Vương Quốc Thái Lan (tiếng Thái: ราชอาณาจักรไทย Racha-anachakra Thai) thường gọi là Thái Lan là một quốc gia nằm ở vùng Đông Nam Á, có đường biên giới phía bắc và đông bắc giáp Lào, phía đông nam giáp Campuchia, phía nam giáp Vịnh Thái Lan và Mã Lai, phía bắc và tây bắc giáp Myanma, phía tây nam giáp biển Andaman.
Thái Lan cũng từng được gọi là Xiêm, đây là tên gọi chính thức của nước này đến ngày 11 tháng 5 năm 1949.[1] Từ Thái (ไทย) trong tiếng Thái có nghĩa là "tự do". Thái cũng là tên của người Thái–là sắc dân trong đó có khá nhiều người hiện là dân tộc thiểu số có số dân đáng kể ở Trung Quốc vẫn lấy tên là Xiêm. Từ "Thái Lan" trong tiếng Việt có xuất xứ từ tiếng Anh Thailand (trong đó land nghĩa là đất nước, xứ sở), dịch từ ประเทศไทย (Prathet Thai) nghĩa là nước Thái.
- Thái Lan thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam ngày 6 tháng 8 năm 1976
- Khẩu hiệu: Quốc gia, tôn giáo, quốc vương
- Quốc ca: Phleng Chat
- Địa hình: Ở vùng trung tâm là đồng bằng, ở phía Đông là cao nguyên Khorat, các nơi khác là núi non.
- Thủ đô: Bangkok (Krungthep)
- Diện tích: Khoảng 513.115 km2, bao gồm 76 tỉnh thành
- Khí hậu: Khí hậu nhiệt đới, có gió mùa tây nam ấm áp, nhiều mây và mưa (từ giữa tháng 5 tới tháng 9) và gió mùa đông bắc mát và khô (từ tháng 11 tới giữa tháng 3); dải đất ở phía Nam luôn nóng và ẩm.
- Dân số: Khoảng 65,444 triệu người (theo thống kê năm 2005), trong đó người Thái chiếm 75%, người Hoa 14%, các dân tộc khác 11%. Mật độ là 127 người/km2.
- Tôn giáo: Đạo Phật được coi là quốc đạo, chiếm khoảng 95% dân số, ngoài ra có Đạo Hồi (4%), Công giáo và các đạo khác (1%).
- Ngày quốc khánh: 5/12 (Ngày sinh nhật của Quốc vương Bhumibol Adulyadej).
- Ngôn ngữ: Tiếng Thái là ngôn ngữ chính thức của Thái Lan, tiếng Anh được sử dụng phổ biến.
- Đơn vị tiền tệ: Đồng Baht Thái.
- Mã số điện thoại +66
- Lịch sử:Theo sử sách Thái Lan, người Thái xuất xứ từ vùng núi Antai, Đông Bắc tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc từ 4.500 năm trước, sau đó di cư dần xuống vùng đất hiện nay là Thái Lan. Vào năm 1238, người Thái thành lập Vương quốc tại Sukhothai (miền Bắc Thái Lan) và đến năm 1283 đã có chữ viết riêng. Sau đó người Thái mở rộng lãnh thổ xuống phía Nam, và năm 1350 chuyển kinh đô xuống Ayuthaya (cách Bankok 70 km về phía Bắc). Kinh đô Ayuthaya đã bị hủy diệt do chiến tranh liên miên giữa người Thái và người Myanmar suốt 400 năm. Mãi đến năm 1767, một vị tướng người Thái gốc Hoa, Taksin, đứng lên chống quân Myaanmar giành lại độc lập và rời đô về Thonburi, bên bờ sông Chao Phaya, đối diện với Bangkok. Vua Rama I (1782) lên ngôi và chọn Bankok (có nghĩa là Thành phố của các thiên thần) làm Thủ đô.Trước năm 1932, Thái Lan theo chế độ Quân chủ chuyên chế. Sau cuộc cách mạng tư sản năm 1932 do một nhóm sĩ quan trẻ lãnh đạo, Thái Lan chuyển từ chế độ quân chủ chuyên chế sang chế độ Quân chủ lập hiến. Ngày 10/12/1932 Vua Prachadhipok (Rama VII) đã thông qua bản Hiến pháp đầu tiên của Thái Lan. Hơn 60 năm qua Thái Lan đã thay đổi 16 hiến pháp, nhưng Hiến pháp 1932 vẫn được coi là cơ sở.
Văn hóa: Văn hóa Thái Lan chịu ảnh hưởng sâu sắc từ tư tưởng đạo Phật - tôn giáo chính thức ở đất nước này và từ nền sản xuất phụ thuộc vào nguồn nước. Có thể thấy rõ hai điểm trên qua các ngày lễ hội. Trong văn hóa ứng xử, người Thái tỏ rõ sự sùng đạo, tôn kính hoàng gia và trọng thứ bậc cũng như tuổi tác.
Thể chế chính trị: Thái Lan theo chế độ quân chủ lập hiến. Theo Hiến pháp, quyền lập pháp được giao cho Quốc hội. Chính phủ nắm quyền hành pháp.
- Nhà nước: Quốc vương là người đứng đầu nhà nước, Tổng tư lệnh quân đội, và là người bảo trợ Phật giáo. Quốc vương được coi là thiêng liêng và bất khả xâm phạm.Ngôi vua theo cha truyền con nối,
- Quốc hội: Là cơ quan lập pháp cao nhất bao gồm hai viện:
- Hạ nghị viện gồm 500 người, được bầu qua tổng tuyển cử 4 năm một lần. Chủ tịch Hạ nghị viện là Chủ tịch Quốc hội .
