httt38
Thơ chữ Hán(Bài 63 - Bài 70)
HÀ TRÌ THI TẬP
Thơ chữ Hán (Bài 1 - 10)
Thơ chữ Hán( Bài 11 - 19)
Thơ chữ Hán (Bài 20 - 25)
Thơ chữ Hán (Bài 26 - 35)
Thơ chữ Hán (Bài 36 - 43)
Thơ chữ Hán ( Bài 44 - 48)
Thơ chữ Hán (Bài 49 - 56)
Thơ chữ Hán (Bài 57 - 62)
Thơ chữ Hán (Bài 63 - 70)
63
表 忠 祠詠
生 為 英傑 死 為 靈
建 表 忠祠 特 賜 名
卓 爾 神 龕 棲 海嶼
沛 乎 正 氣塞 滄 溟
凌 霜 壯 烈 千 秋肅
貫 日 精 忠萬 古 明
遮 莫 九 原猶 可 作
補 天 頻 激怒 濤 聲
Phiên âm :
Biểu Trung từ vịnh
Sanh vi anh kiệt tử vi linh
Kiến Biểu Trung từ đặc tứ danh
Trác nhĩ thần kham thê hải dữ
Bái hồ chánh khí tắc thương minh
Lăng sương tráng liệt thiên thu túc
Quán nhật tinh trung vạn cổ minh
Già mạc cửu nguyên du khả tác
Bổ thiên tần kích nộ đào thinh .
Dịch nghĩa :
Vịnh đền Biểu Trung
Sống là tướng tài ba lỗi lạc, chết làm thần hiển hách
Nên vua cho lập đền thờ và đặc biệt ban tên đền là Biểu Trung để biểu dương hành vi trung liệt
Khám thờ thần đặt giữa biển trên đảo cao vòi vọi
Cái khí chánh đáng cao cả bàng bạc như muốn phủ kín mặt biển xanh
Cái tính cứng cỏi lẫm liệt như vượt màn sương xông thẳng tới mặt trời rạng rỡ tới muôn đời
Nơi chín gò * man mác còn có thể làm.
Ngăn dòng nước để vá chỗ khuyết cho trời khiến sóng giận dữ gào lên.
Nguyên chú : Đền trên đảo Vĩnh cửu Hải Nhi, lập vào đời Gia Long. Tháng Ba năm Nhâm Ngọ (1942) ta được Đốc bộ đường ủy làm chủ tế xuân tại đền, ngẫu hứng làm thành bài thơ này.
Chú thích : * Cửu nguyên tại Lạc Dương, đấy là nơi để mả của vương công quí tộc đời Tấn, sau thành từ trỏ nơi chôn người chết.
Dịch thơ :
Vịnh đền Biểu Trung
Sống làm anh kiệt, thác làm thần
Đền Biểu Trung đây chúa tứ ân
Sừng sững khám thờ trên hải đảo
Bao trùm khí chánh khắp giang tân
Ngàn thu tráng liệt xông sương giá
Muôn thuở tinh trung thấu nhật quang
Man mác chín gò còn có thể
Vá trời từng khiến sóng gào than !
64
一 字 山 即 景
一 字 天 然 海 岸 浮
十 分 景 色 眼 中 收
山 形 平 直 天 留 巧
水 面 滄 茫 客 易 愁
馬 嶺 斜 陽 噓 牧 笛
求 江 晚 渡 泛 漁 舟
卅 年 往 徹 人 蕕 記
遇 我江 山 恨 白 頭
黎 至 勁
Phiên âm :
Nhất tự sơn tức cảnh
Nhất tự thiên nhiên hải ngạn phù
Thập phần cảnh sắc nhãn trung thu
Sơn hình bình trực thiên lưu xảo
Thủy diện thương mang khách dị sầu
Mã lãnh tà dương hư mục địch
Cầu giang vãn độ phiếm ngư chu
Nẫm niên vãng triệt nhân du ký
Ngộ ngã giang sơn hận bạch đầu .
