Hà Trì Thi tập (tiếp)
Tập thơ của cụ Hà Trì
Lời người dịch
Mùa hè năm nay (1992), nhân sưu tầm tài liệu để soạn bộ GIAI THOẠI LÀNG NHO BÌNH ĐỊNH, tôi có đến gặp anh Trần Đình Phan là con ông Trần Đình Tân ở thôn Cảnh Vân xã Phước Thành huyện Tuy Phước để xin xem tác phẩm của phụ thân anh.
Ông Trần Đình Tân, tự Lữ Tiên, hiệu Hà Trì, sinh ngày 19 tháng 10 năm Quí Tỵ (26 - 11 - 1893), đỗ Cử nhân khoa Ất Mão (1915) tại trường thi Bình Định, lúc 22 tuổi. Trước năm 1945 từng làm quan đến chức Thương tá Tỉnh vụ (tương đương Án sát) tỉnh Ninh Thuận. Trước năm 1975 từng đắc cử Dân biểu Quốc hội khoá 1959 - 1962. Tạ thế tại Qui Nhơn vào ngày mùng 4 tháng 10 năm Kỷ Vị ( 23 - 11 - 1979), thọ 86 tuổi.
Sinh trưởng trong một gia đình có truyền thống khoa bảng - Cha là Tú tài Trần Hữu Nham từng hưởng ứng nghĩa Cần Vương dựng cờ chống Pháp tại quê nhà vào năm 1886, anh là Tú tài Trần Trọng Giải từng có nhiều thành tựu tốt đẹp trong các hoạt động xã hội văn hoá nghệ thuật - ông Cử Tân tính tình điềm đạm, học vấn uẩn súc, tuổi trẻ đỗ cao mà thọ toán cũng cao, suốt đời say mê đọc sách và viết lách. Ông trước tác rất nhiều, khi mắt kém phải thuê một thư ký riêng làm việc biên chép trong nhiều năm trời. Ngoài việc biên khảo và sáng tác trong lãnh vực văn học, ông còn nghiên cứu Đông y, soạn được một bộ sách thuốc khá đồ sộ.
Những điều trên về ông Cử Tân tôi đã "văn kỳ thinh" từ những năm 60, lúc sưu tầm tư liệu để soạn quyển NHÂN VẬT BÌNH ĐỊNH nhưng chưa được hân hạnh diện kiến. Khiến cho, sau khi sách in xong (1971), mỗi lần biết được những chi tiết - qua những người nghe được từ ông Cử Tân, khả dĩ bổ sung NHÂN VẬT BÌNH ĐỊNH, tôi thường ân hận... Phải chi hồi ấy mình bớt tự ti mặc cảm mà đánh bạo đến gặp ông để được nghe những chuyện xưa tích cũ thì sách của mình phong phú biết bao. Bây giờ đi tìm tư liệu cho bộ giai thoại để bổ túc tập nhân vật thì ông Cử đã ra người thiên cổ. Không được nghe ông nói là thiệt thòi lớn cho lịch sử và văn học, bây giờ tìm xem những gì ông đã viết may ra có đền bù đượcchút nào chăng. Bởi có tâm trạng ấy nên trưa hôm ấy ở Cảnh Vân lòng tôi hồi hộp, mắt tôi đắm đuối nhìn theo hai bàn tay của anh Phan lục lọi trong chồng sách vở cũ mà lấy ra cho tôi xem hai tập vở dày bằng giấy kẻ ô vuông cùng một số tờ giấy rời có bút tích người anh con bác là Trần Bùi Tung cũng đã qua đời.. Tôi cầm sản phẩm tinh thần của ông Cử trên tay, miệng thì ngập ngừng hỏi mượn mà lòng thì phập phồng lo sợ bị từ chối... Không ngờ người được hỏi đã vui vẻ chấp nhận ngay mà không kèm theo một lời dặn dò nào cả. Có lẽ anh đã đọc quyển HƯƠNG SƠN CỐ SỰ do tôi viết về cuộc đời và sự nghiệp của ông nội và hai ông bác của anh. anh đã biết việc làm của tôi mà tin tưởng vào tôi nên không ngần ngại giao cho tôi bảo vật truyền gia mà anh đã kính cẩn trân tàng. Tôi mừng vì có người hiểu được lòng mình. Càng mừng hơn nữa khi về nhà tiếp cận với hai tập vở của ông Cử.
