Trẻ em Châu Phi, Giuse Nguyễn Văn Xuyên, SVD

  

Người đức độ để gia sản tới đời con đời cháu.

Cn 13,22a

1.  Gii thiu

 

Nhiều thế kỷ khai thác vô tội vạ đã tàn phá sự sống trên hành tinh Trái Đất, và sự sống còn của cả con người và môi trường nói chung đang bị đe dọa.[i] Những thách thức sinh thái không còn thuần túy là vấn đề thảo luận nữa; chúng đòi hỏi một phản ứng đáng tin cậy từ cộng đồng toàn cầu. Các câu trả lời không thể được tìm thấy nếu không tích hợp các suy tư về xã hội, văn hóa, kinh tế, chính trị, tâm linh và tôn giáo của nhân loại trong các biểu hiện bối cảnh khác nhau của nó. 

Các đại diện của thế giới quan và quan điểm về sự sống cần phải đọc lại sách thánh và các tài liệu tôn giáo khác của họ để tái khám phá và giải thích lại chúng trong bối cảnh của những thách thức sinh thái ngày nay. Đây là cách duy nhất để tìm ra những hiểu biết mới cho tương lai. Những điều đó sẽ trở thành những phương cách có khả năng nuôi dưỡng, làm phong phú và mang lại ý nghĩa cho cuộc sống của con người thời nay.

 

 

2.  Suy tư v môi trường t Châu Phi

 

 Ngay trong năm 1985, một quan điểm của Châu Phi về Sinh thái học – một nguồn lực chưa được khai thác của chủ nghĩa ‘Pan-Vitalism’[ii] ở Châu Phi đã được xuất bản.  Tác giả người Ghania viết:

 

Một trong những vấn đề mà Châu Phi đương đại phải đối mặt là thảm họa sinh thái. Người Châu Phi phải đối mặt với một cuộc khủng hoảng trong mối quan hệ của họ với thiên nhiên. Nhiều năm quản lý sinh thái yếu kém: chăn thả quá mức, phá rừng, săn bắn tràn lan và vô tổ chức, cùng nhiều sai lầm tương tự với quy mô đủ lớn, đã đặt toàn bộ lục địa Châu Phi trên bờ vực của thảm họa sinh thái hoàn toàn. Châu Phi không thể tự nuôi sống mình được nữa.[iii] 

 

Emmanuel Asante giải thích rằng “pan-vitalism là niềm tin rằng mọi thứ trong vũ trụ đều có sự sống... Khái niệm pan-vitalism của Châu Phi cho thấy rằng không có gì trong vũ trụ là vô tri vô giác đối với người Châu Phi”.[iv] Tác giả tiếp tục chỉ ra rằng suy tư thần học trong thế giới quan Châu Phi là một phần của việc vượt qua cuộc khủng hoảng sinh thái. Do đó, tác giả có thể khẳng định:

 

Ngày nay, vấn đề môi trường đã trở thành mối quan tâm không chỉ của khoa học tự nhiên mà còn của ngành thần học. Do đó, các nhà thần học Châu Phi cần phải khai thác viên ngọc quý này của chủ nghĩa pan-vitalism, một viên ngọc quý từ di sản Châu Phi của riêng họ như là đóng góp đối với giải pháp cho các vấn đề sinh thái mà Châu Phi đương đại phải đối mặt.[v]

Asante nhận xét thêm: “Tuy nhiên, tâm điểm của thế giới quan của Châu Phi là một viên ngọc tôn giáo, đang chờ đợi tiềm năng của niềm tin vào chủ nghĩa pan-vitalism, qua sự tăng cường phê phán và thần học của nó, có thể góp phần vào giải pháp cho thảm họa này”.[vi]  

Evaristo Chuya, một nhà thần học Zambia viết: “Ở vùng cận Sahara của Châu Phi, các lập luận sinh thái luôn kêu gọi sự cân bằng giữa mong muốn của con người và cân bằng môi trường sao cho các giá trị văn hóa và tôn giáo truyền thống có khả năng điều chỉnh các động lực đáng ngại để tránh suy thoái thêm hệ sinh thái”.[vii] Theo ông, “Bất chấp ảnh hưởng bên ngoài đối với thế giới quan Châu Phi và có lẽ mức độ nghèo đói nội bộ dẫn đến việc bỏ qua một số hành vi bị cấm trước đây, đã có rất nhiều nỗ lực để đối phó với tác động của suy thoái sinh thái và biến đổi khí hậu.”[viii]  

 Chuya tin tưởng rằng “người Châu Phi cần nỗ lực hợp tác để chống lại suy thoái sinh thái. Câu trả lời cho tương lai của các giá trị sinh thái nằm trong tay của chính người Châu Phi: sự trao quyền, đào tạo và cảm thức sở hữu”.[ix]  

 

 

3.  Đô th hóa, công nghip hóa, phong trào di cư và khng hong sinh thái

 

Chúng ta không thể suy tư về sinh thái một cách có ý nghĩa nếu chúng ta không nhìn vào hậu quả của đô thị hóa, công nghiệp hóa và di cư trong các xã hội Châu Phi và tác động của các phong trào mạnh mẽ này đối với mối tương quan của người Châu Phi với thiên nhiên.  

“Đô thị hóa gây ra ô nhiễm khu vực nông thôn... Các dự án phát triển nông thôn về lương thực hoặc cây trồng trở nên thất bại, bởi vì giới cầm quyền ở thành thị trả cho nông dân mức giá quá thấp nên không thể khuyến khích việc sử dụng tài nguyên tốt hơn”.[x] 

Đô thị hóa và công nghiệp hóa đã gây ra sự suy giảm dân số nông thôn rất lớn, đó là làn sóng di cư khổng lồ về các thành phố bên trong đất nước của họ, nhưng thậm chí vượt ra ngoài biên giới quốc gia đến các thành phố trên toàn thế giới.