Lê Chí Kính
Dịch nghĩa :
Tức cảnh núi chữ Nhất
Núi chữ Nhất nổi trên bờ biển là cảnh tự nhiên
Cảnh sắc mười phần in vào mắt ta
Núi có hình dáng bằng phẳng ngay ngắn như để làm chứng tích khéo léo của trời
Mặt nước xanh thẫm mênh mông dể khiến khách sầu
Trong ánh mặt trời sắp tắt ở núi Mã, tiếng sáo mục đồng cất lên như tiếng thở dài
Thuyền đánh cá trôi lênh đênh trên bến sông Cầu lúc chiều tà
Vết xe đã qua ba mươi năm rồi mà người còn nhớ
Giờ trở lại với sông núi nơi nầy thì hận vì đầu đã bạc.
Nguyên chú : Lê Chí Kính làm Tá Lý tại Ty Án sát Phú Yên, làm bài này sau khi đi chơi núi chữ Nhất.
Dịch thơ :
Tức cảnh núi chữ Nhất
Bờ biển nổi lên núi chữ Nhất
Mười phần cảnh sắc mắt ta thâu
Hình non bằng phẳng trời lưu khéo
Mặt nước mênh mang khách dễ sầu
Sáo mục thở dài chiều Cổ Ngựa
Thuyền ngư thong thả bến sông Cầu
Ba mươi năm cũ xe mòn vết
Giờ gặp non sông hận bạc đầu .
65
步 韻 和 之
峰 橫 一 字 海 門 浮
河 岳 鐘 奇 地 脈 收
石 上 乘 涼 多 感 興
津 邊 玩 景 可 消 愁
觀 魚 漫 說 濠 梁 客
泛 浪 爭 傳 郭 李 舟
智 水 仁 山 兼 賞 識
斜 暉 蕕 孌 釣 磯 頭
Phiên âm :
Bộ vận họa chi
Phong hoành nhất tự hải môn phù
Hà nhạc Chung Kỳ địa mạch thu
Thạch thượng thừa lương đa cảm hứng
Tân biên ngoạn cảnh khả tiêu sầu
Quan ngư mạn thuyết hào lương khách
Phiếm lãng tranh truyền Quách Lý châu
Trí thủy nhân sơn kiêm thưởng thức
Tà huy do luyến điếu ky đầu .
Dịch nghĩa :
Theo vần họa lại
Trên cửa biển nổi lên hòn núi kéo ngang như chữ Nhất
Sông lớn núi cao đúc nên cảnh lạ do bởi linh khí qui kết dưới mặt đất
Hóng mát trên đá thì có nhiều cảm hứng
Ngoạn cảnh trên bến thì nỗi buồn có thể tiêu
Xem cá mà bàn phiếm như khách đứng trên cầu bắc qua hào 1
Thả thuyền trên bến thì tranh cho được tiếng để rồi như họ Quách họ Lý thả thuyền2
Người trí ưa chơi nước, người nhân thích chơi núi 3, ta gồm cả hai thú ấy
Ánh mặt trời sắp tắt mà ta chưa muốn về vì còn thích ngồi câu ở đầu ghềnh đá.
Nguyên chú : Ngày 21 tháng 5 năm Nhâm Ngọ (1942) ta cùng Niết tá Lê, nhân rảnh việc cùng thả thuyền chơi cạnh núi chữ Nhất, ngồi trên đá hóng mát và ngoạn cảnh tới chiều tối mới về. Lê quân có thơ tức cảnh, ta y theo vần họa lại.
Chú thích : 1. Hào lương khách : Khách đứng trên cầu bắc qua cái hào. Trang tử : Trang Chu cùng Huệ Thi đứng trên cầu bắc qua cái hào mà xem cá lội. Trang tử nói : “Cá vui vẻ thay ! Bơi lội nhởn nhơ !”. Huệ tử hỏi : “Anh không là cá sao biết cá vui?”. Trang vặn lại : “Anh không là tôi, sao anh biết rằng tôi không biết cá vui ?”.
