httt36

Thơ chữ Hán (Bài 49 - Bài 56)

HÀ TRÌ THI TẬP 

49

過 懷 恩舊 縣 所 感 作

美 成 路上 復 趨 車

重 過 懷恩 舊 縣 衙

禾 麥 園多 光 景 異

蓬 蒿 籬滿 夕 陽 斜

行 祠   裡 無 懸 蝠

老 竹 枝頭 有 暮 鴉

佛 寺 神亭 前 後 在

依 然 不改 此 山 河

 

Phiên âm:

            Quá Hoài Ân cựu huyện sở cảm tác

Mỹ Thành lộ thượng phục xu xa,

Trùng quá Hoài Ân cựu huyện nha.

Hoà mạch viên đa quang cảnh dị,

Bồng cao ly mãn tịch dương tà.

Hành từ kham lý vô huyền bức,

Lão trúc chi đầu hữu mộ nha.

Phật tự thần đình tiền hậu tại,

Y nhiên bất cải thử sơn hà!

 

Dịch nghĩa:

            Qua huyện sở cũ Hoài Ân cảm tác

Lại giong xe chạy nhanh trên đường làng Mỹ Thành

Lần nữa đi ngang qua huyện nha cũ Hoài Ân.

Lúa nếp trồng trong vườn khiến quang cảnh khác xưa nhiều

Nắng chiều sắp tắt đã đọng lại trên bờ rào đầy cả bòng bong và cỏ ngải

Trong khám của miếu thờ Ngũ hành không thấy dơi treo mình ngủ

Trên đầu cây trúc già có con quạ trú đêm

Đình thờ thần trước huyện nha, chùa thờ Phật sau huyện nha, vẫn còn đó

Vẫn như cũ, chẳng có gì thay đổi, cũng như sông núi nơi này.

 

Chú thích: Bài này tác giả làm trước năm 1945, được người anh là ông Tú Giải, hiệu Hương Tiều hoạ lại (xem sau). Không phải được làm sau năm 1955 như có người đã lầm. Cảnh tả trong bài là cảnh trước 1945. Sau năm 1945, nha và đình không còn.

 

Dịch thơ:

Qua huyện sở cũ Hoài Ân cảm tác

Trên đường thôn Mỹ lướt xe qua

Lại vượt Hoài Ân cựu huyện nha

Lúa nếp vun vườn quang cảnh khác

Ngải hồng đầy giậu, ánh chiều tà

Ngũ hành trong khám không dơi ngủ

Lục trúc đầu cành có quạ già

Chùa Phật đình thần sau trước huyện

Như xưa, chẳng đổi tợ sơn hà.

 

Ông Lê Bính cũng có dịch thành thơ:

Mỹ Thành xe lướt đường xa

Hoài Ân, cảnh cũ huyện nha trùng phùng

Khác xưa bắp lúa đầy đồng

Rào lau bóng xế ai trồng đã cao

Đền thờ dơi chẳng ra vào

Tre già ác lại nhánh chiều ngơi chân

Trước sau: chùa Phật đình thần

Sơn hà như cũ muôn phần tốt tươi!

 

50

步 韻 和 之

水 有 舟 行 陸 有 車

人 煙 溱  集 景環 衙

風  來 庭  外 梅 花 動 

日 炤 籬 邊 竹 影 斜

九 陛 絲 綸 啣 彩 鳳

五 更 蕭 鼓 起 寒 鴉

江 山 隨 在 皆 堪 賞

善 政 期 將 虎 度 河

香 樵

 

Phiên âm:

Bộ vận hoạ chi

Thuỷ hữu chu hành, lục hữu xa

Nhân yên trăn tập cảnh hoàn nha

Phong lai đình ngoại mai hoa động

Nhật chiếu ly biên trúc ảnh tà

Cửu bệ ti luân hàm thải phụng

Ngũ canh tiêu cổ khởi hàn nha

Giang sơn tuỳ tại giai kham thưởng

Thiện chánh kỳ tương hổ độ hà

Hương Tiều

 

Dịch nghĩa:

Theo vần hoạ lại

Đi đường thuỷ có thuyền, đi đường bộ có xe

Người và khói (xe) cùng đến với cảnh quanh huyện nha

Gió thổi qua sân, lay động hoa mai

Ánh mặt trời rọi, bên bờ rào, bóng trúc ngã xiên.