Hai tập vở đều đóng bằng giấy kẻ ô vuông, bìa cứng, khổ giấy 16cm x 22cm, mỗi tập dày khoảng 200 trang, bên trong mỗi tập có khoảng ba phần tư số trang có chữ viết, viết bằng bút bi mực xanh, mỗi trang viết thành 19 hàng, mỗi hàng trung bình 30 chữ, mỗi chữ cỡ 5mm x 5mm, viết theo thể chữ chân đủ nét và rõ ràng nên dễ đọc. Trong hai tập này, ông Cử đã chính tay mình sao lại văn, thơ, liễn đối của danh nhân nước ta sống nửa sau thế kỷ XIX đến hết nửa trước thế kỷ XX cùng một số liễn đối của ông. Ông đã sắp xếp thành từng tập dưới những cái tên đặt sẵn. Việc biên tập này ông không cho biết tiến hành từ lúc nào bởi ở mỗi tập chưa có tựa, bạt cũng không có dòng ghi niên đại nhưng tôi có thể đoán rằng ông làm việc này từ những năm 60. Tôi đã đọc kỹ hai tập vở, chọn lựa sắp xếp lại theo trậttự tuổi tác của các tác giả có tác phẩm được tuyển, tách phần văn của cụ Biểu Xuyên biệt thành một tập dưới cái tên khác do tôi đặt, sao lại thành 4 tập như sau:
1. DANH NHÂN KIỆT TÁC TẬP BIÊN
名 人 傑 作 輯 編
Gồm 16 bài văn, 4 bài thơ của Đào Tấn, Nguyễn Thông, Phan Đình Phùng, Nguyễn Thượng Hiền, Nguyễn Văn Hiển, Huỳnh Thúc Kháng, Đặng Nguyên Cẩn, Phan Châu Trinh, Đinh Nho Quang và hai khúc ngâm dài của Đinh Nhật Thận và Nguyễn Văn Cẩm.
2. CHƯ DANH GIA ĐỐI LIÊN TẬP
諸 名 家 對 聯 集
Gồm 182 câu liễn nổi tiếng của 46 tác giả có lưu tên bên cạnh nhiều câu khuyết danh. Phần phụ lục gồm 53 câu liễn điếu chí sĩ Phan Bội Châu của sĩ nhân trong nước và 18 câu của người biên tập là ông Cử. Trong số 46 tác giả lưu danh có nhiều tên tuổi lớn như Đào Tấn, Nguyễn Khuyến, Vũ Duy Thanh, Vũ Phạm Khải, Vũ Hữu Lợi, Vũ Phạm Hàm, Nguyễn Hữu Huân, Nguyễn Tư Giản, Bùi Hữu Nghĩa, Đào Phan Duân, Đào Nguyên Phổ, Hồ Sĩ Tạo, Đặng Nguyên Cẩn, Huỳnh Thúc Kháng, Phan Châu Trinh, Dương Khuê, Dương Lâm, Phan Bội Châu v.v...
3. BIỂU XUYÊN ĐỐI LIÊN TẬP:
表 川 對 聯 集
Gồm 180 câu liễn của cụ Đào Phan Duân hiệu Biểu Xuyên đỗ Phó bảng khoa Ất Vị (1895). Phần phụ lục gồm 165 câu liễn do quan viên thân bằng quyến thuộc tặng cụ Biểu Xuyên vào các dịp thi đỗ Cử nhân, Phó bảng, thăng thưởng và làm nhà mới.
4. BIỂU XUYÊN DI VĂN
表 川 遺 文
Gồm 6 bài văn của cụ Biểu Xuyên: Bài ký trùng tu Song Trung miếu, Bài ký trùng tu đền thờ Đặng Đức Siêu, Bài văn bia chùa Bác Ái, Bài văn cáo Nguyên soái Mai Xuân Thưởng, Bài văn bia tại sinh phần ông và Bài Văn tế chiến sĩ trận vong bằng chữ Nôm.
Đối với tôi, bốn tuyển tập trên rất quí bởi lẽ hầu hết văn thơ liễn đối trong bốn tập này chưa được đăng tải trên sách báo, một số rất ít được công bố thì chỉ có bản dịch chứ không thấy nguyên tác. Trong số văn thơ nói trên tưởng đã tuyệt tích hoặc khó tìm như "Linh Phong tự ký" của Đào Tấn, "Đồ Bàn thành ký" của Nguyễn Văn Hiển, "Kính cáo toàn quốc đồng bào quốc dân thư" của Huỳnh Thúc Kháng, "Văn tế chiến sĩ trận vong" của Đào Phan Duân v.v.... nếu không nhờ ông Cử biên tập thì cho đến bây giờ tôi cũng không biết tìm ở đâu.
