httt323

Thơ chữ Hán - (Bài 20 - Bài 25)

HÀ TRÌ THI TẬP 

20

遊 順 安 三 首

副 榜 願 齋 裴 有庶 作

其 一

唯 擬 玆 遊 與 客 歡

那 知 攜 客 事 偏 難

只 緣 塵 鞅 多 人 累

竟 讓 浮 生 獨 我 閑

命 酒 聊 將 孤 影 勸

科 頭 劇 覺 短 篷 寬

途 指 前 點 江 煙 闊

喜 逐 盟 鷗 共 往 還

 

Phiên âm:

            Du Thuận An tam thủ

                        Phó bảng Nguyện Trai Bùi Hữu Thứ tác

 

Kỳ nhất

Duy nghĩ tư du dữ khách hoan

Ná tri huề khách sự thiên nan

Chỉ duyên trần ưởng đa nhân luỵ

Cánh nhượng phù sinh độc ngã nhàn

Mệnh tửu liêu tương cô ảnh khuyến

Khoa đầu kịch giác đoản bồng khoan

Tiền đồ chỉ điểm giang yên khoát

Hỉ trục minh âu cộng vãng hoàn.

 

Dịch nghĩa:

                        Chơi cửa Thuận An

Bùi Hữu Thứ, hiệu Nguyện Trai, đỗ Phó bảng làm

 

Bài một

Chỉ nghĩ đi chơi với khách thì vui,

Nào biết được cầm tay khách cùng đi là việc khó

Chỉ vì nợ đời ràng buộc mà nhiều người mang luỵ,

Từ bỏ hết những đam mê trong cuộc sống giả tạm thì riêng ta được thong dong rảnh rỗi.

Gọi rượu nhờ mang tới lời khuyên lúc một mình một bóng

Đầu trần đụng mui thuyền mới biết trong khoang ngắn mà rộng

Chỉ điểm cho biết đường trước mặt sắp đi qua thì sông nước mênh mông, khói sóng man mác;

Vui thấy chim âu bị xua đi rồi còn quay trở lại.

 

Chú thích: Bùi Hữu Thứ người thôn An Ninh, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên, sinh năm 1889. Đỗ Cử nhân khoa Kỷ Dậu (1909). Đỗ Phó bảng khoa Kỷ Vị (1919)

 

Dịch thơ :

                        Chơi cửa Thuận

Bài một

Chỉ nghĩ cùng đi với khách vui

Biết đâu với khách khó khăn chơi

Duyên trần buộc mãi, người lâm lụy

Phù thế quên phăng, tớ thảnh thơi

Mượn rượu cho khuây sầu lúc vắng

Va đầu mới biết rộng trong mui

Trước thuyền, hay nhỉ sông man mác

Âu  sợ  bay rồi  lại  trở  lui.

 

21

其 二

抵 順 汛

輕 舟 如 葉 下 邰 陽

歷 歷 煙 波 逗 眼 光

沙 嘴 日 斜 村 市 散

海 門 雲 淨 戍 樓 荒

潭 空 自 見 魚 之 樂

地 僻 偏 來 我 也 狂

未 是 玆 遊 因 逭 暑

平 生 心 在 水 雲 鄉

 

Phiên âm :

                            Kỳ nhị

Để Thuận Tấn

Khinh chu như diệp há Thai Dương

Lịch lịch yên ba đậu nhãn quang

Sa chuỷ nhật tà thôn thị tản

Hải môn vân tĩnh thú lâu hoang

Đàm không tự kiến ngư chi lạc

Địa tích thiên lai ngã dã cuồng

Vị thị tư du nhân hoán thử

Bình sinh tâm tại thủy vân hương.

