Thơ chữ Hán(Bài 57 - Bài 62)
HÀ TRÌ THI TẬP
Thơ chữ Hán (Bài 1 - 10)
Thơ chữ Hán( Bài 11 - 19)
Thơ chữ Hán (Bài 20 - 25)
Thơ chữ Hán (Bài 26 - 35)
Thơ chữ Hán (Bài 36 - 43)
Thơ chữ Hán ( Bài 44 - 48)
Thơ chữ Hán (Bài 49 - 56)
57
臨 別詩 贈
提 夷又 見 孟 常 君
愛 我 洄 之 吳主 人
雲 水低 徊 臨 別 際
詩 餘豪 興 酒 餘 醺
𡍣 椥 女 士
Phiên âm :
Lâm biệt thi tặng
Đề Gi hựu kiến Mạnh Thường quân
Ái ngã Hồi Chi Ngô chủ nhân
Vân thủy đê hồi lâm biệt tế
Thi dư hào hứng tửu dư huân .
Bến Tre nữ sĩ
Dịch nghĩa :
Thơ tặng lúc từ biệt
Đến Đề Gi gặp người hào hiệp như Mạnh Thường Quân*
Đáng yêu thay chủ nhân họ Ngô hiệu Hồi Chi
Lúc chia tay, lòng nghĩ luẩn quẩn về sự hợp tan như mây nước
Thơ còn thừa hứng, rượu còn dư để uống tới say .
Nguyên chú : Niên hiệu Bảo Đại năm Nhâm Ngọ (1942) mùa xuân, có một nữ sĩ ở Bến Tre (Nam Kỳ) chơi xuân đến nhà Ngô Lê Tố tự Hồi Chi ở Đề Gi – Phù Cát, lúc từ biệt làm thơ này tặng Tố .
Chú thích : * Công tử nước Tề họ Điền tên Văn, người đời Chiến Quốc, tính rất hiếu khách, trong nhà lúc nào cũng có tới ba, bốn ngàn người đến làm môn khách .
Dịch thơ :
Thơ tặng lúc từ biệt
Đề Gi lại gặp Mạnh Thường đây !
Ngô chủ Hồi Chi đáng mến thay !
Lâm biệt rượu thơ hào hứng bấy
Hợp tan thao thức nước cùng mây !
58
和元 韻
紫紅 粧 點 倩 東 君
何幸 尋 芳 有 美 人
海岸 舒 徐 蓮 步 穩
桃花 春 盎 臉 微 醺
Phiên âm :
Họa nguyên vận
Tử hồng trang điểm thiến Đông quân
Hà hạnh tầm phương hữu mỹ nhân
Hải ngạn thư từ liên bộ ổn
Đào hoa xuân áng kiểm vi huân .
Dịch nghĩa :
Họa nguyên vần
Chúa xuân trang điểm muôn hồng ngàn tía khiến cảnh sắc đẹp đẽ *
Sao được cái may mắn người đẹp tìm cảnh đẹp mà đến đây ?
Trên bờ biển, gót sen thong thả yên ổn dạo;
Đôi má vì chút men rượu mà ửng hồng như đóa hoa đào mùa xuân .
Chú thích : * Đông quân : Thần chủ trì mùa xuân. Vua phương Đông là Thái Hạo. Thái Hạo ở cung Chấn, cầm cái qui (thước vuông) mà coi mùa xuân, gọi là Đông quân .
Dịch thơ :
Bài họa
Tía hồng trang điểm có Đông quân
May mắn làm sao được mỹ nhân
Bờ biển thong dong sen gót dạo
Men lừng má thắm tợ hoa xuân .
59
其 二
豪 俠提 夷 孰 與 君
懷 春雅 接 得 佳 人
相 逢可 惜 還 相 別
詩 半成 篇 酒 半 醺
Phiên âm :
Kỳ nhị
Hào hiệp Đề Gi thục dữ quân
Hoài xuân nhã tiếp đắc giai nhân
Tương phùng khả tích hoàn tương biệt
Thi bán thành thiên tửu bán huân !
Dịch nghĩa :
Bài hai
Đất Đề Gi hào hiệp thay để dung nạp thục nữ với quân tử
Giữa lúc nhớ tiếc tuổi xuân đã qua thì may mắn được tiếp người đẹp đến
Gặp nhau đáng mừng nhưng khá tiếc rồi cũng xa nhau
Giữa lúc thơ vịnh mới nửa bài, rượu mới ngà ngà say .