 

Dòng thác lũ liên tục của những người di cư đô thị ở Châu Phi tạo ra một loại xói mòn xã hội làm mở rộng khoảng cách giữa người giàu và người nghèo. Người di cư trở thành một người không phải người, một cá nhân dư thừa, một kẻ xâm nhập bất hợp pháp và không mong muốn trong mắt của những cư dân thành thị giàu có.[xi]

 

Theo nhận xét quan trọng này, câu hỏi về suy tư về sinh thái Kitô Giáo phải bao gồm câu hỏi về khủng hoảng sinh thái ở các nước Châu Phi trong mối tương quan với quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa và di cư. Đối với các Kitô hữu Châu Phi, câu hỏi này không thể tách rời khỏi thế giới quan tôn giáo của họ. Do đó, trọng tâm của suy tư sẽ là vấn đề về một sự hiểu biết đầy đủ và thực hành loan báo Tin Mừng trong các Giáo Hội Châu Phi và các cộng đồng Kitô Giáo.

 

Tuy nhiên, không có cách nào để đảo ngược lại xu hướng đô thị hóa. ... Nhiệm vụ của Giáo Hội tại Châu Phi là truyền giáo cho một lục địa đang trong tiến trình đô thị hóa nhanh chóng. Nếu Tin Mừng của Chúa Kitô muốn tạo ra một tác động lâu dài ở Châu Phi, đó sẽ là vì nó đã giúp quá trình đô thị trở nên ít nguy hiểm hơn và ít bất công hơn, nhân bản hơn và sáng tạo bền bỉ hơn. Nó sẽ mang lại cho thành thị Châu Phi một linh hồn.[xii]

 

Nữ triết gia và thần học gia người Senegal, Anne Beatrice Faye, trong bài viết nghiên cứu có tựa đề “Khái niệm sáng tạo trong thế giới quan Châu Phi” đã đặt ra câu hỏi: Liệu Thông điệp Laudato Si’ có phải là một món quà cho Châu Phi không? Trong suy tư của mình, Faye nhìn vào cách mà khái niệm sáng tạo ở Châu Phi có thể giúp khôi phục mối quan hệ giữa con người và môi trường tự nhiên cũng như môi trường kinh tế, xã hội và tinh thần. Faye chỉ ra tầm quan trọng của việc tôn trọng thiên nhiên và kêu gọi nhận thức lớn hơn nhiều về mối liên hệ giữa chúng ta và hệ sinh thái của chúng ta như một vị trí và nguồn sinh sản; một xã hội trong đó có hòa bình không chỉ giữa con người, mà giữa tất cả các dạng sống; đấu tranh chống mọi hình thức bá quyền, thống trị, quyền lực và miệt thị; và tôn trọng thiên nhiên. Đối với Faye, cách Châu Phi trở thành một phần của sáng tạo là một biểu hiện chính của thế giới quan Châu Phi giúp đánh giá tác động của hành động của con người đối với hệ sinh thái và điều chỉnh mối quan hệ bất đối xứng của con người với thiên nhiên bằng cách biến nó thành mối quan hệ cộng sinh. Faye tuyên bố rằng “ở Châu Phi, mọi người tin rằng họ có liên quan chặt chẽ với vũ trụ. Không ai nghi ngờ mối quan hệ họ hàng giữa con người và thực vật”.[xiii]

Nhà thần học Ghania Moses Asaah Awinongya giải thích cho chúng ta cách hình ảnh Kinh Thánh và vũ trụ học Ghania đi đôi với nhau, tạo ra một viễn cảnh mới. 

 

Sự kết hợp của các hình ảnh Kinh Thánh với vũ trụ học Ghana nhằm khơi dậy mong muốn của các Kitô hữu để nuôi dưỡng một linh đạo sáng tạo có sức mạnh giúp mọi người chăm sóc tốt hơn môi trường sống của tất cả các sinh vật và khuyến khích họ ca ngợi Đấng Tạo Hóa của họ. Trong khi tất cả các sinh vật khác tự chăm sóc mình, con người là sinh vật duy nhất cũng duy trì mối quan hệ với đấng sáng tạo. Kết quả là, con người không chỉ thực hành một linh đạo của sự gắn kết, mà còn là một linh đạo quan tâm lẫn nhau. Điều này được liên kết với tình đoàn kết với tất cả các sinh vật khác.[xiv]

 

 

4.  Suy tư v môi trường t Châu Á 

 

Nhà thần học người Đức Klaus Vellguth tin rằng nhận thức về các vấn đề sinh thái đã tăng lên ở Ấn Độ trong những năm gần đây. Đối với ông, Thông điệp Laudato Si’ rơi vào các Giáo Hội Công Giáo Châu Á trên mảnh đất màu mỡ. Đặc biệt là các tổ chức mục vụ Công Giáo ở Châu Á đã có những đáp ứng một cách sáng tạo.

Nhà thần học người Nam Ấn Felix Wilfred nói: “Mối quan tâm chính của thần học công cộng là bảo vệ tự do khỏi chế độ chuyên chế đức tin và nhà nước, bảo vệ người nghèo chống lại thị trường, sáng tạo hài hòa với ý thức cộng đồng thực sự, chăm sóc và bảo vệ môi trường”.[xv] Đối với nhà thần học giải phóng Dòng Tên Nam Ấn Độ Michael Amaladoss, sự phát triển của niềm tin sinh thái có tầm quan trọng cao. 

 

Tầm nhìn về mối quan hệ ủy thác này có thể là cách tốt nhất mà chúng ta thúc đẩy một cam kết nhất định để bảo vệ công trình tạo dựng. Sáng tạo không chỉ đơn giản là một tập hợp các đối tượng theo ý của chúng ta để chúng ta sử dụng và thưởng thức. Đó là ơn huệ của Thiên Chúa dành cho nhân loại để phục vụ như một khuôn khổ cho cuộc sống của họ. Chúng ta không phải là chủ sở hữu của những ơn huệ của sự sáng tạo, mà là những người được ủy thác... Sự viên mãn và niềm vui của cuộc sống của chính chúng ta phụ thuộc vào nó ... Chúng ta không thể tin vào sự sống lại của cơ thể, mà không tin vào sự phục sinh của Trái Đất – mặc dù chúng ta không biết như thế nào (và khi nào).[xvi]  

 