 

 

Dịch nghĩa :

                                         Bài hai

Đến cửa Thuận

Thuyền nhẹ như chiếc lá lướt xuống Thai Dương *

Khói sóng trải qua, hợp với ánh mắt nên ưa nhìn

Ánh mặt trời chiều chiếu trên doi cát, chợ trong làng đã vãn

Mây  đứng lặng trên cửa biển, lầu để lính phòng thủ thì hoang vắng

Đầm trong suốt, tự mình thấy được cái vui của cá

Nghiêng về ý nghĩ đất đai chật hẹp làm ta phát điên

Chưa được đi chơi để tránh nắng nóng

Suốt đời, lòng ta hướng về cái làng ở trên nước trong mây.

 

Chú thích: * Tên cái đập trên đường thủy từ Huế xuống cửa Thuận.

 

 

Dịch thơ :

Bài hai

Đến cửa Thuận

Nhẹ nhàng thuyền lá xuống Thai Dương

Khói sóng tung trời hợp nhãn quang

Doi cát chiều tà, thôn chợ vãn

Cửa sông mây lặng, tấn lầu hoang

Đầm trong thấy đặng ngư vui thú

Đất hẹp nghĩ thôi tớ phát cuồng

Chưa được đi chơi mà tránh nóng

Suốt đời lòng hướng thủy vân hương.

 

 

22

其 三

別 順 汛

不 是 神 仙 已 是 仙

海 天 一 棹 思 飄 然

自 來 作主 風 和 月

兼 得 宜人 食 與 眠

為 別 正難 如 對 友

題 詩 多半 未 成 篇

江 靈 似懈 遲 留 客

故 落 潮流 擱 了 船

 

Phiên âm:

                                          Kỳ Tam

Biệt Thuận Tấn

Bất thị thần tiên dĩ thị tiên

Hải thiên nhất trạo tứ phiêu nhiên

Tự lai tác chủ phong hoà nguyệt

Kiêm đắc nghi nhân thực dữ miên

Vi biệt chính nan như đối hữu

Đề thi đa bán vị thành thiên

Giang linh tợ giải trì lưu khách

Cố lạc triều lưu các liễu thuyền.

 

Dịch nghĩa :

                                         Bài Ba

Rời cửa Thuận

Chớ cho mình là thần tiên thì chính thị là tiên

Nhớ khi cầm một mái chèo, dạo thuyền trên mặt biển rộng liền với trời xanh, thì thần trí lâng lâng như cỡi gió

Tự đến nơi này làm chủ gió cùng trăng

Gồm đủ tiện nghi ăn ngủ cho người

Từ biệt nơi này thật khó như từ biệt bạn thân

Làm thơ đề vịnh tuy nhiều mà một nửa chưa thành bài

Thần sông linh hiển, dường như có ý làm thuyền đi chậm để giữ khách ở lại.

Bèn cho thủy triều xuống khiến thuyền đứng lại rồi.

 

Dịch thơ:

                                          Bài Ba

Rời cửa Thuận

Chớ thị thần tiên mới đáng tiên

Chèo tung trời biển, tứ phiêu nhiên

Gió trăng có sẵn dùng dư dả

Ăn ngủ cần chi ứng đủ liền

Giờ biệt cũng nan như giã bạn

Thơ đề quá nửa chửa thành thiên

Sông linh dường muốn lưu thuyền khách

Bèn rút triều cho trở ngại thuyền !

 

23

奉 和 其 一

人 生 適 意 便 為 歡

適 意 應 知 世 上 難

我 亦 素 耽 山 水 樂

君 能 先 得 月 風 閒

勝 遊 會 思  文 章  發

寄  興  忘  情  宇 宙  寬

海  屋  仙  籌  曾 問  否  

桑  滄 歷  歷  幾   循 還

 

 

Phiên âm:

                        Phụng hoạ bài Một

Nhân sinh thích ý tiện vi hoan

Thích ý ưng tri thế thượng nan

Ngã diệc tố đam sơn thuỷ lạc

Quân năng tiên đắc nguyệt phong nhàn

Thắng du hội tứ văn chương phát

Ký hứng vong tình vũ trụ khoan

Hải ốc tiên trù tằng vấn phủ

Tang thương lịch lịch kỷ tuần hoàn

 