Chim phượng có lông năm màu, miệng ngậm tờ chiếu vua ban từ chín bệ,

Tiếng sáo, tiếng trống nổi lên lúc canh năm làm con quạ lạnh giật mình trỗi dậy

Sông núi ở nơi nào cũng đều có thể thưởng ngoạn được,

Nhưng làm việc chính trị có kết quả tốt thì chỉ trông mong vào người thi hành nhân chính khiến hổ cõng con qua sông bỏ đi nơi khác.

 

Chú thích: * hổ độ hà: hổ qua sông. (1) Sách Hậu Hán thư: truyện Tống Quân: “Tống Quân dời đến làm thái thú Cửu Giang. Quận có nhiều hổ dữ, luôn luôn gây tai hoạ, thường bày cũi, đào hố (để bắt hổ) nhưng dân vẫn còn bị hại rất nhiều. Khi Tống Quân đến, ông truyền trong thuộc quận rằng: '‘Phàm hổ báo ở núi, ba ba cá sấu ở nước, chúng đều có cái để nương nhờ... Nay làm hại dân, tội ở quan lại tàn ác, bắt dân phải lao khổ bắt chúng, bản chất không phải là lo toan thương xót vậy’. Ông dốc lòng đẩy lùi gian tham, nghĩ cách tiến cử người trung thiện, có thể bỏ hết cũi hố, bãi bỏ thuế khoá. Về sau có lời truyền rằng hổ qua sông (hổ độ hà) đi hết về phía đông” (Dịch theo Thường dụng điển cố từ điển, Thượng Hải từ thư xuất bản xã, Thượng Hải 1985, tr. 289)

(2) Sách Hậu Hán thư: truyện Lưu Côn: “Đường chạy dịch trạm ở vùng Hào, vùng Mãnh nhiều tai hoạ do hổ gây ra, đi đường xa không thông suốt. Đến khi Lưu Côn làm Thái thú  Hoằng Nông, tham chính ba năm, lòng nhân từ toả rộng khắp nơi, hổ đều cõng con qua sông (hổ giai phụ tử độ hà) mà đi hết.

            Về sau các từ:độ hổ, hổ độ giang, hổ độ hà, dịch tục khử hổ, Cửu giang độ hổ, Lưu Côn thiện chính, phụ tử độ hà, hổ tri khử cảnh: đều dùng để chỉ quan cai trị nhân đức, tài giỏi khiến cho dân chúng được an cư lạc nghiệp.

(Theo Trung Quốc điển cố, Đông Phương xuất bản trung tâm, Thượng Hải, 1998, tr. 151)

 

Dịch thơ:

Bài hoạ

Đường thuỷ có thuyền, bộ có xa

Người cùng khói đến cảnh quanh nha

Gió qua trước ngõ, hoa mai động

Nắng rọi bên rào, bóng trúc tà

Chín bệ chiếu ban ngời thải phụng

Năm canh trống điểm hoảng hàn nha

Non sông thưởng thức tuỳ lòng khách

Thiện chánh, xui nên hổ độ hà.

 

51

恭 賀 同 春 尹 陳 大 人

大 人 德 政 本 儒 家

四 面 琴 堂 頌 且歌

馬 霧 山 高 寬 虎 踞

虯  蒙 海 闊 帖 鯨波

三江 教 育 天 才 盛

五福 田 疇 穀 米 多

未說 榮 階 民 愛 戴

樂今 甘 注 已 隨 車

老 士 杜 春 魁

 

 

Phiên âm:

Cung hạ Đồng Xuân doãn Trần đại nhân

Đại nhân đức chánh bản Nho gia

Tứ diện cầm đường tụng thả ca

Mã Vụ sơn cao khoan hổ cứ

Cù Mông hải khoát thiếp kình ba

Tam giang giáo dục thiên tài thịnh

Ngũ Phước điền trù cốc mễ đa

Vị thuyết vinh giai dân ái đới

Lạc kim cam chú dĩ tuỳ xa.