2. Quách Lý châu : Thuyền của họ Quách, của họ Lý. Quách Tử Nghi và Lý Bí đều là danh tướng lương thần đời Đường, giữ trọn công danh tới ngày về hưu thì dạo biển chơi non mà di dưỡng tính tình.
3. Trí nhân : Người trí người nhân. Luận ngữ : Tử viết : Trí giả nhạo thủy, nhân giả nhạo sơn. Trí giả động, nhân giả tĩnh. Trí giả lạc, nhân giả thọ = Người trí thích nước, người nhân thích núi. Người trí thì hoạt động, người nhân thì trầm tĩnh. Người trí vui sống, người nhân sống lâu.
Dịch thơ :
Bài họa
Chữ Nhất nằm ngang biển gối đầu
Khí linh hà nhạc núi đà thâu
Trên non bóng mát thơ thêm tứ
Dưới bãi xem chơi cảnh giải sầu
Giữa biển thả thuyền noi Quách Lý
Bên nào ngắm cá thuyết Trang Châu
Nhân sơn trí thủy gồm hai nhé
Nắng tắt chưa về tiếc buổi câu !
66
和 春 臺 即 景 詩
安 盛 花 村 掛 酒 旗
公 餘 攜 侶 問 金 卮
朱 磯 酌 月 壺 偏 倒
臺 港 吟 風 蛘 恰 肥
山 水 清遊 琴 韻 爽
海 天 晴帖 漏 聲 遲
襟 懷 洒 落 知多 少
車 馬團 圓 戴 月 歸
Phiên âm :
Họa Xuân Đài tức cảnh thi
An Thạnh hoa thôn quải tửu kỳ
Công dư huề lữ vấn kim chi
Châu ky chước nguyệt hồ thiên đảo
Đài cảng ngâm phong bạng cáp phì
Sơn thủy thanh du cầm vận sảng
Hải thiên tình thiếp lậu thanh trì
Khâm hoài sái lạc tri đa thiểu
Xa mã đoàn viên đới nguyệt qui .
Dịch nghĩa :
Họa bài thơ tức cảnh Xuân Đài
Thôn hoa An Thạnh có treo cờ bán rượu 1
Việc công xong, sách đôi cùng bạn đến đó hỏi mua chất lỏng đựng trong chén vàng
Ngồi trên gành Đỏ 2, chuốc chén ngắm trăng thì nghiêng bầu rót hoài
Hóng gió trên đài cao ở cửa biển 3 vừa ngâm thơ vừa thưởng thức món sò nướng vừa độ béo
Thong thả dạo chơi non nước, điệu đàn cất lên nghe sảng khoái
Trời trong biển lặng, tiếng kim đồng hồ chạy chậm chạp
Lòng mong sống phóng khoáng, không gì ràng buộc, thì đã được đáp ứng ít nhiều
Xe ngựa họp lại rồi cùng đội trăng mà trở về.
Nguyên chú : Bài thơ “Xuân Đài tức cảnh” do bạn đỗ cùng khoa là cử nhân Đỗ Yêm, chức Kiểm sự, làm sau khi chơi tấn Xuân Đài, ta y theo vần họa lại (Không thấy bài xướng – LX)
Chú thích : 1. Mượn ý Đường thi :
Tá vấn tửu gia hà xứ tại?
Mục đồng dao chỉ Hạnh hoa thôn
Dịch: Ứơm hỏi đâu là nhà bán rượu?
Mục đồng xa chỉ Hạnh hoa thôn
Hạnh hoa là tên thôn, do câu thơ nầy mà sau thành từ chung trỏ nơi bán rượu. Chữ Hoa thôn là gọi tắt từ Hạnh hoa thôn, cùng nghĩa vừa nói. Xưa ở Trung Quốc, quán bán trà bán rượu thường treo cao lá cờ trước quán, trên cờ đề chữ Trà hoặc chữ Tửu để khách từ xa thấy mà đến.