Dịch nghĩa:

                        Kính hoạ bài Một

Người sống trên đời được thích ý tức là vui

Muốn được thích ý, mới biết trên đời khó được

Tôi cũng thường ham thích cái vui dạo chơi non nước

Anh từng trước được cái thú nhàn nhã cùng trăng gió

Trong cuộc du ngoạn nơi nổi tiếng này, ý tứ đã đưa vào trong áng văn chương.

Gửi vào vũ trụ mênh mông nguồn cảm hứng dồi dào và sôi nổi đến quên tình.

Phải chăng anh đã từng hỏi việc thẻ tiên cắm trong ngôi nhà gần biển?1

Thì ruộng dâu hoá thành biển xanh đã diễn ra được mấy lần rồi?2

 

Chú thích: 1. Theo Đông Pha chí lâm, có ba ông già gặp nhau trong một ngôi nhà cạnh biển, họ hỏi tuổi nhau. Một ông nói: “Tuổi tôi gần bằng tuổi ông Bàn Cổ”. Ông thứ hai nói: “Cứ mỗi lần biển cả hoá thành nương dâu thì tôi cắm một thẻ trúc. Nay số thẻ đã được trăm chiếc.”. Ông thứ ba nói: “Bố tôi cho tôi ăn đào, ăn xong vứt hạt dưới chân núi, hạt mọc thành cây, nay cây đã cao bằng núi”.

2. Thần tiên truyện: Đời Đông Hán có Ma Cô Đại tiên, dáng dấp như con gái 16, 17 tuổi, người ta hỏi tuổi, cô đáp: “Tôi không nhớ rõ, chỉ biết tôi đã thấy biển Đông ba lần hoá thành ruộng dâu!”

 

Dịch thơ:

                        Kính hoạ bài Một

Trên đời thích ý tức hân hoan

Thích ý trên đời gẫm cũng nan

Tớ vốn đam mê non nước thú

Anh từng dan díu gió trăng nhàn

Gởi vào vũ trụ vong tình hứng

Hội ở văn chương cảm cảnh quan

Nhà biển thẻ tiên dường có hỏi

Xưa nay xoay chuyển mấy thương tang?

 

Ông Lê Bính dịch thơ:

Làm người thích ý mới hân hoan

Thích ý nào đâu chuyện dễ dàng

Tôi thích nước non chưa thưởng thức

Ông ưa trăng gió đã du nhàn

Vui cùng cảnh đẹp văn chương phát

Hứng đến tình thâm vũ trụ khoan

Mấy thẻ tang thương ngài có hỏi

Biến thiên để biết độ tuần hoàn.

 

24

其 二

代 汛 神 邀 客

名 汛 風 流 幾 夕 陽

笑 迎 遊 子 惹 豐 光

怡 情 剩 有 江 天 闊

供 興 偏 嫌 土 地 荒

暑知 非 遊 壁 客

乘 風 差 似 浴 沂 狂

勝 情 勝 具 斯 兼 得

為 問 君 應 老 是 鄉

 

Phiên âm:

                                    Kỳ Nhị

Đại tấn thần yêu khách

Danh tấn phong lưu kỷ tịch dương

Tiếu nghinh du tử nhạ phong quang

Di tình thặng hữu giang thiên khoát

Cung hứng thiên hiềm thổ địa hoang

Hoán thử tri phi du Bích khách

Thừa phong sai tự dục Nghi cuồng

Thắng tình thắng cụ tư kiêm đắc

Vị vấn quân ưng lão thị hương?