Lão sĩ Đỗ Xuân Khôi

 

 

Dịch nghĩa:

Kính mừng quan lớn họ Trần

Làm tri huyện huyện Đồng Xuân1

Quan lớn làm chánh sự có ích cho dân, vốn xuất thân là Nho gia

Bốn mặt huyện nha nổi lên lời ca khen ngợi

Núi Mã Vụ cao, dáng như con hổ khoan thai ngồi

Biển Cù Mông rộng, vắng bặt sóng do cá kình gây ra

(Nay ở) vùng sông Ba (nhờ sự) dạy bảo (của quan lớn mà) nảy nở nhiều tài năng trời phú.

Năm làng đều mang tên Phước2 ruộng nương trù phú, lúa thóc dồi dào

Chưa nói việc ngài vẻ vang được thăng bậc mà dân đã kính yêu

Mừng nay xe ngài đi tới đâu thì mưa ngọt rắc theo sau xe tới đó 3.

 

Nguyên chú: * Đỗ Xuân Khôi là một lão sĩ ở trong hạt ta trị nhậm (huyện Đồng Xuân, đạo Phú Yên)

Chú thích: 1. Vào thời điểm này, ông Hà Trì làm tri huyện Đồng Xuân thì thổ địa của huyện gồm cả hai huyện Đồng Xuân và Sông Cầu hiện nay.

2. Năm làng mang tên Phước nằm trong huyện Đồng Xuân thời ấy là: Phước Đức, Phước Lý, Phước Sơn, Tân Phước và Long Phước.

3. Tổng trấn Từ Châu là Bách Lý Trung nổi tiếng có chánh tích tốt. Trong hạt nắng lâu không mưa, gặp lúc xe ông trẩy qua thì có mưa lớn đổ xuống.

 

Dịch thơ:

Kính mừng quan lớn họ Trần

Làm tri huyện huyện Đồng Xuân

Đại nhân đức chánh gốc Nho gia

Bốn mặt huyện đường tiếng ngợi ca

Mã Vụ non cao con hổ núp

Cù Mông biển rộng sóng kình xa

Tài năng nảy nở Tam giang thịnh

Lúa thóc đơm đầy ngũ Phước đa

Chưa nói vinh thăng dân ái kính

Mừng nay mưa ngọt đã tuỳ xa!

 

52

步 韻和 之

 (每句均用村名或地名)

同春 銓 到 宦 為 家

美譽 慚 無 麥 穗 歌

一字 山 邊 鳴 綠 綺

三江 橋 下 汎 凌 波

永和 恰 值 三 春 泰

霑德 頻 臨 五 福 多

海富 河 平 風 月 好

高峰 乘 興 訪 鳩 車

 

 

Phiên âm:

Bộ vận hoạ chi

(Mỗi cú quân dụng thôn danh hoặc địa danh)

Đồng Xuân thuyên đáo hoạn vi gia

Mỹ Dự tàm vô Mạch Tuệ ca

Nhất tự sơn biên minh lục ỷ

Tam giang kiều hạ phiếm lăng ba

Vĩnh Hoà kháp trị tam xuân thái

Triêm đức tần lâm ngũ phúc đa

Hải Phú, Hà Bình phong nguyệt hảo

Cao Phong thừa hứng phỏng cưu xa.

 

Dịch nghĩa:

Theo vần hoạ lại

(Mỗi câu đều dùng tên thôn hoặc tên đất)

Được triều đình chọn mà đổi ta đến huyện Đồng Xuân thì lấy nơi làm quan làm quê hương.

(Đến) thôn Mỹ Dự (có nghĩa là lời khen tốt đẹp) thì thẹn không được như người trong bài ca Mạch Tuệ.1

Bên bìa núi chữ Nhất gảy cây đàn Lục Ỷ2

Dưới cầu sông Ba thả thuyền đùa với sóng nước

(Tới) thôn Vĩnh Hoà vừa đúng lúc xuân về, ba hào dương mở đầu quẻ Thái 3

Thôn Triêm Đức từng được năm phước lành 4

Gió và trăng ở hai thôn Hải Phú, Hà Bình đều tốt lành

Nhân hứng đến thôn Cao Phong tìm chỗ ở đậu 5.

 

Chú thích: 1. Mạch Tuệ ca: Bài hát Bông lúa mạch, theo Hậu Hán thư, Trương Kham làm thái thú Ngư Dương, khuyến khích nâng đỡ dân chúng chăm lo nông nghiệp khiến mọi người no đủ. Họ đặt bài ca rằng:

Tang vô phụ chi

Mạch Tuệ lưỡng kỳ

Trương quân vi chánh

Lạc bất khả chi!