Nhà thần học Nam Ấn Mohan Doss từ Jnana-Deepa Vidyapeeth, Học viện giáo hoàng về thần học ở Puna giải thích: “Một số truyền thống tôn giáo đã bị cáo buộc là có truyền thống quan tâm đến những con đường cứu rỗi cá nhân, vốn thường xuyên nhấn mạnh đến các mục tiêu thế gian bên kia để bỏ qua việc chăm sóc thế giới hiện tại”.[xvii] Tác giả cho thấy kinh nghiệm tôn giáo phong phú của Ấn Độ:

 

Các nền văn hóa và lối sống của người bản địa ở Ấn Độ làm chứng cho một quá trình sống liên tục gắn kết con người và thiên nhiên, động vật và các vị thần. Nhận thức của họ về thiên nhiên, mối quan hệ của họ với thiên nhiên và với nhau, các biểu hiện tôn giáo, xã hội và văn hóa của họ cho thấy mối quan hệ cộng sinh với thiên nhiên và tầm nhìn toàn diện về sự sống. Kinh nghiệm tôn giáo Ấn Độ về thiên nhiên được tổng hợp trong các truyền thống đức tin khác nhau làm nổi bật mạnh mẽ mối tương quan của con người với tất cả vạn vật.[xviii]

 

Nhà thần học Ấn Độ Ken R. Gnanakan viết về thần học sinh thái từ quan điểm thần học Kinh Thánh: “Các quan điểm về sự sáng tạo cho các thần học sinh thái là bắt buộc, nhưng các Kitô hữu phải đặt nền tảng thần học của họ trong Chúa Giêsu Kitô và mối tương quan của Ngài với sự sáng tạo”.[xix] Ông lập luận thêm rằng:

 

Con người phải khôi phục các mối quan hệ đúng đắn. Sự sáng tạo của Thiên Chúa được gắn kết với nhau bởi một mạng lưới các mối quan hệ phức tạp ... Trong khi các Kitô hữu đã nhấn mạnh một cách mạnh mẽ đến mối quan hệ đúng đắn giữa con người và Thiên Chúa, và cũng giữa con người, họ đã không ủng hộ mối quan hệ đúng đắn giữa con người và các loài thụ tạo của Thiên Chúa. Điều này cấp thiết cần phải có. Các Kitô hữu đã thấy rằng các mối quan hệ lấy con người làm trung tâm là nguyên nhân gây ra thảm họa sinh thái.[xx]

 

Đối với Gnanakan, “con người phải khôi phục các mối quan hệ đúng đắn” và phát triển “quản lý có trách nhiệm”, vì họ là một phần của sự sáng tạo của Thiên Chúa. “Tính chất cộng đồng ‘sự sáng tạo mới’ của các tín hữu được đặt vững chắc trong bối cảnh của cộng đồng ‘sáng tạo’ và có trách nhiệm khám phá và chứng minh các mối quan hệ sinh thái, điều này phải dẫn đến thể hiện về linh đạo sinh thái trong thế giới ngày nay”.[xxi]

 

 

5.  S đóng góp ca Giáo Hi ti Châu Á: Các tài liu và bài viết ca FABC

 

Tài liệu cuối cùng của Phiên họp toàn thể lần thứ năm của FABC ngày 27 tháng 7 năm 1990 thường được gọi là ‘Hiến chế mục vụ Châu Á’ vì nó có tầm quan trọng tương tự đối với các Giáo Hội Châu Á như văn kiện Gaudium et Spes đã có đối với Giáo Hội Công Giáo trên toàn thế giới. Trong tài liệu này, các giám mục đưa ra phân tích riêng biệt về tình hình văn hóa xã hội, chính trị, kinh tế và tôn giáo, trong đó người dân Châu Á phải sống đức tin Kitô Giáo của họ. Các giám mục không ngần ngại đề cập đến các tệ nạn xã hội ở Châu Á như nghèo đói tràn lan, bóc lột phụ nữ, khai thác quá mức tài nguyên thiên nhiên, thiếu triển vọng cho thế hệ trẻ. Trong cùng một tài liệu, các giám mục Châu Á tuyên bố: “Trước những vấn đề to lớn gây ra bởi sự thay đổi xã hội và khi đối mặt với tình trạng nghèo đói tràn lan, tuy nhiên, chúng ta có thể nhận ra nhiều dấu hiệu hy vọng”.[xxii] 

Các giám mục Châu Á cũng liệt kê nhiều dấu chỉ tích cực mang lại lý do cho hy vọng, chẳng hạn như một ý thức mới về tình liên đới, số lượng người đấu tranh cho nhân quyền, dân chủ hóa và đối thoại liên tôn và đại kết ngày càng tăng. “Đối thoại giữa các truyền thống tôn giáo, phong trào sinh thái và các khía cạnh của phong trào phụ nữ mang lại hy vọng cho một nền linh đạo toàn diện hơn”.[xxiii]

 Các giám mục Châu Á tại Phiên họp toàn thể lần thứ mười của Liên đoàn các Hội đồng Giám Mục Châu Á (FABC) vào năm 2012 tại Việt Nam đã tìm kiếm những cách thức truyền giáo mới. Kết quả phong phú của cuộc trò chuyện này được xuất bản trong tập thứ năm của Dành cho tất cả các dân tộc Châu Á dưới tựa đề “FABC tại bốn mươi năm: Ứng phó với những thách thức của Châu Á. Tân Phúc Âm Hóa”.[xxiv]

Trong tài liệu đó, các giám mục hình dung rằng Giáo Hội là “một Giáo Hội liên đới với toàn thể các loại thụ tạo”.[xxv] Trong số 27, tài liệu đề cập đến Sinh thái học khi nói: “Thiên tai ở nhiều nơi khác nhau của Châu Á ... mang vấn đề sinh thái lên sân khấu thế giới. Thách thức cũ đối với tính toàn vẹn của vạn vật bao gồm nạn phá rừng nhanh chóng, bừa bãi và vô trách nhiệm dẫn đến lũ lụt, hạn hán, xói mòn đất và đánh mất các hệ thống hỗ trợ sự sống”. Các giám mục ý thức được những hệ quả đạo đức của cuộc khủng hoảng sinh thái, khi các ngài viết:

