Thơ chữ Hán - (Bài 1 - Bài 10)
HÀ TRÌ THI TẬP
1
在 京 辰 餞 同 年友
裴 行 走 之 綏 豐尹
幾 番 風 月 兩談 心
友 議 年 情 轉更 深
器 我 昔 曾 聯結 綬
榮 君 今 早 試鳴 琴
承 宣 日 下 當方 面
勤 慎 長 加 迪寶 箴
鄭 重 車 前 無別 話
相 期 一 路 福星 臨
Phiên âm:
Tại Kinh thời tiễn đồng niên hữu
Bùi Hành tẩu chi Tuy Phong doãn
Kỷ phiên phong nguyệt lưỡng đàm tâm
Hữu nghị niên tình chuyển cánh thâm
Khí ngã tích tằng liên kết thụ
Vinh quân kim tảo thí minh cầm
Thừa tuyên nhật hạ đương phương diện
Cần thận trường gia địch bảo châm
Trịnh trọng xa tiền vô biệt thoại
Tương kỳ nhất lộ phúc tinh lâm
Dịch nghĩa :
Thủa tại Kinh, tiễn bạn học đỗ cùng khoa1 họ Bùi, chức Hành tẩu, đi nhậm chức tri huyện huyện Tuy Phong2
Bao phen tôi và anh cùng hóng gió ngắm trăng, chẳng nói năng gì vì lòng đã thầm hiểu nhau.
Nghĩa bạn giao du và tình bạn đỗ cùng khoa dần dà chuyển đến mức sâu đậm.
Dùng ta làm khí cụ của nhà nước thì từ xưa đã từng có dây thao để buộc người với nhiệm vụ3.
Nay anh được vẻ vang nhờ nhà vua sớm cho anh thử trổi giọng đàn cầm4
Từ nay trở đi, vâng mệnh thay vua tuyên dương đức hoá một phương.
Thì ngày càng thêm siêng năng và cẩn thận trong việc nước như lời châm5 quý báu đã dạy.
Trước xe trịnh trọng tiễn anh mà không nói lời xa nhau
Đã đến lúc mời anh lên đường là́m một Phúc tinh6, mang lại hạnh phúc cho dân chúng nơi anh trị nhậm.
Chú thích:
1. Đồng niên hữu: Ấu học cố sự Quỳnh lâm, quyển 4, chương Khoa đệ: Đồng bảng chi nhân, giai thị đồng niên = Những người thi đỗ cùng khoa, có nêu tên cùng một bảng, đều gọi là Đồng niên. Người được tặng thơ là Bùi Cạnh, đỗ cùng khoa với tác giả.
2. Huyện Tuy Phong: Thuộc phủ Ninh Thuận, tỉnh Bình Thuận. Từ doãn nhằm trỏ trưởng quan đứng đầu một địa phương, thường chỉ chức Tri phủ như Phủ doãn, Tri huyện như Lệnh doãn. Chức Hành tẩu thường ở phẩm Chánh thất (7 – 1), làm việc tại Bộ một thời gian được thăng phẩm Tùng lục (6 – 2) thì cho lãnh chức Tri huyện, phẩm Chánh lục (6 – 1). Đừng theo mặt chữ Hành tẩu mà hiểu như có kẻ đã dịch bậy là “chân sai vặt”! Tri huyện họ Bùi là ông Bùi Cạnh, bạn của tác giả.
Phẩm trật chú như trên là theo quan chế ban hành đời Minh Mệnh mà cụ Trần Trọng Kim đã ghi lại trong sách Việt Nam sử lược. Trong thực tế theo anh Trần Đình Phan, con cụ Cử Tân nói thì bố anh từ Hành tẩu đi Hậu bổ Bình Thuận, thăng Kinh lịch rồi mới thăng Tri huyện Hoài Ân, phẩm Tùng ngũ (5 – 2) rồi lên Chánh ngũ (5 – 1)
3.Thao: là dây thao (lụa to sợi) dùng buộc ấn vào người. Ấn có ba loại: Ấn vàng thao đỏ, Ấn bạc thao xanh, Ấn quan Tri huyện bằng đồng dây thao đen.
