Một số đặc tính Sinh Học của mèo
Tiền Lạc Quan
Năm Âm lịch năm nay, 2023, là năm Quý Mão, con thú biểu trưng cho Chi Mão hay Mẹo là con mèo.
Có lẽ mọi người đều quá quen thuộc với con mèo …
Nhưng “Con mèo là dì con cọp”. Hơn nữa, là dân Sinh Học, Đại Học Khoa Học Sài Gòn, ta cũng nên tìm hiểu sơ lược về một số đặc tính Sinh Vật Học của mèo.
Phân loại
Lớp (Class): Mammalia – Lớp Thú Hữu Nhũ
Lớp phụ (Phân lớp, Subclass): Theria – Phân lớp Thú đẻ con
Phân thứ lớp (Infraclass): Placentalia – Thú có nhau thai
Bộ (Order): Carnivora – Thú ăn thịt
Bộ phụ (Phân bộ): Feliformia – Dạng “Mèo”
Họ (Family): Felidae
Giống (Genus): Felis
Loài (Species): Felis catus L.
Mô tả
Mèo có tên khoa học là Felis catus, bao gồm mèo nhà (domestic cat) và mèo rừng hay mèo sống hoang dã (feral cat).
Loài mèo xuất hiện từ Kỷ Oligocene khoảng 25 triệu năm về trước.
Nguồn gốc các giống mèo hiện nay được cho là từ loài mèo rừng Phi Châu Felus silevestris lybica.
Nhiều di vật khai quật được trong những ngôi mộ cổ ở Phi Châu, cùng nhiều hình vẽ tìm thấy trong các hang động cho thấy mèo đã được thuần hóa sinh sống với loài người hơn 9 ngàn năm.
Hình dáng
Kích thước và trọng lượng:
- Mèo đực nặng trung bình từ 3,8kg đến 6,2kg, chiều dài thân mình từ 448mm đến 617mm và chiều dài đuôi từ 235mm đến 335mm.
- Mèo cái nhỏ con hơn, nặng từ 2,5kg đến 4,4kg, chiều dài thân mình từ 380mm đến 555mm và chiều dài đuôi từ 230mm đến 316mm.
Bộ lông mèo
- một số loại mèo không lông hay lông ngắn
- một số loại có bộ lông dài
- nhiều loại mèo không đuôi
Màu sắc bộ lông
Khá nhiều màu sắc riêng biệt: trắng, đen (mèo mun), vàng, vàng nâu, xám tro, … hoặc bộ lông có nhiều màu, như mèo vá, mèo tam thể, mèo mướp, …
Bộ xương
Lateral view of the cat skeleton. CC-BY Sisina Macchiarelli & Daniel Saugar
https://courses.lumenlearning.com/suny-oneonta-comparativeanatomy/chapter/chapter-1/
Xương sống: 53 đốt sống (ở người có 34)
- 7 đốt sống cổ (Cervical vertebrae, neck bones)
- 13 đốt sống phần ngực (Thoracic vertebrae), mỗi đốt có 2 xương sườn ở hai bên
- 7 đốt sống lưng (Lumbar vertebrae)
- 3 đốt hông (Sacral vertebrae)
- từ 19 đến 21 đốt sống đuôi (Caudal vertebrae, tail bones)
Đuôi dài để giữ thăng bằng khi đi chuyển.
Không có các xương đòn cứng như những động vật bốn chân khác
- Có thể chui qua các lỗ có kích thước nhỏ
- Có biệt tài giữ thăng bằng: bất cứ ở tư thế nào khi bị rơi từ trên cao, thí dụ ta ném một con mèo từ trên cao xuống đất, thì 4 chân mèo luôn luôn hướng xuống đất, rồi 2 chân trước chạm mặt đất một cách nhẹ nhàng.
