Thơ chữ Hán(Bài 71 - Bài 79)
HÀ TRÌ THI TẬP
Thơ chữ Hán (Bài 1 - 10)
Thơ chữ Hán( Bài 11 - 19)
Thơ chữ Hán (Bài 20 - 25)
Thơ chữ Hán (Bài 26 - 35)
Thơ chữ Hán (Bài 36 - 43)
Thơ chữ Hán ( Bài 44 - 48)
Thơ chữ Hán (Bài 49 - 56)
Thơ chữ Hán (Bài 63 - 70)
71
贈 民 利 藥 房
(每句均有藥味)
煮 煉 丹 砂 學 已 精
籠 中 參 朮 費 經 營
民 醫 調 劑 資 姜 活
利 路 亨 通 重 寄 生
客 地 蓮 心 饒 厚 朴
新 州 商 陸 著 聲 名
紅 花 紫 苑 增 春 色
蘆 會 金 銀 福 履 成
Phiên âm :
Tặng Dân Lợi dược phòng
(Mỗi cú quân hữu dược vị)
Chử luyện đơn-sa học dĩ tinh
Lung trung sâm-truật phí kinh dinh
Dân y điều tễ tư khương-hoạt
Lợi lộ hanh thông trọng ký-sinh
Khách địa liên-tâm nhiêu hậu-phác
Tân châu thương-lục trứ thanh danh
Hồng-hoa tử uyển tăng xuân sắc
Lô-hội kim-ngân phúc lý thành.
Dịch nghĩa :
Tặng tiệm thuốc Dân Lợi
(Mỗi câu đều có tên mỗi vị thuốc)*
Học đã rành cách thăng chế đơn sa thành tiên đơn
Bỏ ra nhiều tiền của để mua sâm và truật chứa sẵn trong rương mà dùng
Bốc thuốc cho dân uống lành bệnh, nhờ đó mà dân sống an vui
Con đường mang lại lợi 1 lộc được thông suốt nhờ biết coi trọng hoài bão gởi vào cuộc đời.
Ở đất khách mà giữ được lòng bao dung, đôn hậu, chất phác thì tấm lòng ấy đẹp tợ hoa sen
Nên tên tuổi nổi bật trong số những người buôn bán trên đất Tân châu 2
Hoa hồng vườn tía làm tăng thêm vẻ xuân
Truyền cho tiền bạc tụ vào, phúc lộc thành tựu.
Chú thích : * Những từ kép có gạch nối ở phần phiên âm đều là tên những vị thuốc Bắc. Tác giả dùng đơn thuần tên thuốc như đơn sa, sâm, truật, thì những từ đó là tên thuốc; dùng lấy nghĩa đen như ký sinh, liên tâm, hậu phác, thương lục, hồng hoa, kim ngân; dùng gợi âm của chữ cùng âm nhưng khác nghĩa như khương hoạt lô hội. Cho nên khi dịch nghĩa xuôi và dịch thơ, ngoài ba tên đơn sa, sâm, truật giữ y, các vị thuốc kia đều dịch lấy nghĩa chứ không giữ y tên thuốc như nguyên tác. Đây cũng là một hạn chế nữa mà người dịch không thể khắc phục để phản ánh đúng cách chơi chữ của tác giả, thật đáng tiếc !
1. Hai chữ Dân Lợi đứng đầu hai câu 3,4 ghép lại thành tên tiệm thuốc. Tiệm này ở tại Qui Nhơn, chủ nhân họ Hàn từ Trung Quốc sang buôn bán tại Qui Nhơn đã lâu đời.
2. Thi Nại gọi đủ là Thi Lị Bì Nại, tên phiên âm chữ Cri-Banoi là tên hải cảng của Vương quốc Champa, ta thường đọc lầm là Thị Nại, sau là Qui Nhơn (năm 1602). Tàu cũng gọi cảng này là Tân Châu.
Dịch thơ :
Tặng tiệm thuốc Dân Lợi
Nấu luyện đơn sa học đã tinh
Truật sâm mua sẵn để kinh dinh
Dân y phục vụ cho dân sống
Lợi lộ duy trì đặng lợi hanh
Chợ giã lòng sen thơm thảo nức
Châu Tân khách trú tiếng tăm rền
Hoa hồng vườn tía xuân thêm vẻ
Tiền bạc sinh sôi, phúc lộc thành !
Ông Lê Bính cũng có dịch thành thơ :
Chế luyện cao hoàn học đã tinh
Tủ đầy sâm truật nhọc kinh doanh
Bệnh dân qua khỏi nhờ khương hoạt
Mối lợi mau giàu bởi ký sanh
Khách địa dạo chơi lòng chất phát
Nại thành buôn bán nổi thinh danh
Hoa hồng vườn tía xuân thêm sắc
Vàng bạc thêm nhiều phúc lộc vinh.
