Bệnh phong (dân gian còn gọi là bệnh hủi, bệnh cùi) là một trong những bệnh lý lâu đời, ghi nhận từ năm 1400 TCN. Bệnh hủi không gây chết người trực tiếp, nhưng gây ra những biến dạng ở mặt, bàn tay, bàn chân,… làm cho người bệnh bị kỳ thị, phân biệt đối xử. Nguyên nhân gây bệnh là do trực khuẩn phong (trực khuẩn Hansen, hay Mycobacterium leprae). Mời bạn đọc cùng Docosan tìm hiểu rõ hơn về vấn đề này trong bài viết dưới đây.
Bệnh hủi (tên thường gọi là bệnh phong) là một trong những căn bệnh truyền nhiễm xuất hiện từ lâu đời. Theo Y văn Trung Quốc ghi nhận mô tả bệnh phong từ những năm 400 trước công nguyên. Bệnh gây ra những biến dạng tại khuôn mặt, bàn tay, bàn chân…
Vi khuẩn gây ra bệnh có tên gọi là Mycobacterium leprae, do một nhà khoa học người Na uy tìm ra. Việc ra đời hóa trị liệu từ năm 1982 đã giúp tỷ lệ lưu hành bệnh phong giảm đáng kể. Việt Nam cũng đạt tiêu chuẩn loại trừ bệnh phong của WHO từ năm 1995, tỷ lệ lưu hành bệnh phong lúc bấy giờ là 0,9/10000. Sau đó chương trình “thanh toán hoàn toàn bệnh phong” ra đời trên cơ bản đã giúp nước ta hoàn toàn đẩy lùi được căn bệnh này.
Trực khuẩn phong (Mycobacterium leprae) có dạng hình que, tồn tại trong tế bào nội mô của mạch máu hay các tế bào đơn nhân. Vi khuẩn không tạo vỏ, không lông, không sinh nha bào. Bởi vì đây là chủng vi khuẩn kháng axit nên để quan sát hình ảnh của chúng phải nhuộm theo phương pháp Ziehl – Nelsen, Kinyoun hay nhuộm huỳnh quang chứ không thể quan sát bằng nhuộm gram thông thường.
Khả năng sinh độc tố của vi khuẩn gây bệnh hủi chưa được xác định, một số tác giả ghi rằng trực khuẩn phong có thể sinh nội độc tố và một số chất gây dị ứng đối với cơ thể.
Trong cơ thể người, M. leprae có sức đề kháng rất cao, khi bị đưa ra bên ngoài vi khuẩn chết đi nhanh chóng.
Các nghiên cứu đã chỉ ra vi khuẩn gây bệnh hủi có khả năng lây truyền qua đường hô hấp, lây qua da (tiếp xúc).
Đường hô hấp là đường được chú ý nhất, một số nghiên cứu thử nghiệm trên chuột cho thấy khả năng lây bệnh của trực khuẩn phong qua đường không khí.
Đường lây qua da hiện vẫn chưa được chứng minh bằng thực nghiệm. Nhiều tác giả cảnh báo khả năng vi khuẩn phong được bài xuất qua dịch tiết của ổ loét có thể lây truyền sang người khác qua các vết thương trầy xước da.
Bệnh hủi khởi phát âm thầm, diễn tiến mạn tính. Một trong những yếu tố thuận lợi khiến bệnh phát triển đó chính là sự giảm nhiệt độ. Vi khuẩn xâm nhập đi vào hạch bạch huyết rồi đến máu. Khi cơ thể có sức đề kháng với M. leprae thì vi khuẩn sẽ bị giết chết. Tuy nhiên khi điều kiện bản thân không tốt như suy giảm miễn dịch, hoàn cảnh sống khó khăn, không được chăm sóc y tế tốt thì diễn tiến bệnh sẽ không còn âm thầm mà trở nên cấp tính.
Tổn thương của bệnh xảy ra ở các vị trí như da, dây thần kinh ngoại biên, mũi, hầu, thanh quản, mắt, tinh hoàn. Tổn thương da trong bệnh hủi là những vết nhạt màu, mất cảm giác đau, các ban đỏ lan tỏa hoặc rời rạc, các nốt thâm nhiễm đường kính 1-5 cm. Một số tổn thương thần kinh khác được ghi nhận đó là viêm dây thần kinh, dị cảm, mất cảm giác, loét dinh dưỡng, tiêu xương, co rút ngón tay ngón chân.
Nếu người bệnh không được can thiệp điều đúng lúc thì có thể xảy ra các biến chứng nguy hiểm:
Chân tay bị hủy hoại dần
Tổn thương thần kinh ngoại biên khiến chân tay hạn chế cử động, cảm giác cứng lại, co quắp
Bàn chân bị thủng, loét
Giác mạc bị tổn thương, mờ đục, tăng nhãn áp, mắt khô, lâu dài gây khiếm thị, mù lòa
Teo dương vật, giảm thiểu sản xuất tinh trùng, nên gây vô sinh ở nam
Rụng lông mày, lông mi.
Phòng bệnh:
Hiện chưa có vaccine phòng bệnh, do đó phát hiện và điều trị bệnh là phương pháp cốt lõi trong phương pháp phòng bệnh. Trẻ em sống trong gia đình có người thân bị bệnh hủi nên được điều trị kháng sinh dự phòng cho đến khi việc điều trị cho người thân mắc bệnh hiệu quả, không còn khả năng lây nhiễm. Thử nghiệm vaccine BCG và lepromin cũng đang được nghiên cứu người có bệnh phong và những người tiếp xúc trong vùng dịch. Ngoài ra, chúng ta cần phải nâng cao thể trạng, cải thiện điều kiện sống.
Điều trị:
Cần phải phối hợp thuốc để tăng hiệu quả điều trị và tránh được nguy cơ kháng thuốc. Thuốc thường được dùng để điều trị bệnh hủi là dapson-DDS (diamino diphenyl sulfone), DADDS (diacetyl diamino diphenyl sulfone), clofazimine, rifampin,…
Kết hợp vật lý trị liệu, phục hồi chức năng, phòng tránh phế liệt. Đồng thời địa phương cần phải có kế hoạch theo dõi những người bệnh và những người tiếp xúc gần.
Bệnh hủi nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời, bệnh có thể để lại những tàn tật, di chứng trầm trọng.