Dịch thơ :
Bài hai
Trai thanh gái lịch gặp nhau đây
Giữa buổi hoài xuân may mắn thay !
Gặp gỡ tiếc cho khi giã biệt
Thơ chưa đủ vận, rượu chưa say !
60
恭賀 同 春 尹 陳 大 人
百里 江 山 奮 宦 程
紅毛 遇 順 際 風 輕
三春 地 面 霑 膏 雨
一字 山 頭 耀 福 星
德政 未 言 棠 蔭 苃
豐 年且 喜 麥 歧 生
儒 科望 重 今 如 古
到 處循 良 溢 頌 聲
秀才 阮 文 運
Phiên âm :
Cung hạ Đồng Xuân doãn Trần Đại nhân
Bách lý giang sơn phấn hoạn trình
Hồng mao ngộ thuận tế phong khinh
Tam xuân địa diện triêm cao vũ
Nhất tự sơn đầu diệu phúc tinh
Đức chánh vị ngôn đường ấm bạt
Phong niên thả hỷ mạch kỳ sinh
Nho khoa vọng trọng kim như cổ
Đáo xứ tuần lương dật tụng thinh
Tú tài Nguyễn Văn Vận
Dịch nghĩa :
Kính mừng tri huyện Đồng Xuân Trần Đại nhân
Ngắm cảnh sông núi trăm dặm khiến người càng gắng sức theo đuổi con đường làm quan .
Như chim hồng gặp gió thuận, nhẹ nhàng lướt cánh
Tháng ba mùa xuân, mặt đất thấm đượm trận mưa màu mỡ ;
Trên đầu núi chữ Nhất, sao Phúc chiếu sáng
Làm chánh sự có ích cho dân thì chưa thể ví với người ngồi trong lều dưới bóng mát của cây cam đường 1
Nhưng mừng vì bông lúa trổ hai chẽ thì sẽ được mùa 2
Nhà nho đỗ đạt có danh vọng thì xưa nay đều kính trọng
Đến nơi này làm quan theo pháp độ mà giúp ích cho dân thì sẽ được dân chúng ca ngợi nhiều .
Nguyên chú : Nguyễn Văn Vận, đỗ Tú tài, người thôn Phú Hội thuộc huyện ta trị nhậm.
Chú thích : 1. Đường ấm bạt : Túp lều dưới bóng cây cam đường. Thiệu Công Thích đời Chu đem đức chánh của Văn Vương ban bố cho dân, thường nghỉ trong lều dưới bóng cây cam đường. Sau ông qua đời, dân nhớ ơn ông mà làm thơ Cam đường, trong bài có câu : “Tế phế cam đường, vật tiễn vật phạt, Thiệu bá sở bạt = Rậm rạp cam đường, chớ cắt chớ phá, Ấy lều Thiệu bá”. Xem Kinh Thi, thơ Thiệu Nam.
2. Mạch tuệ lưỡng kỳ : Bông lúa trổ hai chẽ. Trương Kham đời Hán làm Thái thú Ngư Dương. Ông cho khai phá hơn 80 khoảnh ruộng trồng lúa nước, giao cho dân chúng gieo trồng. : Lại khuyếch khích ai nấy chăm lo nông nghiệp khiến dân trong quận no đủ hơn trước. Dân đặt bài ca, trong bài có câu : “Tang vô phụ chi, Mạch tuệ lưỡng kỳ = Dâu không nảy nhánh phụ, Gié lúa trổ hai bông”.
Dịch thơ :
Thơ mừng quan huyện Đồng Xuân
Gấm vóc non sông quan phấn khởi
Gió đưa trăm dặm thuận hồng mao
Tháng ba mặt đất nhuần mưa mỡ
Chữ Nhất đầu non sáng ánh sao
“Chớ bẻ cành cam…” chưa dám sánh
Hãy xem bông lúa… đáng mừng bao !
Nhà Nho đỗ đạt xưa nay trọng
Giữ được tuần lương tiếng ngợi cao !
61
步韻 和 之
南 溟 萬里 趁 鵬 程
負 翼 抟 風 覺 太 輕
桃 院栽 花 幾 十 載
春 城製 錦 強 週 星
承 恩雨 露 螭 頭下
得 意風 雲 驥 足 生
憑 仗江 山 多 庇 護
郡 中豐 稔 沸 歌 聲
Phiên âm :
Bộ vận họa chi
Nam minh vạn lý sấn bằng trình
Phụ dực đoàn phong giác thái khinh
Đào viện tài hoa kỷ thập tải
Xuân thành chế cẩm cưỡng chu tinh
Thừa ân vũ lộ ly đầu hạ
Đắc ý phong vân ký túc sinh
Bằng trượng giang sơn đa tí hộ
Quận trung phong nẫm phí ca thinh .