4. Đời Chu có Mật Tử Tiện làm quan tể ấp Đơn Phủ, chỉ gảy đàn cầm mà Đơn Phủ được trị an.
5. Châm: Lời dạy đạo làm quan mà quan lại phải học thuộc lòng (Theo Văn Tâm điêu long của Lưu Hiệp (465 – 520) thời Lục triều)
6. Đời Tống có Tiên Vu Sằn làm chuyển vận sứ ở Triết Đông. Tư Mã Quang bảo người rằng: “Sằn là người giỏi mà để làm quan ở bên ngoài thì chẳng nên. Nhưng vùng Tề Lỗ điêu tàn quá lắm nên phải đưa Sằn tới cứu. Sằn đúng là Nhất lộ Phúc tinh (Sao Phước của một lộ) vậy.”
Dịch thơ:
Tiễn Bùi Hành Tẩu làm Tri huyện Tuy Phong
Bao phen trăng gió hiểu lòng nhau
Bè bạn dần dà nghĩa thấm sâu
Buộc ấn xưa từng dùng lụa mộc
Thử đàn giờ sớm chịu ơn sâu
Mệnh vua tuyên hoá đương thay mặt
Châm báu thận cần hãy nhớ câu
Trịnh trọng trước xe không nói biệt
Mà đưa sao Phúc tới Nam châu
2
病 中 作
屈 指 行 庚 三十 年
端 陽 節 後 病初 傳
六 湯 姜 附 投非 法
一 散 參 苓 解 得 全
壽 國 活 人 權亦 將
調 元 贊 化 力回 天
此 身 剩 有 江山 助
疾 病 期 將 數日 痊
Phiên âm:
Bệnh trung tác
Khuất chỉ hành canh tam thập niên
Đoan dương tiết hậu bệnh sơ truyền
Lục thang khương phụ đầu phi pháp
Nhất tán sâm linh giải đắc tuyền
Thọ quốc hoạt nhân quyền diệc tướng
Điều nguyên tán hoá lực hồi thiên
Thử thân thặng hữu giang san trợ
Tật bệnh kỳ tương sổ nhật thuyên
Dịch nghĩa :
Đang bệnh làm thơ
Bấm đốt tay tính tuổi thì được ba mươi
Sau tiết đoan dương thì bệnh bắt đầu phát
Đầu sáu thang khương phụ lý âm chẳng trúng cách
Uống một tán sâm linh hoà giải mới được toàn mệnh *
Làm thầy thuốc cứu cho người sống cũng như làm tướng
Khiến nguyên khí điều hoà, khí huyết lưu chuyển thì có sức như xoay trời trở lại
Thân này có thừa sự giúp đỡ của sông núi
Thì đau ốm chừng vài bữa nữa sẽ khỏi hẳn.
Nguyên chú: Thầy thuốc họ Ngô đầu thang không trúng cách, nhờ quan nguyên Án sát Bình Thuận họ Nguyễn cho uống thang Hoà giải bệnh mới chịu lui.
Dịch thơ :
Đang bệnh làm thơ
Bấm đốt vừa ưa tam thập niên
Sau ngày đoan ngũ bệnh sơ truyền
Sáu thang khương phụ phương không trúng
Một tán sâm linh mạng mới tuyền
Trợ cứu nước dân quyền tợ tướng
Điều hoà khí huyết sức hồi thiên
Thân này được nước non phò hộ
Thì ắt vài hôm bệnh sẽ thuyên
3
中 數 詩
此 身 本 是 國家 身
賦 予 原 來 不是 貧
赫 赫 洋 洋 陰佑 相
生 生 化 化 默通 神
秋 來 仟 眾 求千 數
臘 到 惟 吾 中萬 銀
富 貴 風 流 將利 用
江 山 眉 目 畫添 春
Phiên âm:
Trúng số thi
Thử thân bản thị quốc gia thân
Phú dữ nguyên lai bất thị bần
Hách hách dương dương âm hựu tướng
Sanh sanh hoá hoá mặc thông thần
Thu lai thiên chúng cầu thiên số
Lạp đáo duy ngô trúng vạn ngân
Phú quý phong lưu tương lợi dụng
Giang sơn mi mục hoạ thiêm xuân
Dịch nghĩa :
Thơ trúng sô
Thân này chính thị thuộc về nhà nước,
Trời phú cho vốn chẳng nghèo.