 

 

Dịch nghĩa :

                                                Bài Hai

Làm thay lời thần tấn mời khách

Nơi đồn binh phòng thủ cửa biển nổi tiếng đẹp lành từ bao năm tháng,

Nay mừng được đón du khách khiến cảnh sắc thêm đẹp đẽ, rực rỡ

Tình cảm đẹp đẽ có dư như sông dài trời rộng

Chỉ hiềm đất đai hoang sơ không đủ gợi hứng

Tránh nóng thì chẳng được như người khách chơi Xích Bích 1

Hóng mát thì mình tợ như người say mê cái thú tắm ở sông Nghi 2

Tình hơn, tài hơn nên nghiễm nghiên được cả

Hỏi anh có ưng ở nơi này lúc về già?

 

Chú thích: 1. Tô Đông Pha đời Tống, lúc bị biếm ở Hoàng Châu, nhân đêm thu trăng tỏ, cùng bạn đem rượu dong thuyền chơi Xích Tỵ Cơ mà có hứng làm nên bài Xích Bích phú bất hủ. Du Bích khách đây trỏ Đông Pha tức Tô Thức.

2. Sông Nghi ở phía Nam nước Lỗ, nay thuộc tỉnh Sơn Đông, nơi ấy có nguồn nước ấm. Theo Luận ngữ, đức Khổng Tử hỏi chí hướng các đồ đệ, đến phiên Tăng Điểm thì thầy thưa rằng mình muốn tắm ở sông Nghi, hóng mát ở đàn tế Vũ Vu, ca hát rồi trở về, tức bày tỏ ý thích tự do, không muốn ràng buộc bởi  danh lợi. Khổng Tử nghe xong cúngtan đồng ý kiến đó.

 

Dịch thơ :

                                    Bài Hai

Thay lời tấn thần mời khách

Đây Tấn từ lâu tiếng tốt vang

Đón mừng du tử cảnh thêm quang

Tình vui thừa tợ trời sông rộng

Hứng gợi ít vì đất cát hoang

Tránh nóng biết không tài cụ Thức

Chơi sông thêm thích thú thầy Tăng

Tình tài lỗi lạc đương nhiên được

Nơi nghỉ về già có muốn chăng?

 

Ông Lê Bính cũng có dịch thành thơ:

Tấn phong lưu tịch dương mấy nhỉ?

Mỉm môi chào khách quí quang lâm

Trời cao đất rộng tình thâm

Hiềm vì góc bể một đầm hoang vu

Khác Tô tử nhàn du Xích Bích

Giống Tăng hiền chỉ thích sông Nghi

Vui chơi đủ thú thiếu chi

Hỏi ông ưa ở chốn ni chăng là?

 

25

其 三

代 汛 神 餞 客

神 京 勝 景 一神 仙

剩 得 騷 翁 豈偶 然

風 月 好 曾 供勝 具

波 濤 為 帖 助孤 眠

連 宵 伴 我 宜清 興

大 筆 憑 君 托短 篇

潮 落 有 心 留客 駐

無 情 人 已 趁歸 船

 

Phiên âm:

                                    Kỳ Tam

Đại Tấn thần tiễn khách

Thần kinh thắng cảnh nhất thần tiên

Thặng đắc tao ông khởi ngẫu nhiên?

Phong nguyệt hảo tằng cung thắng cụ

Ba đào vi thiếp trợ cô miên

Liên tiêu bạn ngã nghi thanh hứng

Đại bút bằng quân thác đoản thiên

Triều lạc hữu tâm lưu khách trú

Vô tình nhân dĩ sấn qui thuyền.

 

Dịch thơ :

                                    Bài Ba

Làm thay lời Tấn thần tiễn khách

Thần kinh thắng cảnh nhất thần tiên

Được đón tao ông há ngẫu nhiên

Trăng gió khéo dùng kho bất tận

Sóng sông khẽ dỗ giấc cô miên

Đêm liền làm bạn thêm thanh hứng

Tài lớn nhờ anh thảo đoản thiên

Triều xuống, có lòng lưu khách trú

Vô tình, người lại cố ngoi thuyền !