Dịch nghĩa :
Theo vần họa lại
Chim bằng nhân tiện lợi mà cất cánh bay tới biển Nam muôn dặm
Nhờ có gió nâng đỡ hai bên mới thấy bay dễ dàng
Đã mấy mươi năm trồng hoa ở viện Đào 1
Miễn cưỡng học cắt gấm 2 ở thành xuân vừa tròn tuần lễ 3
Đón nhận ơn mưa móc nhỏ xuống từ đầu con li long 4
Đường công danh được đắc ý thì tiến xa như chân ngựa ký có mây đỡ 5
Nhờ cậy uy linh thần sông núi che chở giúp đỡ nhiều
Để trong quận năm nào cũng được mùa cho dân chúng cất tiếng hát ca .
Chú thích : 1. Đào viện : Viện Đào. Phan Nhạc cho dân trồng đào ở huyện Hà Dương (xem Chú thích 1 bài 55). Đây dùng ý nói tác giả đã hơn mười năm làm tri huyện nhiều nơi, trước khi đổi tới huyện Đồng Xuân.
2. Chế cẩm : cắt gấm. Do câu : “Học chế mỹ cẩm = Học cắt gấm đẹp trong Cổ văn. Đây dùng ý nói “học cách làm quan” – ý tự khiêm. Xuân thành : thành xuân. Đây dùng trỏ huyện trị Đồng Xuân.
3. Tinh tức tinh kỳ là tuần lễ. Đời gần đây, Trung Quốc dùng Nhật, Nguyệt, Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ đặt tên cho mỗi ngày từ Chủ nhật đến thứ Bảy theo tuần lễ của Dương lịch gọi là Tinh kỳ (Kỳ sao).
4. Tác giả chú : Nguyên đán Nhâm Ngọ (1942) thăng tri phủ hạng 2 nhưng vẫn lãnh Tri huyện Đồng Xuân.
5. Ngựa ký ngựa kỳ là hai loại ngựa khỏe, ngày đi ngàn dặm. Chiến quốc sách : “Kỳ ký thịnh tráng chi thời, nhất nhật nhi trì thiên lý = Ngựa kỳ ngựa ký lúc thịnh khỏe, một ngày chạy tới ngàn dặm”.
Dịch thơ :
Bài họa
Bể Nam muôn dặm cánh bằng bay
Gió đỡ bên mình thấy nhẹ thay
Đào viện trồng hoa bao thuở ấy
Xuân thành cắt gấm mới tuần nay
Nhờ ơn mưa móc rồng phun nước
Đắc ý công danh ngựa cỡi mây
Cầu với non sông nhiều ủng hộ
Dân mừng no ấm hát vang vầy.
Ông Lê Bính cũng có dịch thành thơ :
Biển Nam muôn dặm cánh bằng
Lượn theo chiều gió nhẹ nhàng tung bay
Trồng hoa hơn chục năm nay
Thành Xuân cắt gấm bảy ngày vừa qua
Ơn vua mưa móc đậm đà
Mây nâng ngựa ký đường xa sẵn sàng
Hộ trì nhờ có giang san
Quận trung dậy khúc ca vang được mùa !
62
行 轄紀 事
春 日觀 風 上 總 兵
崔 嵬 我 馬 陟 崗 行
峰 橫鳥 道 崚 嶒 石
逕 繞羊 腸 逶 迤 程
盧 嶂 青 林 標 畫本
檜 泉流 水 弄 琴 聲
斜 陽歷 盡 山 溪 險
旗 鼓相 望 夾 路 迎
Phiên âm :
Hành hạt kỷ sư
Xuân nhật quan phong thướng Tổng Binh
Thôi ngôi ngã mã trắc cương hành
Phong hoành điểu đạo lăng tằng thạch
Kính nhiễu dương trường ủy dĩ trình
Lô chướng thanh lâm tiêu họa bản
Cối tuyền lưu thủy lộng cầm thinh
Tà dương lịch tận sơn khê hiểm
Kỳ cổ tương vương giáp lộ nghinh .