Ngay cả bây giờ hàng trăm ngàn người là những người tị nạn sinh thái khi họ tìm kiếm những nơi an toàn hơn, tránh xa lũ lụt và mực nước biển dâng cao. Biến đổi khí hậu đang tàn phá nền sản xuất nông nghiệp và các nguồn sinh kế. Chúng ta ở Châu Á đang ngày càng trở nên ý thức và quan tâm về vấn đề sinh thái và những hệ lụy đạo đức của nó.[xxvi] 

 

Các giám mục Châu Á nhận ra sự cần thiết phải hợp tác giữa các giáo hội địa phương với xã hội dân sự. Đối với các ngài, “nhận thức, mối quan tâm và hành động đối với thách thức sinh thái đang được đưa xuống cấp cơ sở”.[xxvii]  Suy tư về những câu chuyện Kinh Thánh về sự sáng tạo, các giám mục tuyên bố rằng:

 

Có quyền thống trị trên các loài thụ tạo là trở thành người quản lý có trách nhiệm của công trình sáng tạo. Đây là nhiệm vụ đầu tiên của tình đoàn kết giữa nhân loại và các loài thụ tạo khác. Đó là gốc rễ của nguyên tắc xã hội và luân lý về mục đích phổ quát của của cải được tạo ra. Sau khi chia sẻ sự tốt lành và tình yêu của Người với các loài thụ tạo và nhân loại, Thiên Chúa tuyên bố vô điều kiện tất cả các loài thụ tạo là “thực sự rất tốt” và khẳng định “tính toàn vẹn của các loài thụ tạo”.[xxviii]

 

Trong số các nguyên tắc cơ bản được phát triển bởi các giám mục Á Châu, đứng ở vị trí đầu tiên là “sự hiệp thông và liên đới của vạn vật”.[xxix] Các giám mục cũng đưa ra một tuyên bố quan trọng về vai trò Quản lý có trách nhiệm đối với tính toàn vẹn của vạn vật:  

 

Nhân loại là người quản lý sự sáng tạo của Thiên Chúa, sử dụng các loài thụ tạo một cách có trách nhiệm vì lợi ích của nhân loại. Khi các nguyên tắc quản lý và “sự tốt lành” hay tính toàn vẹn của vạn vật, bao gồm vẻ đẹp và sự hài hòa của trật tự, và mục đích phổ quát của các loài thụ tạo bị vi phạm một cách bừa bãi, chúng ta gây ra sự bất công nghiêm trọng đối với vạn vật và các thế hệ mai sau.[xxx] 

 

Tài liệu kết thúc với các khuyến nghị mục vụ. Các ngài cũng đề nghị hỗ trợ các phong trào và tổ chức tham gia bảo vệ sự sống. Ở đây, “khai thác môi trường” được đặc biệt đề cập đến.[xxxi] Các ngài kết luận với một tuyên bố về Sinh thái học: “Toàn thể Giáo Hội ở Á Châu khắc sâu một ý thức mới về trách nhiệm môi trường giữa tất cả các thành viên của mình, làm cho nó trở thành một phần của nền linh đạo, thực hành Kitô Giáo và mục vụ”.[xxxii]

Dựa trên sự khuyến nghị của các giám mục Châu Á vào năm 2012, Cha Clarence Devadass, Thư ký điều hành văn phòng FABC về các mối quan tâm thần học, đã xuất bản vào tháng 6 năm 2015, Tài liệu FABC toàn diện và cập nhật nhất về vấn đề môi trường, được gọi là “Hướng tới quản lý có trách nhiệm trên sự sáng tạo: Một cách tiếp cận Kitô Giáo Châu Á”.[xxxiii] Trong Lời mở đầu, tác giả viết:

 

Các vấn đề sinh thái là tối quan trọng trong số những vấn đề cấp bách nhất cần được giải quyết trong thời đại chúng ta... Nó dẫn đến những thay đổi không thể đảo ngược trong hệ sinh thái... Việc tìm kiếm một giải pháp cho vấn đề này không thể chỉ ở các cấp độ chính trị, kinh tế, công nghệ hay đạo đức, mà còn đòi hỏi một sự đóng góp từ các quan điểm tôn giáo, tâm linh và thần học.[xxxiv]

 

Giải thích về các thực tế Châu Á, bài báo nhận xét: “Đối với các dân tộc và nền văn hóa Châu Á, hệ sinh thái đóng một phần không thể thiếu trong cuộc sống hằng ngày của họ vì nó cung cấp cho họ sự nuôi dưỡng, bảo vệ và cũng là ý thức về Thiên Chúa”.[xxxv]

Tài liệu triển khai tất cả sự khôn ngoan và truyền thống tích cực là một phần của tất cả các tôn giáo lớn ở Châu Á như Phật Giáo, Ấn Độ Giáo, Đạo Giáo và Hồi Giáo, và cuối cùng là trong các tôn giáo của các dân tộc bản địa Châu Á.

 

Những nhóm này có rất nhiều thứ để cho đi và để dạy xã hội (hậu) hiện đại. Họ đã được công nhận về ý thức môi trường và lối sống lành mạnh về mặt sinh thái, đặc biệt là vào thời điểm này khi chúng ta ở Châu Á phải hứng chịu một nửa số thiên tai và thảm họa xảy ra trên thế giới. Các thực hành chữa bệnh tự nhiên, lối sống cộng đồng, cũng như tâm linh sâu sắc đã truyền cảm hứng và thách thức những người sống trong các xã hội toàn cầu hóa đã thúc đẩy chủ nghĩa cá nhân và lòng tham, cũng như lối sống không lành mạnh.[xxxvi]

 

Tôi tin rằng chúng ta nên đi tìm hiểu thêm từ người dân bản địa, liên quan đến sự hiểu biết của họ về thế giới tự nhiên. Niềm tin của họ có thể được tóm tắt như sau:

 

1.      Niềm tin vào sự kết nối: Người dân bản địa nhìn cuộc sống một cách toàn diện và tích hợp. Tinh thần và vật chất thấm vào nhau. Thiên nhiên, văn hóa và vũ trụ được kết nối với nhau và làm việc cùng nhau.