72
又 贈 民利 良 醫
韓 慈 元
天 南 許久 雁 來 賓
參 朮 籠收 濟 度 民
壽 世 仙丹 醫 亦 相
回 春 龍腦 樂 通 神
五 靈 赤石 弘 姜 活
百 合 朱砂 有 意 仁
術 妙 軒歧 甘 遂 志
從 蓉 君子 樂 天 真
Phiên âm :
Hựu tặng Dân Lợi lương y
Hàn Từ Nguyên
Thiên Nam hứa cửu nhạn lai tân
Sâm-truật lung thâu tế độ dân
Thọ-thế tiên-đơn y diệc tướng
Hồi-xuân long-não lạc thông thần
Ngũ-linh xích-thạch hoằng khương-hoạt
Bá-hạp châu-sa hữu ý-nhân
Thuật diệu Hiên kỳ cam-toại chí
Thung-dung quân tử lạc thiên chân.
Dịch nghĩa :
Lại tặng lương y Hàn Từ Nguyên
ở tiệm Dân Lợi 1
Trời Nam hẹn đã lâu nhạn mới đến làm khách
Gồm sâm truật đựng đầy rương để dùng cứu giúp người
Dùng thuốc tiên đơn cho người sống lâu thì làm thuốc cũng như làm tướng giữ nước bền vững lâu dài.
Dùng vị long não làm thuốc hồi xuân thì kiến hiệu như phép thần thông
Những vị ngũ linh, xích thạch công dụng rộng hơn can khương, độc hoạt
Bá hạp, châu sa có lúc dùng với ý dĩ, nhân trần,
Luyện tay nghề tinh diệu như Hiên Viên, Kỳ Bá 2 mới toại chí
Làm người quân tử sống ung dung với cái tính chân thật của trời ban.
Chú thích : 1. Bài này cũng mỗi câu có mỗi tên thuốc như bài trước. Ở phần phiên âm những từ kép có gạch nối đều là tên các vị thuốc Bắc.
2. Hiên Viên tức vua Hoàng Đế, một trong ngũ đế thời thượng cổ ở Trung Quốc, người đầu tiên bày ra nghề làm thuốc. Kỳ Bá là bề tôi của Hoàng Đế, cùng Hoàng Đế nghiên cứu dược tính, làm thuốc cứu người. Hai ông được tôn làm tổ Đông y.
Dịch thơ :
Tặng lương y Hàn Từ Nguyên
Trời Nam từng hứa, nhạn nay sang
Sâm truật cứu người đẫy thác nang
Thọ thế tiên đơn y cũng tướng
Hồi xuân long não thuốc như thần
Ngũ linh xích thạch hơn khương hoạt
Bá hạp châu sa với ý nhân
Thuật diệu Hiên Kỳ đà toại chí
Thung dung quân tử dưỡng thiên chân.
73
和 宦 友 范 克 寬
之 處 女 解 嘲 詩
含 羞 小 草 每 知 慚
非 過 時 梅 實 七 三
守 己 不 為 村 婦 等
畏 人 能 與 秀 才 參
雪 冰 自 信 心 無 愧
岷 玉 難 分 眼 亦 凡
知 我 不 知 姑 莫 問
堅 貞 容 作 石 岩 岩
Phiên âm :
Họa hoạn hữu Phạm Khắc Khoan
chi xử nữ giải trào thi
Hàm tu tiểu thảo mỗi tri tàm
Phi quá thời mai thiệt thất tam
Thủ kỷ bất vi thôn phụ đẳng
Úy nhân năng dữ Tú tài tham
Tuyết băng tự tín tâm vô quí
Dân ngọc nan phân nhãn diệc phàm
Tri ngã bất tri cô mạc vấn
Kiên trinh dung tác thạch nham nham.
Dịch nghĩa :
Họa bài “Xử nữ giải trào thi
= Thơ trêu gái chưa chồng”
của bạn làm quan là Phạm Khắc Khoan
Hàm tu là loại cỏ bé mà còn biết xấu hổ, 1
Chưa qua khỏi cái thời giữa khoản quả mai mười phần còn bảy phần rồi còn ba phần2
Giữ mình chẳng làm hạng phụ nữ quê mùa
Sợ người ưa làm như anh học trò chỗ nào cũng chen vào
Tự tin giữ chí trong sạch như băng tuyết nên lòng không thẹn
Đá dân với ngọc không phân biệt được thì có mắt cũng như mù
Bản cô nương chẳng cần hỏi biết ta hay không biết ta
Chỉ kiên trinh giữ chí làm như đất đá trơ trơ.