Thần thánh hiển hách ngầm giúp đỡ,
Sanh sôi và chuyển hoá cứ lặng lẽ biến thông.
Sang thu, ngàn người mong trúng số ngàn đồng,
Tháng chạp tới, chỉ mình ta trúng tiền vạn.
Giàu sang và thong thả đều được cả hai,
Mở mày mở mắt với đời như mùa xuân tô điểm thêm bức tranh sông núi.
Dịch thơ:
Thơ trúng số
Thân này chính thị quốc gia thân,
Trời phú cho ta vốn chẳng bần.
Phò trợ âm thầm uy hiển hách
Hoá sanh lặng lẽ sức thông thần
Thu sang lắm kẻ mong thiên số.
Chạp đến riêng ta trúng vạn ngân.
Phú quý phong lưu đều được cả
Mặt mày rạng rỡ nước non xuân !
4
其 二
自 問 身 非 獨有 身
洪 鈞 賦 予 豈為 貧
只 緣 少 學 無私 貨
故 此 今 需 剩俸 份
常 把 靈 臺 安處 善
必 然 名 祿 大駢 臻
辰 來 風 送 鴻毛 順
富 貴 榮 華 一樣 新
Phiên âm:
Kỳ nhị
Tự vấn thân phi độc hữu thân
Hồng quân phú dữ khởi phi bần
Chỉ duyên thiểu học vô tư hoá
Cố thử kim nhu thặng bổng phần
Thường bả linh đài an xử thiện
Tất nhiên danh lộc đại biền trăn.
Thời lai phong tống hồng mao thuận
Phú quý vinh hoa nhất dạng tân
Dịch nghĩa:
Bài hai
Tự hỏi chẳng phải riêng ta mới có thân thể,
Cái mà trời phú cho há lại là cái nghèo.
Chỉ ví học ít nên không có của riêng,
Nên nay cầu có thêm tiền ngoài lương bổng cố định
Thường giữ tâm hồn ở yên trong trạng thái thiện lương
Thì danh tiếng và lợi lộc ùn ùn kéo đến kịp lúc là lẽ tất nhiên
Thời đến, gió đưa chim hồng thuận cánh bay cao,
Thì giàu sang và vẻ vang, cung cách đều đổi mới.
Dịch thơ:
Bài hai
Tự hỏi riêng ta mới có thân,
Trời cho nhiều thứ, há cho bần.
Chỉ nhờ chút học không tư hoá
Nên phải cầu thêm ngoại bổng phần
Thường giữ tâm hồn an hảo mãi
Tất nhiên danh lợi tiến tăng dần
Thời lai gió đẩy chim bằng trổi
Vinh hiển giàu sang vẻ vẻ tân
5
題 天 姥 寺
神 京 勝 景 一奇 觀
曾 此 來 遊 著眼 看
嶺 覆 慈 雲 常對 拱
江 凝 法 水 曲迴 寰
門 前 塔 峙 高千 尺
梵 裡 鐘 聲 響兩 間
植 得 幾 花 成正 果
君候 曾 否 問 諸 山
潘茂 才
Phiên âm:
Đề Thiên Mụ tự
Thần kinh thắng cảnh nhất kỳ quan
Tằng thử lai du trước nhãn khan
Lĩnh phú từ vân thường đối củng
Giang ngưng pháp thuỷ khúc hồi hoàn
Môn tiền tháp trĩ cao thiên xích
Phạm lý chung thanh hưởng lưỡng gian
Thực đắc kỷ hoa thành chánh quả
Quân hầu tằng phủ vấn chư san
Phan Mậu Tài
Dịch nghĩa :
Đề chùa Thiên Mu
Đây cảnh lạ mắt đứng đầu những cảnh đẹp nổi tiếng ở Kinh đô Huế.
Từng đến đó chơi nên mắt đã xem tường tận
Núi chầu trước mặt, trên đỉnh có mây lành che
Sông ngưng nước pháp, uốn khúc vòng quanh
Trước ngõ, tháp cao ngàn thước đứng trơ trụi
Trong chùa, tiếng chuông cất lên vang vọng cả đất trời
Cây được bao hoa, nên được mấy quả chánh?