Dịch nghĩa :
Ghi lại việc kinh lý
Ngày xuân lên thôn Tổng Binh xem phong hóa dân tình
Núi cao ngất, ngựa ta đi lên sống núi
Sống núi giăng ngang như đường chim bay, đá chồng chất từ thấp lên cao
Đường quanh co như ruột dê, lượn bên này, xiên bên kia
Dốc Sặc 1 chắn như bức bình phong vẽ tranh rừng xanh
Nước suối Cối 2 luôn chảy, tiếng nước reo như tiếng đàn
Ánh mặt trời sắp tắt trải khắp núi khe hiểm trở
Cờ trống đã chực sẵn đầu đường chờ đón ta .
Nguyên chú : Tháng hai năm Nhâm Ngọ (1942) đi thanh tra thôn Tổng Binh trong hạt ta trị nhậm.
1. Lô chướng : Tục danh dốc Sặc
2. Cối tuyền : Tục danh suối Cối
Dịch thơ :
Ghi việc kinh ly
Thăm thú dân tình thôn Tổng Binh
Non xuân chất ngất, ngựa bôn trình
Như đường chim vút tần vần đá
Tợ ruột dê bày khuất khúc hình
Dốc chắn lau xanh nên bích họa
Khe lòn nước biếc nảy cầm thinh
Rừng chiều hiểm trở tà dương nhuộm
Ánh ỏi đầu thôn cờ trống nghinh.
Ông Lê Bính cũng có dịch thành thơ :
Xuân hành hạt Tổng Binh một xã
Sườn núi leo ngựa đã nhọc nhằn
Đường chim đá dựng lăng tằng
Ruột dê nẻo ấy nhịt nhằng uốn quanh
Rừng Dốc Sặc như tranh ai vẽ
Nước Cối Tuyền dường thể đờn hay
Xế chiều qua hết hiểm nguy
Trống cờ chực sẵn rước ngay về làng .
63
其 二
旗 鼓 爭 迎 到 是 鄉
燈 燃 掩 曖 送 斜 陽
徐 來 陌 上 春 風 惹
高 掛 山 頭 月 魄 光
四 壁 崗 岩 歸 指 顧
一 壺 天 地 入 平 章
村 庄 睡 醒 紅 輪 照
滿 目雲 山 錦 繡 粧
Phiên âm :
Kỳ nhị
Kỳ cổ tranh nghinh đáo thị hương
Đăng nhiên yểm ái tống tà dương
Từ lai mạch thượng xuân phong nhạ
Cao quải sơn đầu nguyệt phách quang
Tứ bích cương nham qui chỉ cố
Nhất hồ thiên địa nhập bình chương
Thôn trang thụy tỉnh hồng luân chiếu
Mãn mục vân sơn cẩm tú trang .
Dịch nghĩa :
Kỳ hai
Cờ trống tranh nhau đón ta đến thôn này (Tổng Binh)
Ánh đèn đốt lên khi tỏ khi mờ như xua đuổi bóng chạng vạng lúc mặt trời sắp tắt.
Đường nhỏ chờ đón gió xuân chầm chậm lướt qua
Đầu núi cao treo vừng trăng khuyết phát sáng
Bốn mặt núi đứng như bốn bức vách cùng quay đầu lại
Một bầu trời đất mà hình ảnh đi vào văn chương phẩm bình
Thôn trang thức dậy vào lúc mặt trời hồng soi sáng
Cảnh sông núi rạng rỡ như được tô điểm bằng gấm vốc phô bày trước mắt làm ta ngắm đến thỏa thích.
Dịch thơ :
Bài hai
Cờ trống tranh nhau rước tới làng
Ánh đèn mờ tỏ nối chiều vàng
Lửng lơ đỉnh núi vầng trăng khuyết
Phe phẩy bờ con ngọn gió ngàn
Bốn hướng non bày như cối diện
Một bầu cảnh đẹp tợ văn chương
Nắng hồng vừa hé thôn hương thức
Đẫy mắt non sông gấm điểm trang !
Ông Lê Bính cũng có dịch thành thơ :
Cờ trống rước về nơi đình xã
Tan bóng dương đèn đã sáng trưng
Từ từ thổi đến gió xuân
Đầu non trông thấy trăng hừng mọc ra
Trong chỉ cố nham a bốn vách
Vào bình chương trời đất một vùng
Dậy xem vừng nhật đỏ hồng
Núi mây trước mắt chập chồng gấm thêu !