2. Châu ky là địa danh, tục gọi gành Đỏ.
3. Hai chữ Đài cảng ngoài nghĩa đã dịch còn có nghĩa cảng Xuân Đài tức cửa biển Xuân Đài. Dưới thời nhà Nguyễn, tại đây có đồn binh phòng thủ gọi là tấn địa nên cũng gọi là tấn Xuân Đài.
Dịch thơ :
Bài họa
An Thạnh thôn hoa phất tửu kỳ
Việc xong cùng bạn đến nhâm nhi
Ngắm trăng gành Đỏ men ngây ngất
Đọc phú đài cao vọp béo phì
Sông núi thong dong đàn ngọt lim
Biển trời man mác nắng quên đi
Ít nhiều khoáng dật, lòng đà thỏa
Đội nguyệt quay về mặc ngựa phi !
Ông Lê Bính cũng có dịch thành thơ :
Làng An Thạnh cờ treo rượu bán
Rủ nhau chơi cùng bạn nâng ly
Say trăng gành Đỏ cạn bì
Xuân Đài hóng gió ngâm thi ăn sò.
Với cầm vận buổi chơi đà mãn
Tiếng đồng hồ gọi bạn quay về
Ít nhiều biết thú sơn khê
Ngựa xe lui gót, cặp kè trăng theo.
67
其 二
詩 壇 誰是 樹 危 旗
紙 滿 雲煙 酒 滿 卮
宦 地 江山 經 指 點
遊 人 車馬 自 輕 肥
陽 春 白雪 賡 難 和
大 呂 黃鐘 響 易 遲
贏 得 朱磯 風 月 興
幾 回 吟賞 欲 忘 歸
Phiên âm :
Kỳ nhị
Thi đàn thùy thị thụ nguy kỳ?
Chỉ mãn vân yên tửu mãn chi
Hoạn địa giang sơn kinh chỉ điểm
Du nhân xa mã tự khinh phì
Dương xuân Bạch tuyết canh nan họa
Đại lữ Hoàng chung hưởng dị trì
Doanh đắc Châu ky phong nguyệt hứng
Kỷ hồi ngâm thưởng dục vong qui.
Dịch nghĩa :
Bài hai
Ai là người dựng cao cờ trên đàn thơ?
Khiến nên giấy đầy mây khói, rượu đầy chén
Mắt nhìn tay trỏ trải khắp sông núi nằm trong đất trị nhậm
Làm người dạo chơi thì tự mặc áo cừu nhẹ, ngồi xe có ngựa béo kéo 1
Đàn hát khúc xưa như Dương Xuân Bạch Tuyết thì khó có người hòa theo 2
Nhưng đến Từ khúc có luật Hoàng chung đi đôi với Đại lữ vừa cất lên đã có âm hưởng vọng lại dễ dàng và chậm rãi. 3
Xoay xở được cái hứng thú gió trăng ở gành Đỏ
Bao hồi ngâm vịnh và thưởng ngoạn muốn quên về.
Chú thích : 1. Cừu mã khinh phì tức khinh cừu phì mã là áo cừu nhẹ và ngựa béo. Trỏ người giàu sang.
2. Trong bài đối sách của Tống Ngọc, người đời Chiến Quốc, có câu : “Kỳ vi Dương xuân Bạch tuyết, quốc trung nhi họa giả, bất quá sổ thập nhân = Khi hát khúc Dương xuân Bạch tuyết thì có người trong nước hòa theo chẳng qua vài chục”. Đây là hai khúc nhạc cổ, tương truyền Hoàng chung và Đại lữ là luật và lữ trong âm nhạc cổ.
Dịch thơ :
Bài hai
Thi đàn ai đã dựng cao cờ?
Khiến rượu đầy be, túi đẫy tờ
Đất nhậm núi cao, sông rộng trải
Người chơi ngựa béo áo lông tơ
Dương xuân Bạch tuyết ca nan họa
Đại lữ Hoàng chung luật những chờ
Trăng gió gành Son xoay được hứng
Quên về, mê mải vịnh ngâm thơ.
Ông Lê Bính cũng có dịch thành thơ :
Thi đàn ai đã cắm cờ cao?