Hơn một tháng sau ngày mượn sách, sau khi đã sao chép và phiên âm xong bốn tập sách nói trên, tôi mang hai tập vở của ông Cử xuống Qui Nhơn gặp anh Phan và hoàn lại cho anh và xin mượn thêm như lời anh hứa. Anh mang ra cho tôi mượn 7 tập:
1. Một tập giấy bắc (không có nhan đề) chép 56 câu, trướng có, liễn có, điếu bà mẹ ông Cử, chữ viết bút lông.
2. HÀ TRÌ THI ĐỐI LIÊN VĂN TẬP
荷 池 詩 對 聯 文 集
Gồm 62 tờ giấy tây gấp đôi, tức có 124 trang, khổ giấy 16cm x 26cm, viết bằng bút lông mực Tàu, mỗi trang viết 8 hàng, mỗi hàng tối đa 20 chữ cỡ 10 mm x 10mm hoặc 40 chữ cỡ 5mm x 5mm. Phần lớn bằng chữ Hán, chữ Nôm có ít.
Tập sách đã hoàn chỉnh, không có dấu sửa chữa. Trong tập này, tác giả chép lại thơ văn liễn đối do mình làm từ năm Khải Định thứ 9 (1924) đến thập niên 1960.
3. HÀ TRÌ THẢO BẢN
荷 池 草 本
Đóng bằng giấy lịch đại bản lộn trái, gáy dày đến 4 cm, bên trong có thơ và câu đối phần lớn bằng chữ Hán, rất ít chữ Nôm do tác giả làm trong thập niên 60, chưa được tuyển vào tập 2. Vì đây là "thảo bản" nên chữ viết hơi khó đọc, đó là chưa kể lắm câu bị dập, xoá, câu, móc. Tôi gọi tập này là HÀ TRÌ THẢO BẢN I.
4. Một tập vở bằng giấy tập khổ 16cm x 22cm, có 64 tờ giấy đôi, ngoài bìa đề HÀ TRÌ THI ĐỐI VĂN TẬP nhưng bên trong tất cả thơ văn liễmn đối Hán Nôm làm trước năm 1960 đều đã đưa vào tập 2. Số ít còn lại đều được làm từ năm 1960 đến 1974. Chữ viết khó đọc, nhiều chỗ dập xóa câu móc nên tôi mệnh danh là HÀ TRÌ THẢO BẢN II.
5. Một tập vở khổ 16cm x 26cm có 20 tờ gấp đôi, bên trong chép thơ, câu đối của một số danh gia xen kẽ với thơ và câu đối bằng chữ Hán của ông Cử làm trong những năm 60. Chữ viết khó đọc vì cũng là thảo bản. Tôi mệnh danh là HÀ TRÌ THẢO BẢN III.
6. BIỂU XUYÊN DI CẢO
表 川 遺 搞
gồm 46 tờ giấy tập gấp đôi, tức có 92 trang, khổ giấy 16cm x 26cm, viết bằng bút lông mực Tàu, mỗi trang viết 7 hoặc 8 hàng, mỗi hàngtối đa 20 chữ cỡ 10mm x 10mm hoặc 40 chữ cỡ 5mm x 5mm. Trong tập nầy, ông Cử đã chép lại lý lịch cụ Biểu Xuyên, liễn đối mừng cha mẹ cụ Biểu Xuyên được phong tặng, liễn trướng điếu và văn Nôm tế mẹ cụ Biểu Xuyên lúc thất lộc, thơ cụ Biểu Xuyên, các bài biểu của cụ Biểu Xuyên dâng lên hai vua Khải Định và Bảo Đại.
7. ĐIỂN CỐ TẦM NGUYÊN TRÍCH YẾU viết bằng bút bi mực xanh trên vở bằng giấy kẻ ô vuông đóng sẵn, có 227 trang có chữ viết, đầu sách bỏ trắng 8 trang có lẽ để viết bài Tựa cùng Phàm lệ nhưng chưa kịp làm, khổ giấy 16cm x 22cm, mỗi trang 19 hàng, mỗi hàng tối đa 30 chữ cỡ 5mm x 5mm.
Tuy sách không Tựa không Bạt nhưng ngay ở hàng đầu có ghi rõ tên người soạn:
櫸 人 休 老 荷 池 陳 廷 賓 呂 仙 著
Cử nhân hưu lão Hà Trì Trần Đình Tân Lữ Tiên trước
(Viên quan già đã về hưu là Cử nhân Trần Đình Tân tự Lữ Tiên hiệu Hà Trì soạn)
Đây là bộ Từ điển tìm tận gốc khoảng hai ngàn rưởi thành ngữ điển tích có trong văn chương, được viết bằng chữ Hán của Trung Hoa và của ta. Bởi đó có nhiều từ mà những bộ Từ điển Tầm nguyên ra đời trước nó (chỉ tầm nguyên thành ngữ điển tích có trong văn chương Hán Nôm hoặc thuần Nôm) không có. Trong sách viết bằng chữ Hán nhưng không xếp theo bộ chữ Hán mà xếp theo vần 24 mẫu tự Latinh. Soạn giả đã tìm trong nhiều bộ sách về Lịch sử, Văn học, Nghệ thuật v.v… của nước Trung Hoa cổ để chỉ rõ xuất xứ cùng lý giải ý nghĩa của những thành ngữ điển tích có trong văn thơ trích dẫn. Càng đọc càng khâm phục tinh thần học tập không biết mệt mỏi và cái vốn hiểu biết sâu rộng của ông Cử. Nếu bộ sách được dịch để phổ biến chắc chắn sẽ mang lại khá nhiều lợi lạc cho học giới.