 

2.      Niềm tin vào sự thiêng liêng của tất cả mọi sự vật: Mọi thứ đều là sự hiện thân của Đấng Siêu Việt và có sự hiện diện của Đấng Siêu Việt trong mọi thứ. Đây là lý do cho sự tôn trọng và chăm sóc sâu sắc của họ đối với tạo vật và thế giới tự nhiên.

 

3.      Niềm tin vào thần thánh: Các dân tộc bản địa tin vào các thần thánh, cả tốt và xấu, cư trú trong những thứ vật chất và tự nhiên. Họ — đặc biệt là các nhà thần bí của họ — liên hệ với các thần thánh (thông qua các nghi lễ và lời cầu nguyện của họ) và thương lượng cho các nhu cầu và mong muốn của cộng đồng.[xxxvii]

 

Các cộng đồng Kitô hữu và các nhà lãnh đạo và thần học gia của họ phải tham gia đối thoại với tất cả các tôn giáo và đặc biệt là đối thoại với tất cả các tôn giáo Cổ sơ hoặc Nguyên thủy vì chúng là một phần của di sản văn hóa và tinh thần của tất cả các dân tộc bản địa trên toàn thế giới. Có nhiều điều các truyền thống này có thể cung cấp không chỉ cho các Kitô hữu mà còn cho tất cả các thành viên của các xã hội đa nguyên và thế tục đương đại.

Chương IV của Tài liệu FABC 146 đề cập đến thần học Kinh Thánh về sự sáng tạo như được thể hiện trong hai câu chuyện trong sách Sáng Thế. Một phần nói đặc biệt về “Sứ mệnh của con người: Quản lý công trình sáng tạo”.

 

Về bản chất, quản lý có nghĩa là phục vụ trật tự và kế hoạch của Thiên Chúa trong sự sáng tạo. Sự quản lý này nhằm bảo vệ một cách đáp ứng ý định thiêng liêng của “sinh thái” trong sáng tạo. Trong việc này, con người có một nhiệm vụ kép: trước hết là trách nhiệm đối với “hệ sinh thái” của chính mình, cụ thể là chăm sóc thích đáng sự tốt lành của sự hiệp thông giữa thân xác và hơi thở của Thiên Chúa trong thân xác, để nó có thể trở thành một nhân cách và tác nhân xứng đáng cho việc quản lý; và thứ hai là trách nhiệm chỉ đạo và hướng dẫn “hệ sinh thái”, cụ thể là vấn đề trọng tâm của vạn vật.[xxxviii]

 

Nhiệm vụ quản lý công trình sáng tạo là một nghĩa vụ đối với bất kỳ con người nào; điều này đặt tất cả chúng ta trực tiếp vào hệ sinh thái của sự sáng tạo ngày nay khi đối mặt với biến đổi khí hậu và vấn đề công bằng khí hậu.

 

 

6.  S đóng góp t thn hc n Độ 

 

Nhà thần học luân lý Ấn Độ, Clement Campos, CSsR, xuất bản vào tháng 3 năm 2017 trên tạp chí Nghiên cứu Thần học bài viết có tựa đề “Laudato Si’: Một quan điểm Ấn Độ”.[xxxix] Theo học giả đến từ Học viện St. Alphonse ở Bangalore, “Thông điệp Laudato Si’ đã được đón nhận nhiệt tình ở Ấn Độ”.[xl] Không chỉ các nhà thần học Ấn Độ nổi tiếng trên toàn thế giới như Felix Wilfred và Michael Amaladoss đã hết lời ca ngợi tài liệu này từ Đức Thánh Cha Phanxicô, mà cả chính khách Ấn Độ Giáo và Chủ tịch Hiệp hội Ấn Độ Giáo Hoàn Vũ, Rajan Zed, “đã ca ngợi Đức Thánh Cha vì lời kêu gọi tôn trọng và bảo vệ môi trường. Ngài đánh giá cao việc Đức Thánh Cha nhấn mạnh đến các vấn đề liên kết việc chăm sóc thế giới tự nhiên với công lý cho những người nghèo nhất”.[xli]

Felix Wilfred gọi thông điệp này là “một viên ngọc quý trên vương miện của các giáo huấn xã hội của Giáo Hội, và là một đóng góp lớn lao cho nhân loại đang vật lộn với cuộc khủng hoảng môi trường”.[xlii] Michael Amaladoss đã tìm thấy linh đạo về sự sáng tạo trong Thông điệp Laudato Si’ là một điều gì đó tuyệt vời, toàn diện và độc đáo: “Điều này rất hấp dẫn, đặc biệt đối với những người phương Đông như chúng tôi”.[xliii] 

Campos cũng trích dẫn một tuyên bố của Hiệp hội Thần học Ấn Độ từ năm 1998 cho thấy một quan điểm đích thực của Ấn Độ và sự đóng góp của Ấn Độ cho Kitô Giáo và nhân loại trên toàn thế giới:  

 

Nhận thức thần bí về mối liên hệ tương quan này tạo ra một sinh thái, một trí tuệ coi Trái Đất là nhà của chúng ta. Do đó, bảo vệ môi trường là một mệnh lệnh đạo đức phát triển từ một nhận thức thần bí về Trái Đất như một ngôi nhà trong đó chúng ta trải nghiệm sức mạnh ban sự sống của Người Mẹ Thánh Thiêng. Linh đạo phát triển từ nhận thức toàn diện này bổ sung cho linh đạo Kitô Giáo truyền thống và đặt ra những câu hỏi thích hợp về đạo đức của nền kinh tế toàn cầu đang chi phối ngày nay.[xliv]

 

Clement Campos đưa ra trong phần kết luận của bài viết của mình “một vài điểm về bản chất của phản ứng Kitô Giáo Ấn Độ đối với các mối quan tâm sinh thái”. Tác giả xin phép trích dẫn một trong những điểm khai sáng đó:

 

Chúng tôi cũng tìm cách tham gia vào cuộc đối thoại với các tôn giáo, nền văn hóa khác và người nghèo và do đó trở thành những người tham gia tích cực và cùng hành hương trong việc tìm kiếm sự thật của nhân loại. Trong bối cảnh môi trường, chúng ta cần khôi phục vị trí do Thiên Chúa ban cho như những sinh vật chia sẻ mối quan hệ họ hàng với tất cả các thực tại được tạo ra; đảm nhận nhiệm vụ chữa lành những vết thương gây ra cho các loài thụ tạo và trả lại công lý cho các nạn nhân của sự bóc lột và tham lam; để áp dụng một lối sống mà nhờ đó chúng ta học hỏi từ câu châm ngôn của Đạo Giáo hãy “bước đi nhẹ nhàng trên Trái Đất”.[xlv]

 Linh mục Dòng Tên Ấn Độ Mathew Jayanth suy tư về sự ‘sinh thái hóa thần học về thực tiễn sinh thái’ trong Giáo Hội.