Chú thích : 1. Hàm tu thảo : Tục gọi cây mắc cỡ, cũng gọi cây trinh nữ, đụng đến thì lá liền xếp lại.
2. Mai thực thất tam : Quả mai ba bảy. Kinh Thi : Phiếu hữu mai, kỳ thực thất hề, kỳ thực tam hề = Quả mai đang mười phần còn lại 7 phần rồi còn 3 phần. Ví với con gái lớn nhưng lấy chồng cũng còn kịp thời.
Không thấy bài xướng.
Dịch thơ :
Họa “Xử nữ giải trào thi”
Cỏ bé hàm tu còn mắc cỡ
Huống mai ba bảy dẫu lo thời
Gái quê ngớ ngẩn không thèm học
Cậu tú lanh chanh chẳng dám chơi
Tự giữ tuyết băng vui cái dạ
Khôn phân ngọc đá uổng con ngươi
Biết ta hay chẳng? Không cần hỏi
Như đá kiên trinh đứng giữa trời.
74
春 閨
雙 婀 兩 槳 唱 前溪
百 丈 遊 絲 九 陌西
千 里 音 書 空 憶雁
半 春 情 緒 倦 聞雞
七 囊 錦 字 裁 難寄
六 幅 珠 簾 捲 未齊
二 十 四 橋 三 五夜
一 聲 八 尺 萬 行啼
從 善 王
Phiên âm :
Xuân khuê
Song a lưỡng tưởng xướng tiền khê,
Bách trượng du ti cửu mạch tê.
Thiên lý âm thư không ức nhạn,
Bán xuân tình tự quyện văn kê.
Thất nang cẩm tự tài nan ký,
Lục bức châu liêm quyển vị tề.
Nhị thập tứ kiều tam ngũ dạ,
Nhất thanh bát xích vạn hàng đề.
Tùng Thiện Vương
Dịch nghĩa :
Buồng xuân
Đôi gái cắp đôi chèo đứng hát trước khe,
Trăm trượng tơ bay phấp phới trên không đều phát ra từ chín nẻo ở phương tây.
Trông nhạn trên không mang đến tin tức ngoài ngàn dặm,
Tình tự nửa chừng xuân đã mỏi mệt khi nghe tiếng gà gáy.
Khó gửi ý tứ vào chữ dệt thành gấm đựng trong bảy cái đãy,
Sáu tấm rèm châu cuốn lên chưa đều.
Khoảng canh ba, canh năm ở 24 cây cầu (tại Giang Tô xây bởi nhà Ngô bên Trung Quốc).
Một tiếng sáo cất lên thì có hàng vạn tiếng sáo cùng hòa theo.
Chú thích : Tùng Thiện Vương (1819 – 1870), tên thật là Nguyễn Phúc Thẩm, tự Thận Minh, hiệu Thương Sơn, biệt hiệu Bạch Hào tử, con trai thứ 10 của vua Minh Mệnh, tước phong Tùng Thiện Vương. Nổi tiếng thi hào trên thi đàn nước ta nửa sau thế kỷ XIX, được vua Tự Đức khen : “Thi đáo Tùng Tuy thất Thịnh Đường”.
Tác giả tự dịch :
Tiền khê đôi gái cắp chèo loan
Trăm trượng đường tơ chín nẻo lần
Tin nhạn luống trông nghìn dặm liễu
Canh gà nghe chán nửa tình xuân
Bảy lần chữ gấm gay trao gởi
Sáu bức rèm châu cuốn chửa cân
Hăm bốn cầu Ngô rằm nguyệt rạng
Thổi tiêu một tiếng vạn hàng rân.
75
追 和
一 春 紅 紫 滿 山 溪
七 八 佳 人 東 復 西
望 斷 雙 眸 千 里 雁
魂 消 半 枕 五 更 雞
百 憂 萬 慮 懷 難 遣
六 院 三 宮 色 未 齊
二 十 四 時 心 兩 事
九 華 帳 裡 怨 猿 啼
Phiên âm :
Truy họa
Nhất xuân hồng tử mãn sơn khê,
Thất bát giai nhân đông phục tê.
Vọng đoạn song mâu thiên lý nhạn,
Hồn tiêu bán chẩm ngũ canh kê.
Bách ưu vạn lự hoài nan khiển,
Lục viện tam cung sắc vị tề.
Nhị thập tứ thời tâm lưỡng sự,
Cửu hoa trướng lý oán viên đề.