Quân hầu từng chẳng hỏi các sư đó sao?
Tú tài họ Phan
Chú thích:
* Quân hầu: từ gọi tên người được phong tước hầu. Cũng dùng gọi tên chức tri huyện. Một huyện ở Trung Quốc bằng thổ địa một nước chư hầu lớn thời Chiến quốc nên quan đứng đầu huyện được gọi tên như thế.
* Phan Mậu tài: tức ông Phan Quốc, đỗ Tú tài.
Dịch thơ:
Đề chùa Thiên Mụ
Đây nhất kỳ quan cảnh đế kinh
Chân từng chơi đó, mắt từng nhìn
Núi chầu trước mặt, mây che mát
Sông lặng bên chùa, khúc uốn xinh
Vòi vọi ngoài sân ngôi bảo tháp
Đỉnh đang khắp cõi tiếng kim thinh
Cây đơm bao đoá, nên bao trái?
Từng hỏi: bao người vượt tử sinh?
6
步 韻 和 之
乘 閒 天 姥 寺遊 觀
景 色 依 依 不厭 看
寶 塔 巍 峨 沖斗 漢
金 鐘 大 小 響塵 寰
長 松 細 草 慈雲 裏
翠 竹 黃 花 法兩 間
神 母 假 教 靈顯 在
拱 扶 萬 古 此江 山
Phiên âm:
Bộ vận hoạ chi
Thừa nhàn Thiên Mụ tự du quan
Cảnh sắc y y bất yếm khan.
Bảo tháp nguy nga xung Đẩu Hán
Kim chung đại tiểu hưởng trần hoàn
Trường tùng tế thảo từ vân lý,
Thúy trúc hoàng hoa Pháp lưỡng gian.
Thần mẫu giả giao linh hiển tại
Củng phò vạn cổ thử giang san
Dịch nghĩa:
Theo vần hoạ lại
Nhân rảnh rỗi dạo xem cảnh chùa Thiên Mụ,
Cảnh sắc như cũ, xem không chán mắt.
Tháp báu cao vòi vọi như xổngthăng tới sao Bắc đẩu, tới dãy Ngân hà.
Chuông vàng lớn nhỏ gióng lên, âm thanh vang khắp cõi trần.
Thông cao cỏ bé được mây lành che phủ bên trên,
Trúc biến hoa vàng cũng là pháp thân đứng giữa trời đất.1
Ví chăng thần mẫu hiển linh, 2
Thì giúp cho sông núi này vững bền muôn thuở.
Chú thích : 1. Truyền đăng lục: Hoàng hoa thuý trúc tổng thị pháp thân = Hoa vàng trúc biếc đều là pháp thân.
2. Tương truyền chúa Tiên (仙主) Nguyễn Hoàng tìm đất đóng đô, đến nơi này được một bà lão chỉ đất, chúa định đô tại Thuận Hoá, lập chùa thờ bà, gọi bà là Thiên Mụ.
Dịch thơ :
Bài hoạ
Thiên Mụ xem chơi lúc rảnh rang
Ngắm hoài chẳng chán cảnh phong quang
Nguy nga tháp báu xông Vân Hán
Lớn nhỏ chuông vàng vọng thế gian
Mây phủ thông cao che cỏ thấp
Pháp nhuần trúc biếc đượm hoa vàng
Ví chăng thần mẫu như linh hiển
Thì giúp muôn thu nước vẻ vang.
7
贈 天 姥 寺 和尚
世 事 饒 饒 應不 問
人 情 此 此 竟何 煩
慈 悲 剩 有 家中 佛
快 活 真 為 陸上 仙
曾 愧 闍 黎 心 混俗
漫 將 德水 化 隨 緣
自 修 磨括 行 持 劍
斷 卻 情魔 孽 鬼 牽
潘茂 才
Phiên âm :
Tặng Thiên Mụ tự hoà thượng
Thế sự nhiêu nhiêu ưng bất vấn
Nhân tình thử thử cánh hà phiền
Từ bi thặng hữu gia trung Phật
Khoái hoạt chân vi lục thượng tiên
Tằng quí đồ lê tâm hỗn tục
Mạn tương đức thủy hoá tùy duyên
Tự tu ma quát hành trì kiếm
Đoạn khước tình ma nghiệt quỉ khiên.