Hôm ấy tôi đã nhờ anh bạn Trần Đình Trắc là rể ông Cử phô-tô giùm các tập số 2,3,4,5,6 rồi trả liền bản gốc cho anh Phan, chỉ mượn tập số 1 và số 7 mang về sao chép trong một tháng rồi cũng hoàn trả lại bản gốc cho anh.
Tôi nhớ hôm ấy có hỏi anh Phan là tác phẩm của cụ Cử còn gì nữa không, anh ngập ngừng bảo: “Ở đây thì hết rồi nhưng còn ở đâu nữa thì chưa rõ”. Sau nầy tôi mới biết – qua anh Trần Hữu Ích - bộ sách thuốc mà tôi đã nói trên kia, đã được gởi cho người con thứ đang ở nước ngoài, một số thơ văn ông làm trong thời kỳ làm quan thì đã bị mất ở Phan Rang vào năm 1945.
Viết tới đây tôi nhớ lão thi hữu Nguyễn Hoài Văn ở Tây Sơn lần đầu tiên cầm quyển HÀ TRÌ THI ĐỐI LIÊN VĂN TẬP đã lộ vẻ hân hoan mà bảo tôi rằng: “Phải như thế này chứ! Chẳng nhẽ học giỏi, đỗ cao mà không để lại cho đời được chút gì sao?”. Cho nên di sản tinh thần mà ông Cử để lại là cái vốn quí chẳng những của con cháu ông mà là của chung của dân tộc. Không nói hẳn ai cũng biết là chẳng những phải bảo quản chúng mà còn tìm cách phổ biến chúng để giúp ích cho đời. Bởi lẽ đó, tôi không ngại tài sơ trí thiển mà xin phép anh Phan và được anh chấp thuận tiến hành phiên dịch các công trình sáng tác, biên tập của ông với mục đích phổ biến văn hoá.
Trước hết tôi bắt tay dịch phần thơ chữ Hán và phiên âm thơ chữ Nôm có trong bốn tập 2, 3, 4, 5 xong, kết tập lại thành một tập đặt tên là HÀ TRÌ THI TẬP . Trong tập nầy, về hình thức thì là thơ luật Đường mà đa số là thất ngôn bát cú. Về nội dung thì đa dạng: miêu tả, thuật sự, đề vịnh, tự vịnh, vịnh hoài, khánh hạ, tặng đáp v.v… Xét tư tưởng thì thỉnh thoảng bắt gặp ý hướng cầu nhàn thoát tục của Lão giáo và Phật giáo nhưng tư tưởng nòng cốt của tác phẩm vẫn là luân lý đạo đức của Khổng Mạnh mà tác giả đã dày công hàm dưỡng. Tâm hồn và tài năng của ông Cử bộc lộ rõ nét nhất qua tác phẩm nầy. Bởi đó, HÀ TRÌ THI TẬP được hình thành trước để độc giả làm quen với nhà thơ, nhà biên tập Hà Trì Trần Đình Tân trước khi tiếp cận HÀ TRÌ ĐỐI LIÊN VĂN TẬP, ĐIỂN CỐ TẦM NGUYÊN TRÍCH YẾU và các công trình biên tập nói trên mà tôi sẽ lần lượt dịch rồi giới thiệu trong tương lai.
Tôi tự biết tập sách nầy phần phiên dịch không sao tránh khỏi sai lầm, dám mong các bậc cao minh chỉ giáo cho để sách ngày một tốt hơn.
Và sau cùng tôi không thể không nhắc tới sự giúp đỡ quí báu mà các anh Thao, Ích, Phan, Trắc đã dành cho tôi. Nếu không nhờ có hảo ý của các anh thì tôi cũng không có được bản dịch nầy và những công trình khác viết về các nhân vật vùng núi Thơm – quê hương tác giả Hà Trì thi tập – mà tôi ngưỡng mộ. Xin các anh nhận nơi đây lòng biết ơn của tôi.
Dịch xong tại Hoài Đức ngày 26 tháng 12 năm 1992
Duyệt lại và bổ sung tại tư thất 125 Quốc lộ I Bồng Sơn
xong ngày 04 tháng 9 năm 2000
LỘC XUYÊN