Dịch: Cây dâu không nhánh phụ

Bông lúa có hai chẽ

Ông Trương làm việc nước

Niềm vui khôn xiết kể!

2. Lục ỷ: Tên cây đàn của Tư Mã Tương Như đời Hán. (Có người cho là đàn của Thái Ung đời Hán mạt)

3. Tam Xuân thái: theo Kinh Dịch, tượng của quẻ Địa Thiên Thái (gọi tắt là quẻ Thái) thì trên là quẻ Khôn (trỏ đất), dưới là quẻ Càn        (trỏ trời) hợp thành quẻ Thái. Quẻ Càn có ba vạch liền tức ba hào Dương nên gọi là tam Dương khai Thái (Ba hào Dương mở ra quẻ Thái cũng có nghĩa: Ba hào Dương mở vận Thái hoà). Ứng vào Thời lịnh thì quẻ Thái thuộc về tháng Giêng nên quẻ Thái cũng mở đầu năm mới.

4. Năm phước: Sống lâu, mạnh khoẻ, chết già, nhiều điều lành, giàu có.

5. Chữ Xa  * còn đọc là cư đồng âm với cư là ở. Cho nên cưu cư có nghĩa chim tu hú không làm được tổ đành ở nhờ tổ chim thước. Nghĩa bóng: ở đậu nhà người ta.

Biệt chú: Bản Lê Bính, câu cuối chép là:

    高峰 時 興 用 輕車

            Cao phong thời hứng dụng khinh xa

Dịch: Cao phong lúc hứng dùng xe nhẹ

Chưa rõ vì đâu có dị bản này.

 

Dịch thơ:

Bài hoạ

Đồng Xuân đổi tới, hoạn vi gia

Mỹ Dự thẹn không Mạch Tuệ ca

Đàn Lục gảy bên non chữ Một

Thuyền lan tha thướt cầu sông Ba

Ba dương mở vận Vĩnh Hoà gặp

Năm phước vào nhà Triêm Đức đa

Hải Phú, Hà Bình trăng gió tốt

Cao Phong hứng đến hỏi thuê nhà.

Ông Lê Bính cũng có dịch thành thơ:

Đồng Xuân huyện lỵ cũng là nhà

Thẹn chửa vang lừng tiếng ngợi ca

Bên nước đàn reo theo phách điệu

Dưới cầu thuyền dạo lướt phong ba

Ba xuân vận gặp xuân hoà thái

Năm phước ban ơn phước đậm đà

Sông tạnh biển yên trăng gió tốt

Non cao thưởng ngoạn sẵn khinh xa!

 

53

百里 春 風 政 治 家

春臺 早 已 翕 絃 歌

心存 寬 厚 留 餘 地

會見 隆 平 帖 巨 波

福祿 素 徵 隆 盛 久

勤良 須 信 富 榮 多

即今 雨 露 憑 霑 德

岐路 行 看 鹿 夾 車

 

Phiên âm:

Hựu thể

Bách lý Xuân Phong chánh trị gia

Xuân Đài tảo dĩ hấp huyền ca

Tâm tồn khoan hậu lưu dư địa

Hội kiến Long Bình thiếp cự ba

Phước Lộc tố trưng Long Thạnh cửu

Cần Lương tu tín Phú Vinh đa

Tức kim vũ lộ bằng Triêm Đức

Kỳ lộ hành khan lộc giáp xa

 

Dịch nghĩa:

Lại một bài nữa như thể bài trước

Gió xuân đưa nhà chánh trị đến làm việc trong trăm dặm vuông1,

Nơi đài xuân, sớm đã hoà hợp với tiếng đàn giọng hát2

Tâm hồn khoan thứ và đôn hậu để lại phước dư

Thấy được cảnh đất nước yên ổn lâu dài như biển không sóng lớn

Vốn có phúc lộc nên được hưng thịnh lâu dài

Siêng năng làm việc, ăn ở lương thiện, sửa mình chính đính, giữ tròn tín nghĩa. Làm được như thế thì sẽ được nhiều giàu có và vẻ vang

Như nay được nhận ơn mưa móc là nhờ phúc đức đã nhuần thấm,

Nơi ngã ba đường thấy nai đi kèm hai bên xe3.