- Mèo có thể chạy nhanh đến 50 km/giờ
- từ tư thế đứng yên, mèo có thể nhảy cao đến 2,5 m
Hộp sọ, xương sọ
- Hộp sọ gồm 18 xương, kể cả 2 xương hàm dưới to lớn
- Xương hố mắt khá to
Bộ răng
Răng sữa
Sau khi sinh thì 7 ngày sau mọc răng sữa, gồm 26 răng có hình dáng khác nhau
- Răng cửa nhỏ
- Răng nanh hàm trên cong và mãnh khảnh
- Răng nanh hàm dưới thẳng
- Răng hàm trên và dưới có kích thuớc nhỏ hơn các răng vĩnh viễn
Răng vĩnh viễn
- 12 răng cửa
- 4 răng nanh
- 10 răng tiền hàm
- 4 răng hàm
Móng vuốt
Như hầu hết các loài trong họ Felidae, các móng vuốt nhọn, sắt bén của mèo có thể thu và xếp lại được (protractable claws) trong lớp da và lông đệm các ngón chân. Tùy trường hợp, thí dụ lúc săn mồi, chụp mồi, đùa giỡn, …, mèo có thể giương một hay nhiều móng vuốt.
Tai mèo - Thính giác
- Mèo rất thính tai.
- Mèo vểnh vành tai hướng về phía có tiếng động. Mỗi vành tai mỗi bên có thể vểnh theo một hướng khác nhau.
- Hai vành tai vểnh về phía sau khi sợ hãi hay giận dữ, hoặc khi nghe thấy tiếng động từ phía sau
- Mèo có thể nghe được những âm thanh có độ cao hơn 2 décibel
Mắt mèo
Màu tròng mắt
- Có nhiều màu sắc, nhiều nhất là màu vàng, màu cam và màu xanh lá cây
- Giống mèo Xiêm (Siamese - Thái Lan) có tròng mắt màu xanh dương
- Thị trường của mắt mèo là 200o (thị trường mắt ở người là 180o)
(Thị trường là khoảng không gian mà mắt bao quát được khi nhìn cố định vào một điểm)
Thị lực
- Thị giác của mèo rất tốt, có thể nhìn thấy được trong bóng tối
- Tầm nhìn xa tốt nhất vào ban đêm, nhưng rất kém vào ban ngày
- Con ngươi của mắt mèo có thể tự điều chỉnh với ảnh sáng. Vào ban ngày hay nơi có nhiều ánh sáng, tùy cường độ ánh sáng, tròng đen tự thu hẹp lại cho đến chỉ còn một vạch thẳng đứng.
Khứu giác của mèo cũng nhạy gấp 14 lần ở người
Một số đặc tính sinh lý
- nhịp tim bình thường: 120 đến 140 nhịp / phút (ở người, bình thường từ 60 đến 100 nhịp / phút)
- nhịp thở: 16 đến 40 nhịp / phút (ở người, bình thường từ 12 đến 20 nhịp / phút
- Thân nhiệt trung bình từ 38oC đến 39oC (loài người 37oC)
- Mèo rất “lười biếng”. Thời gian ngủ từ 12 đến 16 giờ mỗi ngày để giữ gìn năng lượng.
Sinh sản
- Tuổi trưởng thành sinh dục của mèo đực khoảng từ 12 đến 14 tháng tuổi, trong khi tuổi trưởng thành sinh dục của mèo cái có thể sớm hơn, khoảng từ 10 đến 12 tháng, và chúng có khả năng sinh sản ngay trong năm đầu khi đã trưởng thành sinh dục.
- Thời kỳ sinh sản vào cuối mùa Xuân, vào khoảng tháng Ba Âm lịch,
- Thời kỳ sinh sản của mèo rừng tại Úc Châu thường từ tháng Chín đến tháng Ba dương lịch.
- Khi nghe “tiếng gọi tình yêu” của mèo đực, mèo cái sẽ tìm đến để bắt cặp, trong thời gian 2-3 ngày.
- Thời gian mang thai khoảng 100 ngày, ở mèo rừng khoảng 9 tuần.
- Mỗi lứa từ 2 đến 6 mèo con, thường là 4 mèo con.