Dịch nghĩa :
Tìm mà họa
Đầy núi lấp khe một màu xuân hồng tía,
Bảy, tám cô gái đẹp từ đông lại tây.
Trông ngóng cánh nhạn từ ngoài ngàn dặm tới muốn rớt hai con ngươi,
Tiêu hồn trên nửa chiếc gối suốt năm canh.
Trăm lo ngàn nghĩ, nhớ khó khuây,
Sáu viện ba cung màu sắc chưa đồng.
Suốt 24 giờ tâm với sự
Tiếng vượn kêu lọt vào trong trướng cửu hoa nghe thêm phát ghét.
Tác giả tự dịch :
Ngày xuân hoa nở khắp sơn khê,
Những gái tầm phương đông lẫn tê.
Mắt phượng tin nhàn trông vắng vẻ,
Canh gà gối điệp luống đê mê.
Trăm vàn lo nghĩ lòng thêm bận,
Cung viện xênh xang sắc chửa tề.
Tâm sự ngày đêm hai dạ biết,
Trướng hoa tai chán tiếng viên đề.
76
又 和 詠 古
七 顛 八 倒 遍 山 溪
百 萬 貔 貅 東 掠西
突 擊兩 枝 千 匹 馬
進 攻半 夜 五 更 雞
計 奇六 出 三 軍 振
陣 押雙 鉗 一 令 齊
二 十四 時 師 律 肅
九 州煙 靜 燕 鶯 啼
Phiên âm :
Hựu họa, vịnh cổ
Thất điên bát đảo biến sơn khê
Bách vạn tỳ hưu đông lược tê
Đột kích lưỡng chi thiên thất mã
Tấn công bán dạ ngũ canh kê
Kế kỳ lục xuất tam quân chấn
Trấn áp song kiềm nhất lệnh tề
Nhị thập tứ thời sư luật túc
Cửu châu yên tịnh yến oanh đề.
Dịch nghĩa :
Lại họa, vịnh chuyện đời xưa
Tình thế bảy lần nghiêng tám lần lật khắp cả núi khe,
Trăm vạn lính mạnh tợn như gấu từ đông tràn lên tây.
Ngàn cỗ ngựa chia hai đường thình lình đánh vào,
Tấn công từ nửa đêm tới sáng.
Kế lạ sáu lần ra quân ngả Kỳ Sơn làm ba quân phấn chấn 1,
Một lịnh ban xuống, hai cánh quân như hai gọng kiềm răm rắp tuân theo mà siết dần lại.
Suốt ngày đêm quân đội giữ đúng kỷ luật (thì ắt thắng trận),
Bấy giờ khói lửa đã dập tắt, trên chín châu 2 tiếng oanh yến hót vang.
Chú thích : 1. Lục xuất : Khổng Minh Gia Cát Lượng phạt Ngụy sáu lần đều kéo quân ra ngả Kỳ Sơn.
2. Cửu châu : Đất nước Trung Quốc thời cổ chia làm 9 châu là : Kinh, Dự, Lương, Ung, Ký, Duyện, Thanh, Từ và Dương. Trỏ chung đất nước.
Tác giả tự dịch :
Đang hồi nghiêng ngửa khắp sơn khê,
Trăm vạn binh hùm đông tới tê.
Hai đạo ngựa dàn xung kích mạnh,
Nửa đêm gà gáy tấn công ghê !
Kế ra lục xuất quân tăng thế,
Trấn áp song kiềm lệnh nhất tề.
Kỷ luật ngày đêm đều chỉnh túc,
Dẹp yên, oanh yến hót tư bề.
77
和 潘 茂 才 詩
甲 乙 花 開 卯 榜 同
北 南 離 索 信 難 通
鵬 抟 未 遂 凌 雲 志
豹 隱能 全 自 澤 功
鬚 髮莫 嫌 霜 占 白
江 山共 喜 日 昇 紅
科 中結 友 詩 中 遇
可 惜偷 年 始 得 逢
Phiên âm :
Họa Phan Mậu tài thi
Giáp Ất hoa khai Mão bảng đồng,
Bắc Nam ly tác tín nan thông.
Bằng đoàn vị toại lăng vân chí,
Báo ẩn năng toàn tự trạch công.
Tu phát mạc hiềm sương chiếm bạch,
Giang sơn cộng hỷ nhật thăng hồng.
Khoa trung kết hữu, thi trung ngộ,
Khả tích thâu niên thủy đắc phùng !
Dịch nghĩa :
Họa thơ Tú tài họ Phan
Cùng một khoa thi Hương năm Mão (1915) hoa nở trên bảng Giáp (Cử nhân), hoa nở trên bảng Ất (Tú tài),
Sau đó chia lìa kẻ Bắc người Nam, không thông tin tức.