Phan Mậu tài
Dịch nghĩa:
Tặng hoà thượng chùa Thiên Mụ
Việc đời nhiều quá nên không muốn hỏi
Tình người như thế, như thế, xét cho cùng thì sao lại phiền?
Nếu tu Phật để được đức từ bi thì trong nhà có người dư đức từ bi, cầu chi Phật ở ngoài đường?
Nếu theo tiên để được vui vẻ thong dong thì trên đất liền có người thật sự được như thế thì cầu chi tiên ngoài biển?
Từng lấy làm thẹn cho ông sư chăn dắt học trò mà trong lòng ông ta ý đạo pha lẫn mùi đời,
Còn nói quàng rằng đem nước công đức tuỳ theo cơ duyên để hoá độ chúng sinh!
Tự ta nghiên cứu tìm tòi, làm và giữ đức hạnh sao cho được như thanh gươm.
Cắt đứt ma tình và quỉ nghiệt bám theo mình.
Dịch thơ :
Tặng hoà thượng chùa Thiên Mụ
Thế sự rối ren hà tất hỏi
Tình người như thế, cớ chi phiền?
Hiền từ lân mẫn, nhà còn Phật
Hoan lạc thung dung, đất có tiên
Từng thẹn sư mô tâm nhiễm tục
Còn khoe nước đức đạo tuỳ duyên!
Tự ta rèn trí như thanh kiếm
Nghiệt quỉ tình ma chặt đứt liền!
8
覆 和
世 事 浮 雲 何足 問
人 情 覆 浪 更增 煩
何 如 齋 戒 皈依 佛
除 卻 榮 華 即是 仙
早 覓 慈 航 過苦 岸
好 將 慧 劍 斷塵 緣
羨 君 桂 宇 蓮穹 上
笑 我 情 天 孽海 牽
Phiên âm :
Phúc hoạ
Thế sự phù vân hà túc vấn?
Nhân tình phúc lãng cánh tăng phiền!
Hà như trai giới qui y Phật
Trừ khước vinh hoa tức thị Tiên
Tảo mích từ hàng qua khổ ngạn;
Hảo tương tuệ kiếm đoạn trần duyên
Tiện quân quế vũ liên khung thướng
Tiếu ngã tình thiên nghiệt hải khiên !
Dịch nghĩa :
Hoạ trái ý bài xướng
Sự đời như mây nổi, lúc hợp lúc tan hỏi sao cho đủ?
Tình người phản phúc như làn sóng phủ qua lật lại, lại thêm phiền
Sao bằng giữ thân sạch tâm định mà qui y Phật
Trừ bỏ được bả vinh hoa tức là Tiên
Sớm tìm được bè từ để vượt qua bể khổ mà tới bờ giác ngộ.
Lấy trí tuệ làm thanh gươm cắt đứt duyên trần một cách thành thạo.
Muốn được như anh đã lên cung quế vòm sen
Cười ta còn dính vào trời tình biển nghiệt.
Dịch thơ :
Hoạ ngược lại
Thế sự mây trôi, sao đủ hỏi?
Tình người phản phúc lại thêm phiền
Chi bằng trai giới qui y Phật
Ném quách vinh hoa tức thị Tiên
Sớm kiếm bè từ qua bể khổ
Khéo huơ gươm trí cắt trần duyên
Muốn như anh được lên cung quế
Cười tớ còn trong nghiệt hải khiên!
9
夏 雨 思 鄉
磊 落 如 何 獨自 桓
別 籬 莫 怨 暫他 鄉
忘 憂 堂 北 餘萱 草
遣 悶 江 南 剩柳 行
對 景 吟 詩 饒樂 趣
適 情 將 酒 卻心 忙
荷 花 雨 後 紅堪 賞
香 送 令 人 起臥 床
潘 茂 才
Phiên âm :
Hạ vũ tư hương
Lỗi lạc như hà độc tự hoàn
Biệt ly mạc oán tạm tha hương
Vong ưu đường bắc dư huyên thảo
Khiển muộn giang nam thặng liễu hàng
Đối cảnh ngâm thi nhiêu lạc thú,
Thích tình tương tửu khước tâm mang
Hà hoa vũ hậu hồng kham thưởng
Hương tống linh nhân khởi ngoạ sàng.