- Sau khi sinh, mèo con được cho bú khoảng từ 10 đến 12 tuần. Mèo con sống chung với mèo mẹ đến khoảng từ 5 đến 7 tháng tuổi thì tách rời khỏi mẹ và sống đời sống đơn độc.
- Tuổi thọ trung bình từ 14 đến 20 năm. Tuổi thọ của mèo cái cao hơn của mèo đực từ 1 đến 2 năm.
Săn mồi
Mèo rừng săn bắt mồi vào ban đêm, cả ngày chúng nghỉ trong các hang thỏ, các bộng cây hoặc những nơi ẩn náo tương tự. Mèo rừng có thể săn bắt tất cả các loài động vật, từ động vật không xương sống, đến những loài lưỡng thế, bò sát, cá, chim, ... đến những động vật hữu nhũ. Chúng có thể săn bắt những con mồi ở dưới đất hoặc có thể leo cây để săn bắt những động vật trên cây. Mèo rừng thường săn bắt những con mồi còn sống, phần nhiều là những loài thú có kích thước nhỏ. Nhưng cũng có những lúc con mồi sống khan hiếm, không đủ đáp ứng nhu cầu, thì mèo rừng cũng có thể tìm những xác thú rừng, có khi đã thối rữa
Môi trường sinh sống của mèo rừng
Mèo rừng hay mèo sống hoang dã có thể sinh sống ở nhiều môi trường khác nhau, từ những sa mạc khô cằn, những vùng đồi núi, cho đến những rừng mưa nhiệt đới. Nhưng chúng thường thích sinh sống ở những rừng thưa hoặc những đồng cỏ khô ráo.
Mèo rừng có khả năng sống còn trong những điều kiện khô hạn nhờ chúng không cần uống nước thường xuyên. Lượng nước trong cơ thể con mồi đã đủ đáp ứng nhu cầu nước của cơ thể mèo.
Mèo rừng có thể thích ứng để tồn tại trong môi trường có nhiệt độ lên đến hơn 52oC.
Cũng như loài cọp, mèo rừng có lối sống đơn độc. Giang sơn của một con mèo trưởng thành tùy thuộc phần lớn vào số lượng thực phẩm (con mồi) trong vùng có phong phú hay không. Khi đã chiếm cứ một vùng đất, một con mèo rừng thường lưu lại đó trong nhiều năm. Một cuộc khảo sát vùng rừng thuộc phía tây Tiểu Bang New South Wales cho thấy mèo rừng đực có thể chiếm cứ một vùng rộng đến 280 mẫu tây (ha), trong khi vùng chiếm cứ của mèo cái nhỏ hơn, chỉ khoảng 150 mẫu tây.
Cũng như loài cọp, mèo rừng cũng đánh dấu khu vực chúng chiếm cứ bằng mùi hương đặc trưng của từng con mèo. Mùi hương đặc trưng này phát xuất từ một số dịch chất được tiết ra từ những hạch nằm quanh vùng hậu môn của mèo.
Phân bố
Mèo rừng được phân bố trên khắp các lục địa: Phi Châu, Âu Chậu Á Châu, Mỹ Châu.
Riêng Lục địa Úc Châu không có mèo. Mèo không phải là loài động vật có tự nhiên (local fauna) trên Lục Địa Úc Châu. Nhiều tài liệu cho rằng mèo được du nhập vào Lục Đia Úc Châu khi người Âu Châu đến định cư vào Thế Kỷ thứ 18.
Mèo rừng ở lục địa Úc Châu thật ra cũng là loại mèo nhà đã “thoát khỏi nhà”, ra ngoài rừng, rồi dần dần sinh sôi nẩy nở tràn lan ...
Mèo rừng (Feral Cat) ở Úc Châu
Photo: CDU Faculty of Science & Technology (Teaching material)
Một số tài liệu tham khảo
Cat Anatomy
https://en.wikipedia.org/wiki/Cat_anatomy
Abott, Ian (2002). Origin and spread of the cat, Felix catus, on mainland Australia, with a discussion of the magnitude of its early impact on native fauna.
- Feral Cats