Chim bằng chưa toại chí nương gió xoáy mà xông thẳng lên mây,
Con báo giấu mình trong hang tự luyện công phu giữ gìn bộ lông cho lán mướt.
Chẳng hiềm sương nhuốm râu tóc bạc trắng,
Cùng vui với núi sông khi mặt trời đỏ mọc lên.
Kết bạn trong khoa thi, gặp gỡ trong thi ca,
Khá tiếc đến lúc già rồi, sống trộm tuổi rồi, mới được gặp nhau.
Chú thích : Phan Mậu tài tức ông Phan Duy Thuần đỗ Tú tài khoa Ất Mão (1915). Khoa nầy ông Hà Trì đỗ Cử nhân. Là bạn rượu thơ của ông Hà Trì.
Không thấy bài xướng.
Dịch thơ :
Họa thơ Phan Tú tài
Bảng chia Giáp Ất Mão khoa đồng,
Nam Bắc hai đường tin chẳng thông.
Lập chí lên mây bằng chửa toại,
Giữ thân lánh tuyết báo nên công.
Chẳng hiềm râu tóc sương đà nhuốm,
Chỉ thích non sông nhật rạng hồng.
Tôi bác đồng khoa đồng điệu vậy,
Tiếc ta già quách mới tương phùng !
Ông Lê Bính cũng có dịch thành thơ :
Đồng khoa mẹo bảng chia Giáp Ất
Cách Bắc Nam tin tức chẳng thông.
Cánh bằng chưa gặp đoàn phong,
Beo kia ẩn nấp giữ lông vẹn tuyền.
Tóc râu xin chớ phiền sương trắng,
Non sông mừng chói rạng bóng hồng.
Nhờ thơ biết bạn thủy chung,
Tiếc thay già cả mới cùng gặp nhau !
78
和 李 茂 才 詩
歲 月 侵 尋 兩 鬢 華
殷 憂 歷 閲 敢 矜 誇
江 河徒 慨 更 遷 易
宇 宙追 惟 分 事 多
休 想科 名 談 甲 乙
底 應祖 國 一 書 車
固 知漸 老 思 深 隱
爭 奈人 心 世 道 何
Phiên âm :
Họa Lý Mậu tài thi
Tuế nguyệt xâm tầm lưỡng mấn hoa,
Ân ưu lịch duyệt cảm căng khoa.
Giang hà đồ khái canh thiên dị,
Vũ trụ truy duy phận sự đa.
Hưu tưởng khoa danh đàm Giáp Ất,
Để ưng Tổ quốc nhất thơ xa.
Cố tri tiệm lão tư thâm ẩn,
Tranh nại nhân tâm thế đạo hà?
Dịch nghĩa :
Họa thơ Tú tài họ Ly
Năm tháng dần dà làm cho hai mái tóc trổ hoa
Dám khoe khoang rằng đã trải nhiều biết lắm sự đời?
Bàng hoàng nhìn thấy sông ngòi thay đổi dễ dàng,
Mà phận sự duy trì vũ trụ thì có nhiều.
Chớ tưởng tới khoa danh mà bàn chuyện đỗ cao đỗ thấp,
Rốt lại muốn sao cho nước nhà gồm lại một mối để mọi người đi xe cùng một cỡ trục, đọc sách cùng một thứ chữ.
Nên biết gần già mới biết tìm chỗ vắng vẻ mà ở ẩn,
Lòng người như thế, trò đời như thế, há nài sao?
Chú thích : Lý Tú tài tức ông Tú tài Lý Lê Trang, bạn ông Hà Trì.
Không thấy bài xướng.
Dịch thơ :
Họa thơ Lý Tú tài
Tóc bạc dần dà thế tóc xanh,
Có chi khoe mẽ với ông anh?
Sông ngòi canh cải hình sao dễ,
Đất nước duy trì phận dám ganh?
Đỗ thấp đỗ cao thôi chớ hỏi,
Chung xe chung chữ đáng mong thành.
Già rồi mới biết ẩn cư quí,
Thế đạo nhân tâm gác ngoại vành.
Ông Lê Bính dịch thơ :
Dày tuế nguyệt tóc sương hai mái,
Lịch duyệt đời ai lại khoe khoang;
Non sông luống những bàng hoàng,
Trần gian phận sự ngỡ ngàng cùng ai!
Thôi đừng nhắc khoa bài Giáp Ất,
Tổ quốc ưng thống nhất thơ xa;
Biết rằng ẩn dật tuổi già,
Nhơn tâm thế đạo nài hà làm chi