 

Tôn giáo là một hiện tượng văn hóa quan trọng định hình thế giới quan và nhận thức, hy vọng và niềm tin, thái độ và hành vi của con người, và do đó, nó quyết định mối quan hệ của họ với môi trường. Kitô Giáo dự tính mối quan hệ này như thế nào; Hậu quả là gì, điều gì đòi hỏi một mô hình khác và các tiến trình liên quan đến việc định hình lại mô hình thần học là gì.[xlvi] 

 

Đối với Jayanth, “ý thức về sự gắn bó sinh thái của chúng ta kêu gọi một nền thần học được hướng tới môi trường dành cho thực hành sinh thái Giáo Hội”.[xlvii] Jayanth kết luận:

 

Và cuối cùng, trong bối cảnh đa tôn giáo của Ấn Độ, một trong những cách thức nổi bật để thúc đẩy thực tiễn của công bằng sinh thái là đối thoại. Vì tất cả các tôn giáo đều được nhúng vào tự nhiên, sinh thái học có thể trở thành mối quan tâm chung và là nguồn thống nhất và hợp tác giữa các tôn giáo. Mức độ nghiêm trọng của cuộc khủng hoảng sinh thái đòi hỏi nỗ lực phối hợp của tất cả mọi người để chữa lành thế giới tan vỡ của chúng ta.[xlviii]

 

 

7.  Suy tư môi trường t Châu M Latinh 

 

Mối quan tâm đối với tương lai của hành tinh đã trở nên phổ biến. Các cuộc tranh luận về thảm họa môi trường là một thực tế trong các lĩnh vực khác nhau ... Amazon là quần xã sinh vật của hành tinh vẫn bảo tồn một phần lớn đa dạng sinh học ban đầu. Đây cũng là quần xã sinh vật lớn nhất trên hành tinh trong phần mở rộng lãnh thổ — quần xã sinh vật trải dài trên tám quốc gia khác nhau — và mật độ sinh học của các loài sống.[xlix]

 

Thượng Hội đồng về Amazon thực sự là một bước ngoặt dẫn đến quan điểm mới cơ bản về các vấn đề sinh thái trong các Giáo Hội Mỹ Latinh.

 

Thật vậy, các dân tộc Amazon mời gọi các Kitô hữu đào sâu linh đạo sinh thái của họ, vốn đòi hỏi một cách giải nghĩa mới về Lời Chúa với những cách giải thích coi trọng sự đóng góp của mỗi và tất cả các nền văn hóa, với bản sắc riêng của họ; Kitô hữu cần lắng nghe và học hỏi từ linh đạo của các dân tộc tổ tiên… vì sự sống còn của tất cả mọi người...[l]

 

Dân Chúa tại Châu Mỹ Latinh đã đem lại nhiều nhà thần học và sinh thái học cho xã hội loài người và các cộng đồng Kitô hữu, những người đã đưa ra một suy tư về sinh thái nổi bật liên quan đến việc bảo tồn thế giới được tạo dựng và một xã hội bền vững sinh thái.  

Các nhà tư tưởng Mỹ Latinh nói riêng và các Kitô hữu nói chung được truyền cảm hứng và hướng dẫn bởi Thông điệp Laudato Si’ của Đức Giáo Hoàng. Thông điệp đã thu hút được những người theo dõi thậm chí vượt xa giới Giáo Hội. 

 

Trong Laudato Si’, Đức Phanxicô đưa vào các chiều kích cơ bản, ngoài môi trường, kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, chiều kích tinh thần, đạo đức, biến đổi cuộc sống hằng ngày, cũng như cách đọc thần học về tạo vật như điểm nối của ngôi nhà chung... Trái Đất được nhấn mạnh như một món quà từ Thiên Chúa, rằng con người không phải là chủ sở hữu của nó, nhưng nhiệm vụ của họ là chăm sóc nó và đáp ứng cho nó. LS, số 16 cho thấy rằng sinh thái toàn diện dựa trên thực tế là “mọi thứ đều được kết nối”, đồng thời vấn đề sinh thái và công bằng xã hội về bản chất là hợp nhất (LS, số 137); chính điều này làm cho chúng ta có thể nghe thấy tiếng kêu của Trái Đất và của người nghèo (LS, số 49). Nói tóm lại, hệ sinh thái toàn diện đó kết nối việc chăm sóc thiên nhiên với việc đảm bảo công lý cho những người nghèo nhất (Querida Amazonia, số 66).[li]

 

Theo Paulo Sergio Vaillant, Laudato Si’ đề xuất đảo ngược triệt để logic kinh tế của thị trường hiện tại là giảm thiểu, cục bộ và phân mảnh, đề xuất một mô hình mới về Sinh thái tổng hợp với nền tảng khoa học rộng lớn, đánh giá cao sự khôn ngoan cổ xưa và nghìn năm của các dân tộc bản địa, giáo huấn đến từ các văn bản Kinh Thánh. Mô hình mới này cũng giả định những gì đang được xây dựng và được gọi là ‘Kinh tế của Phanxicô và Clara’, trong đó Sinh thái tổng hợp đứng hàng đầu và kinh tế chính trị phục vụ nó... Cần trải qua quá trình ‘chuyển đổi sinh thái’ ở cấp độ cá nhân, nhưng cũng ở cấp độ cộng đồng và thể chế.[lii]

