lòng xuân Thục Đế gửi vào chim đỗ quyên.
(5-6) Trăng sáng biển xanh, hạt châu như rơi lệ - nắng ấm chiếu ngọc Lam Điền như bốc khói.
(7-8) Tình này đã sớm thành nỗi nhớ về dĩ vãng, cho đến bây giờ chỉ còn lại đau thương.
Bài thơ này nói về đàn và nhạc: hai câu 1-2 nói âm nhạc gợi nhớ những kỷ niệm tuổi thanh xuân và giữ cho tâm hồn tươi trẻ. Hai câu 5-6 dùng những hình ảnh thơ mộng để diễn tả sự trong trẻo thánh thót của những nốt cao và sự đầm ấm khoan hòa của những nốt thấp, hai câu 7-8 nói về cảm nghĩ riêng của tác giả khi âm nhạc làm ông nhớ lại một thời hạnh phúc trong dĩ vãng không bao giờ tìm lại được. Lý Thương Ẩn mặc dù đa tình nhưng rất yêu thương vợ, hai câu cuối có thể diễn tả nỗi nhớ của ông về người vợ xinh đẹp đã mất sớm, hoặc là nỗi nhớ về mối tình lãng mạn với nữ đạo sĩ nhan sắc tuyệt trần. Cũng có thể ông thương nhớ cả hai người phụ nữ đã cho ông những tháng ngày hạnh phúc nhất trong đời ông.
Tuy nhiên, hai câu 3-4 khó hiểu vì đề cập hai người hoàn toàn trái ngược nhau: Trang Tử khi còn sống đã thoát tục, Vọng Đế (còn gọi là Thục Đế) sau khi chết vẫn lưu luyến cõi trần, hồn hóa thành chim đỗ quyên (chim cuốc) kêu than vì mất nước. Hai người này thì có liên quan gì đến âm nhạc? Lúc trẻ đọc bài này, tôi thấy lời thơ rất hay nhưng không hiểu Lý Thương Ẩn muốn nói gì với hai câu 3-4, và chẳng thấy ai hiểu để giải thích cho tôi biết.
Khi tôi hơn 30 tuổi, tình cờ tôi đọc nhận xét về âm nhạc của nhạc sĩ Richard Wagner: “Âm nhạc vừa làm tâm hồn tôi bay bổng thoát khỏi những ràng buộc thế gian, vừa làm cho tôi thiết tha yêu mến cuộc đời.” Lúc đó, tôi mới nhận ra Lý Thương Ẩn đã ám chỉ hai tác dụng trái ngược của music: Âm nhạc có thể làm con người lâng lâng thoát tục như Trang Tử, đồng thời cũng làm con người ràng buộc thiết tha với cõi trần như Vọng Đế. Cảm nghĩ về nhạc của Wagner và họ Lý giống nhau, chỉ khác là nhạc sĩ Đức nói trực tiếp còn thi hào Trung Hoa diễn tả gián tiếp.
Âm nhạc trên thế giới rất phong phú đủ loại khác nhau. Nhạc tôn giáo khiến con người hướng về Chúa, Phật, Thượng Đế, nhạc cổ điển Tây Phương và nhạc cổ truyền Á Đông làm tâm hồn con người rung động phát sinh tình cảm, nhạc hiện đại (rock, pop, rap, …) có phần thô tục nhưng cũng có những giá trị riêng và hợp với giới trẻ. Từ thời Lý Thương Ẩn đến nay âm nhạc đã phát triển rất nhanh và trở nên rất đa dạng, nhưng hai ảnh hưởng căn bản của âm nhạc mà Lý Thương Ẩn và Richard Wagner đã đề cập vẫn không thay đổi.
Có thể nói bài “Cầm Sắt” là “thi trung hữu nhạc”, một bài thơ dùng chữ rất điêu luyện với những âm hưởng tuyệt vời, chỉ dùng hai câu 5-6 mà diễn tả được tiếng đàn vừa trong trẻo vừa đầm ấm, làm phát sinh tình cảm lãng mạn và tạo nên ý thơ. Độc đáo nhất là hai câu 3-4 lời hay ý đẹp, hàm chứa nhận định về ảnh hưởng của âm nhạc vừa làm tâm hồn con người cao thượng hơn, vừa làm con người gắn bó với cuộc đời và làm cuộc sống họ sinh động hơn.