- Thượng nghị viện gồm 200 ghế, được bầu với nhiệm kỳ 6 năm.
- Chính phủ: Sau khi bầu cử Quốc hội, lãnh đạo của đảng chiếm đa số trong Quốc hội thường được nhà vua bổ nhiệm làm Thủ tướng. Thủ tướng là người đứng đầu chính phủ, nhiệm kỳ 4 năm.
Hiện nay ông Surayud Chulanont đang nắm giữ chức Thủ tướng từ ngày 1/10/2006. Bên cạnh đó 35 thành viên nội các, thuộc 20 bộ, giúp việc Thủ tướng trong chính phủ. Ngoài ra còn có một số Ủy ban của Chính phủ được lập ra để phối hợp thực hiện các chính sách chung.
- Cơ quan tư pháp: Tòa án Tối cao, các thẩm phán do nhà Vua bổ nhiệm.
Kinh tế:
- Từ 1988 - 1995 kinh tế Thái Lan đạt tốc độ tăng trưởng cao từ 8% đến 10%. Nhưng đến năm 1996 tăng trưởng kinh tế giảm xuống còn 5,9% và sau đó là cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ vào tháng 7/1997 làm cho kinh tế Thái Lan rơi vào tình trạng khó khăn trầm trọng: giá trị đồng Baht giảm mạnh, nợ nước ngoài lớn, các ngành sản xuất mũi nhọn như công nghiệp ô tô, dệt, điện tử suy giảm nghiêm trọng; thất nghiệp gia tăng.
- Kể từ năm 1999, kinh tế Thái Lan bắt đầu có dấu hiệu phục hồi và nay đang tiếp tục quá trình tăng trưởng nhằm hướng tới sự phát triển bền vững.
- Tài nguyên thiên nhiên: Thiếc, cao su, khí tự nhiên, tungsten, tantalum, gỗ, chì, thạch cao...
Đất nước xinh đẹp Thái Lan được coi như là một thiên đường du lịch, ” xứ sở của những nụ cười thân thiện” ở Đông Nam Á. Nằm ở vị trí địa lý khá thuận lợi trong khu vực, lại có đường biên giới tiếp xúc với nhiều quốc gia, dân tộc, nền văn hóa Thái Lan đã phát triển từ rất sớm, kế thừa và pha trộn, ảnh hưởng nhiều nét độc đáo của các dân tộc láng giềng tạo nên một Thái Lan với những bản sắc văn hóa rất riêng, là biểu tượng của một đất nước của nông nghiệp và đạo Phật. Do không bị chiến tranh tàn phá, lại có phong cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp và tấm lòng hiếu khách của nhân dân nơi đây, Thái Lan là một trong những quốc gia thu hút nhiều khách du lịch nhất khu vực.
Thái Lan có rất nhiều địa điểm du lịch tuyệt vời, các thành phố biển, các đảo nổi tiếng. Dưới đây là vài địa điểm nổi tiếng nhất
là một vịnh nằm ở biển Đông (biển Nam Vietnam, thuộc Thái Bình Dương), được bao bọc bởi các quốc gia như Malaysia, Thái Lan, Campuchia và Việt Nam. Đỉnh phía bắc của vịnh này là vùng lõm Băng Cốc ở cửa sông Chao Phraya, gần Băng Cốc. Vịnh này có diện tích khoảng 320.000 km². Ranh giới của vịnh này được xác định theo đường nối từ mũi Cà Mau ở miền nam Việt Nam tới thành phố Kota Baru trên bờ biển Malaysia.
Vịnh Thái Lan tương đối nông, độ sâu trung bình của nó chỉ khoảng 45 m, và độ sâu lớn nhất là 80 m. Điều này làm cho sự đối lưu nước tương đối chậm, và dòng chảy mạnh của nước các con sông làm cho nước vịnh tương đối nhạt (3,05–3,25%) và giàu trầm tích. Chỉ ở những vùng nước sâu thì nước biển có độ mặn cao hơn (3,4%) từ biển Đông chảy vào vịnh và chiếm lĩnh các chỗ trũng có độ sâu hơn 50 m. Các sông chính chảy vào vịnh này là Chao Phraya (bao gồm cả sông nhánh của nó là Ta Chin) và Maeklong ở vùng lõm Băng Cốc, và ở mức độ thấp hơn là sông Tapi vào vịnh Bandon ở phía tây nam của vịnh này
Ở vào giai đoạn đỉnh điểm của thời kỳ băng hà cuối cùng, thì vịnh Thái Lan không tồn tại do mực nước biển xuống thấp, nó khi đó là một phần của thung lũng sông Chao Phraya.
Do nhiệt độ của vùng nhiệt đới là tương đối cao nên trong các vùng nước của vịnh Thái Lan có nhiều bãi đá san hô ngầm, vì thế nó tạo tiền đề cho một số nhà nghỉ ven biển phục vụ cho du khách có sở thích bơi lặn. Nổi tiếng nhất đối với du khách là đảo Ko Samui ở tỉnh Surat Thani, trong khi Ko Tao là trung tâm của du lịch bơi lặn ngầm.
Vịnh này có chứa một số nguồn dầu mỏ và ở mức độ lớn hơn là khí đốt.
Vịnh Thái Lan cũng là nơi diễn ra các mâu thuẫn về việc phân chia lãnh hải giữa các quốc gia Malaysia, Thailand, Việt Nam và Campuchia. Malaysia và Thailand đã đạt được các thỏa thuận chung nhằm hợp tác khai thác vùng lãnh thổ tranh chấp giữa hai quốc gia này.