Theo Sidnei Marco Dornelas, “Ba chương đầu tiên của Tông huấn Querida Amazonia nói với chúng ta về ba ước mơ của Đức Giáo Hoàng: xã hội, văn hóa và sinh thái... Giấc mơ xã hội về sự tham gia và lãnh đạo của người nghèo dẫn đến giấc mơ văn hóa”.[liii]

Nhà thần học Dornelas phát hiện trong Tài liệu cuối cùng của Công đồng Amazon một số định hướng và đề xuất quan trọng mới để đổi mới thái độ và sự tham gia của Giáo Hội trong việc đưa ra một số câu trả lời nhạy cảm với sinh thái: Một mặt, chúng ta có các đề xuất áp dụng Công đồng, chẳng hạn như việc thành lập một cơ quan quan sát xã hội - môi trường và mục vụ ở cấp Đại Amazon. Mặt khác, văn kiện chỉ ra lựa chọn của mình trong lĩnh vực giáo dục và tâm linh của các Kitô hữu về các vấn đề thần học đạo đức và sự sáng tạo, và trình bày đề xuất về một ủy ban chăm sóc ‘ngôi nhà chung’.[liv]

 

 

8.  Kết lun

 

Suy tư về môi trường từ Châu Phi, Châu Á và Châu Mỹ Latinh nhằm mục đích đưa ra một cái nhìn thoáng qua về những suy tư về môi trường phong phú từ các lục địa đó.  

Điều này có thể giúp chúng ta phát triển một linh đạo theo bối cảnh về môi trường và sự sáng tạo, sứ mệnh và hành động xã hội. Thần học không chỉ có thể xem xét Kinh Thánh và truyền thống, mà còn được mời gọi để xem Sinh thái học và tính toàn vẹn của vạn vật cũng quan trọng như một phần của sự suy tư của hai lĩnh vực này. Đối thoại có nghĩa là thực sự đang trò chuyện với, không chỉ là một cách tiếp cận; đó là một cách liên hệ và do đó sống với những người khác như một Kitô hữu. Cộng đồng Kitô hữu phải được hiểu như một cộng đồng tương quan hình thành các thành viên của mình giống như Chúa Kitô. Các nhà thần học giải phóng Mỹ Latinh đã giúp nhận thức được những tác động phi nhân tính của hành vi tội lỗi xã hội và thể chế hóa trong nhân loại và làm việc để vượt qua nó. 

 

Tuy nhiên, ngày nay nhân loại ngày càng được hiểu không phải là trung tâm của sự sáng mà là một phần gắn liền của công trình sáng tạo. Nhân loại đang ngày càng được thấu hiểu trong bối cảnh toàn vẹn vũ trụ... Do đó, sứ mạng vì lợi ích của nhân loại ngày càng gắn kết với các vấn đề công bằng sinh thái. Chỉ khi có sự toàn vẹn trong vũ trụ thì nhân loại mới có thể cảm nghiệm được sự trọn vẹn.[lv]

 

Đức Hồng Y Turkson, Tổng trưởng Thánh bộ thúc đẩy sự phát triển con người toàn diện, trong một cuộc họp tại Assisi đã có lời cảm ơn các tham dự viên vì đã “mang ánh sáng vào thế giới đen tối của chúng ta” và cam kết làm việc hướng tới một nền kinh tế toàn cầu hậu đại dịch “bao trùm và bền vững, một nền kinh tế có thể giúp chúng ta cư xử như anh chị em sống trong một ngôi nhà chung”.[lvi]



[i] Ken R. Gnanakan, “Creation and Ecology “, trong Global Dictionary of Theology, chủ biên William A. Dyrness và Veti-Matti Kärkkäinen (Downers Grove, IL: IVP Academic – Inter-Varsity Press, 2008), 207-208.

[ii] Pan-vitalism là một cách nhìn nhận đặc trưng của người Châu Phi về mối quan hệ giữa con người, thiên nhiên và vũ trụ, trong đó tất cả đều có sự sống và kết nối với nhau.

[iii] Emmanuel Asante, “Ecology: Untapped Resource of Pan-Vitalism in Africa,” AFER 27, no. 5 (1985): 289.

[iv] Ibid., 289-290.

[v] Ibid., 293.

[vi] Ibid., 289.

[vii] E. Chuya, “The Future of Black African Ecological Values: A New Sense of Environmental Responsibility in Pastoral Sensitivity for Ecological Conversion,” Sedos Bulletin (2020).

[viii] Ibid.

[ix] Ibid.

[x] A. Shorter, “Urbanization: Today’s Missionary Reality in Africa,” AFER 32, no. 5 (1990): 291.

[xi] Ibid., 292.

[xii] Ibid., 300

[xiii] A. B. Faye, “The Concept of Creation in the African World View: Is Laudato Si’ a Gift to Africa?” trong Creation. Living Together in Our Common House, chủ biên K. Krämer - K. Vellguth (Quezon City, Philippines: Claretian Communications, 2018), 150.

[xiv] Moses Asaah Awinongya, “Creation Spirituality. Answers from the Church in Africa,” trong Creation: Living Together in Our Common House, chủ biên K. Krämer - K. Vellguth (Quezon City, Philippines: Claretian Communications, 2018), 187.

[xv] F. Wilfred, Developing a Public Theology in Response to Common Issues in Asia, Bài thuyết trình trong hội thảo, Network Pastoral Asia, Johor Bahru, Malaysia, 4/11/2019.

[xvi] M. Amaladoss, The Social Perspective on Localism, Bài thuyết trình trong hội thảo, Network Pastoral Asia Meeting, Johor Bahru, Malaysia, 6/11/2019.

[xvii] Mohan Doss, SVD, “Promoting an Eco-Just Humanity: An Interfaith Exploration,” trong Promise of Indian Pluralism and Solidarity, chủ biên J. Thomas/V. Sagayam/D. D’Souza (Delhi, India: ISPCK, 2011), 150.

[xviii] Ibid., 172.

[xix] Ken R. Gnanakan, “Creation and Ecology,” trong Global Dictionary of Theology, chủ biên William A. Dyrness và Veti-Matti Kärkkäinen (Downers Grove, IL: IVP Academic – Inter-Varsity Press, 2008), 211.

[xx] Ibid., 212-213.

[xxi] Ibid.