 

Chú thích: 1. Tức một huyện (xem chú thích số 1 bài 45)

2. Lão tử: Chúng nhân hi hi như hưởng thái lao, như xuân đăng đài = Mọi người hớn hở như hưởng bữa tiệc lớn, như mùa xuân lên đài. Do đó, xuân đài thường dùng trỏ cảnh tượng thái bình, trỏ đời thịnh trị.

3. Trịnh Hoằng đời Hán làm Thái thú Lâm Hoài. Lúc đi chơi xuân, chợt có hai con nai đến hai bên trục xe mà cùng đi theo. Bấy giờ có viên chủ bạ là Hoàng Đỗ đến chúc mừng rằng: "Xe của quan bậc Tam công có vẽ hai con nai. Nay có hai con nai kề hai bên xe ngài mà cùng đi theo thì ắt sau này ngài sẽ làm đến bậc Tam công. Quả nhiên sau Trịnh làm tới chức Thái uý.

Biệt chú: Ở phần phiên âm, các chữ viết hoa đều là thôn danh hoặc địa danh trong huyện Đồng Xuân thủa tác giả trị nhậm. Ở phần dịch nghĩa chúng tôi đã đặt các từ ấy vào mạch văn mà dịch cho câu thơ có nghĩa; ở phần dịch thơ tôi cố gắng giữ nguyên các từ ấy như đã làm được ở bài trước nhưng không được sáng nghĩa bằng bài trước. Âu đó cũng là một hạn chế bởi cách chơi chữ của tác giả rất khó vượt qua, người đọc có khó tính cũng phải thông cảm.

 

Dịch thơ :

Bài hai

Trăm dặm Xuân Phong ngày để lỵ*

Xuân Đài sớm hợp giọng đờn ca

Lòng gìn Khoan Hậu lưu dư ấm

Mắt thấy Long Bình bặt cự ba

Phước Lộc gầy nên Hưng Thạnh mãi

Cần Lương giữ được Phú Vinh đa

Nay nhuần mưa móc nhờ Triêm Đức

Nai cặp kè xe giữa ngã ba

 

Nếu chỉ thủ nghĩa thì có thể dịch là:

Trăm dặm gió xuân ngày để lỵ

Đài xuân sớm hợp giọng đàn ca

Lòng gìn khoan hậu lưu dư ấm

Mắt thấy thăng bình bặt cự ba

Có phước thì nên hưng thạnh mãi

Siêng lành ắt được phú vinh mà

Nay nhuần mưa móc nhờ vun đức

Nai cặp kè xe giữa ngã ba.

.* Để lỵ: đến lỵ sở, đến nơi làm việc.

 

 

54

 

和 候補 黎 普

之 峨山 尹 留 柬 詩

歲 星休 道 幾 番 週

參 朮榮 今 國 手 收

桃 縣春 開 花 滿 地

瓊 筵觴 引 月 當 樓

得 山水 樂 多 佳 勝

到 帝王 州 暢 宦 遊

自 是風 雲 前 路 穩

相 期用 作 濟 川 舟

 

Phiên âm:

Hoạ hậu bổ Lê Phổ

chi Nga Sơn doãn lưu giản thi

Tuế tinh hưu đạo kỷ phiên chu

Sâm truật vinh kim quốc thủ thu

Đào huyện xuân khai hoa mãn địa

Quỳnh diên thương dẫn nguyệt đương lâu

Đắc sơn thuỷ lạc đa giai thắng

Đáo Đế vương châu sướng hoạn du

Tự thị phong vân tiền lộ ổn

Tương kỳ dụng tác tế xuyên chu

 

Dịch nghĩa:

Hoạ thơ lưu giản của Lê Phổ,

chân Hậu bổ đi tri huyện Nga Sơn.

Đã mấy phen sao Tuế đi giáp vòng tới chỗ nghỉ

Nay người tài đức trong nước có ích cho đời được nhà vua dùng một cách vẻ vang như các vị thuốc thượng phẩm là sâm truật được ông thầy nổi tiếng giỏi nhất nước thu lấy.

Xuân về, huyện Đào có hoa đào nở đầy huyện1

Tiệc ngọc bày trên lầu có bóng trăng soi tiệc rượu

Được vui với núi sông đa số đều đẹp đẽ và nổi tiếng

Đến cõi đất phát Đế vương mà làm quan thì cũng thích2

Tự cho rằng bước đường làm quan sắp trải qua sẽ được yên ổn

Thì mong anh sẽ giúp đỡ dân thuộc hạt như chiếc thuyền đưa người qua sông.