Giấy tả làn mây, rượu ngọt ngào
Đất khách non sông chào sĩ hoạn
Làng chơi xe ngựa thú văn hào
Dương xuân Bạch tuyết ca nan họa
Đại lữ Hoàng chung điệu dạt dào
Gành Đỏ gió trăng bày cảnh đẹp
Xui người ngâm thưởng khó về sao !
68
登 谷 寺
龍 鳳 觀 風 地 轄 中
登 臨 谷 寺 寺 虛 空
悽 山 面 海 開 禪 室
鑿 石 披 荊 作 梵 宮
左 壁 有 坑 通 黑 府
上 塵 留 隙 洞 玄 穹
神 僧 茹 采 歸 何 處
悶 聽 潮 聲 鼓 海 東
Phiên âm :
Đăng cốc tự
Long phụng quan phong địa hạt trung
Đăng lâm cốc tự, tự hư không
Thê sơn diện hải khai Thiền thất
Tạc thạch phi kinh tác Phạm cung
Tả bích hữu khanh thông hắc phủ
Thượng trần lưu khích đỗng huyền khung
Thần tăng nhự thái qui hà xứ?
Muộn thính trào thanh cổ hải đông.
Dịch nghĩa :
Đến chùa Hang
Đến xã Long Phụng trong hạt ta trị nhậm mà quan sát phong tục và tìm hiểu dân tình
Lên tới chùa Hang thì thấy chùa trống rỗng như hư không
Lưng ghé vào núi, mặt quay ra biển mà mở nhà Thiền
Đục đá phát gai mà làm chùa thờ Phật
Nơi vách phía tả có hang xuống âm phủ
Trên trần còn để lại lỗ hổng trông thấy rõ vòm trời
Nhà sư có thần thông, chỉ ăn rau, đi đâu rồi?
Lòng ta không vui khi nghe tiếng sóng vỗ ở biển Đông.
Nguyên chú: 1. Chùa này đục núi làm thành. Trong chùa hiện còn bàn đá, trên có tượng Phật cùng đồ thờ tạc liền với bàn.
2. Bên vách tả chùa có hang sâu xuống đất
3. Trên trần có lỗ trông thấy trời
4. Tương truyền xưa có nhà sư đến ở, không ăn ngũ cốc, chỉ ăn rau, tục gọi thầy Rau. Hậu vận thế nào chẳng rõ.
Biệt chú : Đừng lầm với chùa Hang ở Phù Mỹ như có người đã lầm !
Dịch thơ :
Lên chùa Hang
Xem xét dân tình đến xã Long
Chùa Hang lên đó tợ hư không
Dựa non nhìn biển làm Thiền thất
Đục đá phát bờ dựng Phạm cung
Cạnh vách có khe thông hắc phủ
Trên trần chừa lỗ lộ huyền khung
Nhà sư tịch cốc đi đâu nhỉ
Chợt thấy buồn nghe sóng biển Đông !
69
和 陳 廷 異 詩
劃 野 分 州 及 海 山
即 今 地 政 設 專 官
契 書 一 覽 胸 中 了
圖 籍 辰 披 眼 底 寬
著 簿 銀 錢 多 少 處
吾 民 田 賦 重 輕 間
相 逢 似 是 曾 相 識
何 處 龍 門 敢 擬 韓
Phiên âm :
Họa Trần Đình Dị thi
Hoạch dã phân châu cập hải san
Tức kim Địa chánh thiết chuyên quan
Khế thư nhất lãm hung trung liễu
Đồ tịch thời phi nhãn để khoan
Trước bạ ngân tiền đa thiểu xứ
Ngô dân điền phú trọng khinh gian
Tương phùng tự thị tằng tương thức
Hà xứ Long Môn cảm nghĩ Hàn?