[xxii] “Hope at the Crossroads,” trong For All the Peoples of Asia, FABC Documents from 1970-1991, Vol. 1, chủ biên G. Rosales và C.G. Arevalo (Manila, Philippines: Claret Publications, 1997), 277.

[xxiii] Ibid., 278.

[xxiv] “FABC at Forty Years: Responding to the Challenges of Asia, A New Evangelization, X Federation of Asian Bishops’ Conferences Plenary Assembly, Final Statement, Xuan Loc & Ho Chi Minh City, Vietnam, December 10-16, 2012,” trong For all the Peoples of Asia. Federation of Asian Bishops’ Conferences Documents from 2007-2012. Volume 5, chủ biên Vimal Tirimanna (Quezon City, Philippines: Claret Publications, 2014), 49-85.

[xxv] Ibid., 54.

[xxvi] Ibid., 64-65.

[xxvii] Ibid.

[xxviii] Ibid., 69.

[xxix] Ibid., 70.

[xxx] Ibid., 72.

[xxxi] Ibid., 83.

[xxxii] Ibid., 84.

[xxxiii] FABC Papers No.146, Towards Responsible Stewardship of Creation: An Asian-Christian Approach, chủ biên Clarence Devadass (FABC Office of Theological Concerns, 6/2015).

[xxxiv] Ibid., 1.

[xxxv] Ibid., 3.

[xxxvi] Ibid., 21-22.

[xxxvii] Ibid., 22.

[xxxviii] Ibid., 33.

[xxxix] Clement Campos, CSsR, “Laudato Si’: An Indian Perspective,” Theological Studies 78, no. 1 (2017): 213-225.

[xl] Idem., 213.

[xli] Ibid., 214.

[xlii] Idem., 213-214. Trích dẫn từ Felix Wilfred, “Theological Significance of Laudato Si’: An Asian Reading,” Vidyajyoti 79 (2015): 661.

[xliii] Idem, 214. Trích dẫn từ M. Amaladoss, “A Spirituality of Creation According to Pope Francis,” Vidyajyoti 79 (2015): 575.

[xliv] Idem, 217. Trích dẫn từ Joseph Mattam and Jacob Kavunkal, Ecological Concerns: An Indian Christian Response (Bangalore: N.B.C.L.C., 1998), 139.

[xlv] Idem., 224. Trích dẫn từ Dennis Caroll, Towards a Story of the Earth: Essays in the Theology of Creation, (Dublin, Ireland: Dominican, 1987), 172.

[xlvi] Mathew Jayanth, “Ecologization of the Theology for Ecclesial Eco-Praxis”, trong Dreams and Visions. New Horizons for an Indian Church, chủ biên in: R. Rocha và K. Pandikattu (India: Jnana-Deepa Vidyapeeth, 2002), 211.

[xlvii] Ibid., 225.

[xlviii] Ibid., 226.

[xlix] Oscar Martin và Castro M. M. Bartolome Ruiz, “Querida Amazonia: La Ecologia Integral de la Laudato Si’,” Misiones Extranjeras 294 (2020): 337.

[l] S. Garcia Valencia, “El Sinodo de la Amazonía, un Acontecimiento Profetico y Renovador,” Misiones Extranjeras (2020): 445-457.

[li] Martin và Ruiz, “Querida Amazonia,” 356-357.

[lii] Paulo Sérgio Vaillant, “La Amazonia e los suenos del Papa Francisco,” Missiones Extranjeras 294 (2020): 368-369.

[liii] Sidnei Marco Dornelas, “Reflexiones sobre la Exhortación Apostólica ‘Querida Amazonia’ y el Documento Final del Sínodo de la Amazonia,” Spiritus 61, no. 3 (2020): 95.

[liv] Ibid., 96.

[lv] Ibid., 70.

[lvi] Brian Roewe, “Economy of Francesco Imagines an Inclusive, Sustainable World,” National Catholic Reporter, 20/11/2020, https://www.ncronline.org/news/earthbeat/economy-francesco-imagines-inclusive-sustainable-world.


MỤC LỤC

Chương 1: Giới thiệu: Vai trò của tôn giáo trong bối cảnh khủng hoảng sinh thái ngày nay   (Anthony Lê Đức, SVD )

Chương 2: Linh đạo môi sinh: Về dưới mái nhà xanh (Giuse Đỗ Nguyên Vũ, SVD)

Chương 3: Chủ nghĩa nhân văn Kitô Giáo trong việc giải quyết vấn đề khủng hoảng môi trường (Anthony Lê Đức, SVD)

Chương 4: Chăm sóc thụ tạo theo Đức Giáo Hoàng Phanxicô (Phêrô Hoàng Văn Loan, SVD)

Chương 5: Mẫu hình con người sinh thái: Đức Giêsu (Hà Hùng Vương)

Chương 6: Hướng tới sự đổi mới sinh thái qua những câu trả lời quý giá đối với vấn đề môi trường từ Châu Phi, Châu Á và Châu Mỹ Latinh (Paul B. Steffen, SVD )

Chương 7: Đào tạo một lương tâm sinh thái nơi tín hữu Kitô Giáo (Anthony Lê Đức, SVD)

Chương 8: Người môn đệ loan báo Tin Mừng trong cuộc khủng hoảng sinh thái, bất công và nghèo đói ngày nay (Phêrô Đặng Quốc Cường, SVD)

Chương 9: Chăm sóc ngôi nhà chung từ lăng kính của công lý - hòa bình và sự toàn vẹn của vạn vật (GB. Trịnh Đình Tuấn, SVD)

Chương 10: Đối thoại liên tôn với việc chăm sóc ngôi nhà chung của nhân loại (Anthony Lê Đức, SVD)

Chương 11: Phụ nữ Việt Nam: Người bảo trợ sinh thái học (Nguyễn Trung Tây)

Chương 12: Sinh thái học, thiên tai và di cư qua lăng kính Kinh Thánh (vănThanh Nguyễn, SVD)

Chương 13: Căn tính Kitô Giáo trong mối tương quan với các loài thọ tạo (Anthony Lê Đức, SVD )

Chương 14: Ngôi nhà chung, Giáo Hội xanh (Nguyễn Trung Tây)