 

Nguyên chú: Hậu bổ Lê Phổ được bổ tri huyện huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hoá, làm thơ để lại cho bạn bè trước khi lên đường nhậm chức (Không thấy bài xướng - LX)

Chú thích:  * Lê Phổ người thôn Xuân Thành huyện Do Linh tỉnh Quảng Trị. Sinh năm 1896. Đỗ cử nhân khoa Mậu Ngọ (1918) đời Khải Định, lúc 22 tuổi Dương.

1. Đào huyện: Huyện hoa đào. Theo Tấn thư, Phan Nhạc tên tự là An Nhân, làm Huyện lịnh Hà Dương. Dân có kẻ mắc nợ nhà nước lâu ngày không trả nổi phải bỏ trốn thì ông gọi tới bảo trồng cho huyện mỗi người một gốc đào để trừ nợ. Kịp tới lúc mãn nhiệm ra đi thì khắp huyện nơi nào cũng có hoa cả. Nhân đó, người đời gọi Hà Dương là Đào huyện hay Hoa huyện.

2. Đế vương châu: châu có đế vương phát tích, đây trỏ tỉnh Thanh Hoá là nơi phát tích của nhà Lê và nhà Nguyễn. Hiện vẫn còn lăng Tuyên tổ Lê Khoáng (cha Thái tổ Lê Lợi) tại huyện Thuỵ Nguyên mà Đại Nam nhất thống chí cho: "Đất này là cỗi gốc phát phúc của nhà Lê. Từ Thái tổ Lê Lợi trở đi, vua nào băng cũng được đưa về táng tại Thanh Hoá, rải rác tại các huyện Thuỵ Nguyên, Đông Sơn, Lôi Dương. Lăng Triệu tổ Nguyễn Kim (cha Thái tổ Nguyễn Hoàng, ông tổ cách 10 đời của Thế tổ Gia Long Nguyễn Phúc Ánh) tại núi Triệu Tường huyện Tống Sơn mà Nhất thống chí cho là huyệt phát đế vương nên "huyệt mở miệng rồng, lúc đặt quan tài xong thì cửa huyệt khép chặt lại, phút chốc mưa gió nổi lên, mọi người sợ hãi chạy tan, lúc hợp lại thì núi đá liên tiếp, cây cối um tùm, không nhận được mộ ở đâu". Huyện Nga Sơn nằm cạnh huyện Tống Sơn và gần huyện Thuỵ Nguyên đều thuộc tỉnh Thanh Hoá nên ở đây gọi là Đế Vương châu.

 

Dịch thơ:

Hoạ thơ lưu giản của Lê Phổ

Mấy năm chờ bổ, nghỉ cùng ngơi

Tài đức ngày nay dụng giúp đời

Xuân tới huyện Đào hoa đất rợp

Lầu bày tiệc ngọc chén trăng soi

Vui sơn thuỷ thú, hân hoan lắm

Đến đế vương châu thoả thích rồi

Tự nhủ hoạn đồ yên ổn được

Thì xin tế độ kẻ chơi vơi.

 

55

和武 敦 興 詩

賢 路 天 多 曜 福星

同 州 南 轉 馬 奔程

三 春 花 草 邀 成趣

百 里 江 山 樂 有情

敢 謂 兼 科 長 政事

可 能 酬 世 有 功名

宦 遊 此 地 饒 佳勝

併 作 雲 煙 筆 下生

 

 

Phiên âm:

Hoạ Võ Đôn Hưng thi

Hiền lộ thiên đa diệu phúc tinh

Đồng châu nam chuyển mã bôn trình

Tam xuân hoa thảo yêu thành thú

Bách lý giang sơn lạc hữu tình

Cảm vị kiêm khoa trường chánh sự

Khả năng thù thế hữu công danh

Hoạn du thử địa nhiêu giai thắng

Tính tác vân yên bút hạ sanh

 

Dịch nghĩa:

Hoạ bài thơ của Võ Đôn Hưng

Không phận thuộc tỉnh của hiền khế có nhiều sao phúc soi

Ta được đổi tới huyện Đồng Xuân ở phía Nam nhiệm sở cũ nên đi ngựa mà đến

Hoa cỏ tháng ba mùa xuân như mời gọi ta khiến ta thích thú

Sông núi trong trăm dặm như có tình với ta, khiến ta sung sướng.