Dịch nghĩa :
Họa thơ Trần Đình Dị
Vạch đồng chia đất đến biển núi
Thì nay có quan chuyên trách do sở Địa chánh đặt ra
Văn khế, phân thơ chỉ xem qua một lần là trong bụng đã biết hết
Bản đồ, sổ bộ mở ra thì thông suốt như in vào đáy mắt
Tiền trước bạ thì có nơi thu nhiều, có nơi thu ít
Thuế ruộng dân ta thì có khoảnh nặng, có khoảnh nhẹ
Mới gặp nhau mà như đã từng quen biết
Thì sao lại ví như được lên cửa Rồng1 và cảm nghĩ ta như Hàn Triêu Tôn2 ?
Nguyên chú : Trần Đình Dị hàm Biên tu làm việc ở Sở Địa chánh, y đến phủ nha Mộ Đức thâu khế trước bạ, có làm thơ tặng ta, ta y vần họa đáp (Không thấy bài xướng – LX).
Chú thích : 1. Long Môn tức Đăng Long Môn là lên cửa Rồng. Thư Lý Bạch đời Đường gởi Trưởng sử Kinh châu là Hàn Triêu Tôn có câu : “Nhất đăng Long Môn, thanh giá thập bội = Một lần lên cửa Rồng thì danh dự được tăng lên mười phần”. Ý nói kẻ sĩ được người đức cao trọng vọng tiếp kiến thì danh giá càng tăng lên.
2. Hàn tức Hàn Triêu Tôn làm Trưởng sử Kinh châu nên cũng gọi là Hàn Kinh châu. Cũng trong thư vừa nói, Lý Bạch viết :
Sinh bất nguyện phong Vạn hộ hầu
Đãn nguyện nhất kiến Hàn Kinh châu
Dịch: Sống chẳng mong phong hầu Vạn hộ
Chỉ mong Hàn tiếp một lần thôi !
Dịch thơ :
Họa thơ Trần Đình Di
Châu ta hình thể vẽ nên trang
Địa chánh ngày nay đặt chức quan
Thơ khế đọc qua lòng hiểu suốt
Tịch đồ xem lướt mắt thâu tàng
Ít nhiều trước bạ tiền tùy xứ
Nặng nhẹ điền tô thuế bổ phân
Mới gặp sao mà như đã biết
Long Môn nào xứ dám so Hàn?
70
其 二
珠 藏 媚澤 玉 揮 山
學 古 功深 便 入 官
國 有 臣忠 君 禮 使
家 生 子孝 父 心 寬
聊 同 白日 青 雲 趣
都 在 春風 夏 雨 間
經 世 文章 真 箇 少
斗 山 學者 獨 尊 韓
Phiên âm :
Kỳ nhị
Châu tàng mị trạch ngọc huy san
Học cổ công thâm tiện nhập quan
Quốc hữu thần trung quân lễ sử
Gia sanh tử hiếu phụ tâm khoan
Liêu đồng bạch nhật thanh vân thú
Đô tại xuân phong hạ vũ gian
Kinh thế văn chương chân cá thiểu
Đẩu sơn học giả độc tôn Hàn.
Dịch nghĩa:
Bài hai
Châu ẩn dưới hồ đẹp, ngọc nằm trong núi sáng
Dày công theo đuổi cái học xưa, lấy đó làm phương tiện gia nhập quan trường
Nước có tôi trung thì vua lấy lễ mà sai khiến
Nhà sanh con hiếu thì lòng cha như thái, chẳng lo lắng gì
Cùng dựa vào cái thú trời trắng mây xanh
Đều ở tại cái lúc gió xuân mưa hạ
Dùng văn chương để giúp đời thật ra đâu phải ít người
Thế sao chỉ mình Hàn Dũ được tôn làm học giả tiêu biểu như sao Bắc đẩu như núi Thái sơn ?
Dịch thơ :
Bài hai
Châu trong hồ đẹp, ngọc trên ngàn
Học cổ dày công mới đặng quan
Nước có tôi trung thì chúa kính
Nhà sanh con hiếu ắt cha nhàn
Đã vui mây biếc cùng trời thẳm
Đều thú mưa hè với gió xuân
Tế thế dùng văn đâu phải ít
Thì sao sơn đẩu chỉ riêng Hàn?