Phan Mậu tài
Dịch nghĩa:
Mưa mùa hè, nhớ quê
Trỗi vượt như thế này, sao chỉ có một mình xông xáo?
Biệt ly chớ oán vì xa quê chỉ tạm thời
Để mẹ quên lo thì nơi chái bắc nhà có dư cỏ huyên *
Để ta giải buồn thì bờ sông phía Nam có thừa liễu thành hàng.
Đứng trước cảnh đẹp mà ngâm thơ thì nhiều vui thú
Tình thích mà bày rượu uống thì bao nỗi bận rộn trong lòng đều lui hết
Sau cơn mưa, muốn thưởng thức màu hồng của hoa sen
Mùi hương đưa đến khiến người đang nằm trên giừơng phải trỗi dậy.
Chú: * Đeo cỏ huyên vào người, cỏ làm người khuây khoả nỗi buồn lo. Kinh Thi: “An đắc huyên thảo, ngôn thụ chi bối = Làm sao có được cỏ huyên để trồng nơi chái bắc nhà” tức trồng chỗ bà mẹ ở, cho mẹ quên buồn. Do đây có từ huyên đường (nhà huyên), trỏ bà mẹ.
Dịch thơ :
Mưa hạ nhớ quê
Lỗi lạc thế này sao lẻ loi?
Biệt ly chớ oán, tạm chia phôi
Quên lo, chái bắc huyên dư dả
Giải muộn, bờ nam liễu sẵn rồi
Đối cảnh ngâm thơ cơn hứng tới
Thích tình nhắp rượu nỗi sầu vơi
Sau mưa muốn ngắm sen hồng nở
Hương đến bên giừơng, trỗi dậy thôi!
10
步 韻 和 之
書 齋 無 事 獨盤 桓
密 雨 催 人 思故 鄉
嶺 樹 千 重 雲片 片
家 山 萬 里 霧行 行
天 邊 濕 雁 連聲 叫
夜 半 寒 蟬 亂報 忙
對 景 易 撩 人感 景
客 情 愁 獨 臥沾 床
Phiên âm :
Bộ vận hoạ chi
Thư trai vô sự độc bàn hoàn
Mật vũ thôi nhân tư cố hương
Lãnh thụ thiên trùng vân phiến phiến
Gia sơn vạn lý vụ hàng hàng
Thiên biên thấp nhạn liên thanh khiếu
Dạ bán hàn thiền loạn báo mang
Đối cảnh dị liêu nhân cảm cảnh
Khách tình sầu độc ngoạ triêm sàng
Dịch nghĩa :
Theo vần hoạ lại
Ở phòng học, không có việc gì làm mà mình không nỡ rời.
Mưa dày đặc như thúc giục người nhớ tới quê cũ
Cây trên đỉnh núi ngàn lớp trùng lặp, mây từng mảnh, từng mảnh chồng lên nhau.
Đường về quê cũ xa muôn dặm, sương móc giăng hàng hàng
Chim nhạn ướt át kêu liên hồi bên trời
Nửa đêm, con ve lạnh kêu rộn rã
Đứng trước cảnh, dễ khiến cho người làm quan xa nhà sinh cảm xúc.
Tình cảm khách cùng nỗi sầu riêng nhiều như nước mưa thấm ướt cả giừơng nằm.
Dịch thơ :
Hoạ theo vần
Vô sự, thư trai chẳng nỡ rời
Mưa xui nhung nhớ cố hương ơi!
Ngàn trùng cây núi mây đen chất,
Muôn dặm non quê móc trắng rơi
Đêm thẳm ve run kêu loạn lối
Trời xa nhạn ướt gọi liên hồi
Tha hương hoạn huống bao nhiêu cảm
Tầm tã giọt sầu nhớ chẳng vơi!
Copyright by Tran Ha Nam 2007 - Translated into Vietnamese by Dang Qui Dich