Há dám nói rằng ta thành thạo cả khoa chánh trị?

Sức có thể đáp ứng với thời thế mà có công danh

Đến làm quan đất này là nơi có nhiều cảnh đẹp nổi tiếng

Bèn dùng bút vẽ vời nên mây khói.

 

Nguyên chú: Võ Đôn Hưng là học sinh trường tỉnh, người ở hạt ta trị nhậm (Vẫn không thấy nguyên tác - LX)

 

Dịch thơ:

Hoạ thơ Võ Đôn Hưng

Tỉnh Phú trời cho lắm phúc tinh

Huyện Đồng chuyển đến, ngựa bôn trình

Ba xuân hoa cỏ xem thành thú

Trăm dặm giang sơn thấy hữu tình

Dám nói đã từng rành chánh sự?

Ứng thời tuỳ sức lập công danh

Cảm vì đất hoạn nhiều giai thắng

Bút hứng vẽ vời mây khói sanh.

 

 

 

56

其 二

風 流 琴 韻 耐

爭似 身 聯 玉 筍 班

地主 陽 春 宜 有 腳

天威 咫 尺 敢 違 顏

莫猜 枳 棘 鸞棲 穩

且喜 鄉 閭 雁 宅 安

鵬徙 南 溟 隨 海運

摶 風萬 里 更 何 難

 

Phiên âm:

                        Kỳ nhị

Phong lưu cầm vận Nại Cù gian

Tranh tự thân liên Ngọc duẩn ban

Địa chủ dương xuân nghi hữu cước

Thiên uy chỉ xích cảm vi nhan

Mạc sai chỉ cức loan thê ổn

Thả hỉ hương lư nhạn trạch an

Bằng tỉ Nam minh tùy hải vận

Đoàn phong vạn lý cánh hà nan ?

 

Dịch nghĩa :

                                    Bài hai

Thong thả gảy đàn giữa khoảng đầm Thị Nại và núi Cù Mông 1

Mà tranh sao cho thân được liệt vào hàng Măng ngọc 2

Gặp tiết xuân, khí dương đầm ấm lan khắp nơi như có chân bước đi

Trời ra oai trong vòng gang tấc há dám làm trái lệnh ?

Chim loan chẳng hiềm cây lắm gai miễn có chỗ đậu yên ổn

Chim nhạn mừng vì đã trú an tại cổng làng

Chim bằng muốn rời biển Bắc sang biển Nam còn tùy thuộc sức vận hành của gió ở biển Bắc 3

Nhờ gió xoáy đưa lên muôn dặm lại khó sao ?

 

Chú thích : 1. Nại Cù tức đầm Thị Nại trỏ tỉnh Bình Định, núi Cù Mông trỏ tỉnh Phú Yên. Tác giả từ tri huyện Hoài Ân – Bình Định đổi làm tri huyện Đồng Xuân – Phú Yên nên gọi là “cầm vận Nại Cù gian”. Cầm, Vận xem chú thích bài 1.

2. Ngọc duẩn ban : Hàng Măng ngọc. Đời Đường Lý Tông tuyển được nhiều danh sĩ, đời gọi họ là Măng ngọc. Khi triều hội họ đứng thành hàng gọi là hàng Măng ngọc.

3. Bằng tỷ Nam minh : chim bằng rời biển Bắc sang biển Nam. Trang tử : chim bằng lớn mấy ngàn dặm. Khi biển Bắc nổi gió thì bằng cất cánh bay sang biển Nam. Trỏ người có chí lớn gặp  thời vận tiến xa .

 

Dịch thơ :

                        Bài hai

Nại Cù thong thả gảy đàn tranh

Măng ngọc chen hàng được liệt danh

Đất khách khí xuân chân ngỡ có

Oai trời gang tấc dạ nên thành

Cành gai yên ổn loan ngơi nghỉ

Cổng xóm vui vầy nhạn quẩn quanh

Bằng muốn sang Nam tùy biển Bắc

Nhờ muôn dặm gió – khó chưa rành !

 

Copyright by Tran Ha Nam 2007 - Translated into Vietnamese by Dang Qui Dich