Thơ chữ Hán - (Bài 11 - Bài 19)
HÀ TRÌ THI TẬP
11
長 安 感 景
長 安 玩 月 綠楊 堤
夜 靜 燈 明 御馬 嘶
屏 嶺 高 朝 山起 伏
香 江 清 繞 水東 西
肇 培 王 業 人心 仰
縹 緲 春 都 客眼 迷
對 景 易 令 詩興 動
遊 人 得 意 健吟 題
潘茂 才
Phiên âm :
Trường An cảm cảnh
Trường An ngoạn nguyệt lục dương đê
Dạ tĩnh đăng minh ngự mã tê
Bình lãnh cao triều sơn khởi phục
Hương giang thanh nhiễu thuỷ đông tê
Triệu bồi vương nghiệp nhân tâm ngưỡng
Phiếu diểu Xuân đô khách nhãn mê
Đối cảnh dị linh thi hứng động
Du nhân đắc ý kiện ngâm đề.
Phan Mậu tài
Dịch nghĩa:
Cảm cảnh Trường An
Đứng trên bờ đê có trồng liễu xanh ở Trường An mà ngắm trăng.
Đêm vắng lặng, đèn sáng, ngựa vua cất tiếng hí
Núi Ngự Bình từ trên cao chầu về nơi vua đóng đô, núi non nơi ấy hòn thì cất đầu lên, hòn thì nép mình xuống;
Nước sông Hương trong trẻo, dòng sông lượn về đông, uốn sang tây
Khai sáng rồi bồi bổ cho nghiệp vương khiến lòng người ngưỡng mộ mà theo về.
Kinh đô Phú Xuân phảng phất như cõi tiên khiến khách nhìn đến mê mẩn.
Cảnh trí dễ gợi hứng thơ,
Người du ngoạn đắc ý, mạnh dạn ngâm thơ đề vịnh.
Dịch thơ :
Cảm cảnh Trường An
Trường An đê liễu ngắm trăng trong
Đêm lặng đèn soi ngựa ngự lồng
Bình lãnh chầu vua, non phủ phục
Hương giang uốn khúc, nước tây đông
Triệu bồi nghiệp đế lòng dân thuận
Xán lạn đô Xuân mắt khách trông
Đối cảnh dễ sanh thơ hứng mới
Ngâm đề đắc ý có thi ông.
12
步 韻 和 之
舟 滿 江 心 埔滿 堤
電 燈 光 炤 火車 嘶
山 河 奕 葉 前林 邑
人 物 繁 華 近泰 西
故 里 春 深 鶯語 鬧
他 鄉 秋 夢 蝶魂 迷
俏 愁 散 步 香橋 外
嬴 得 桃 花 我品 題
Phiên âm :
Bộ vận họa chi
Chu mãn giang tâm phố mãn đê
Điện đăng quang chiếu hoả xa tê
Sơn hà dịch diệp tiền Lâm Ấp
Nhân vật phồn hoa cận Thái Tê
Cố lý xuân thâm oanh ngữ náo
Tha hương thu mộng điệp hồn mê
Tiêu sầu tản bộ Hương kiều ngoại
Doanh đắc đào hoa ngã phẩm đề.
Dịch nghĩa :
Theo vần hoạ lại
Thuyền đầy lòng sông, phố đầy bờ đê
Ánh đèn điện chiếu sáng, tiếng còi xe lửa kêu vang
Dân tộc ta kế tiếp Lâm Ấp trước kia mà làm chủ núi sông này
Người và vật ở chỗ xinh đẹp và đông đúc này có phong thái gần gũi người và vật ở các nước Âu Mỹ.
Ở quê cũ, càng vào xuân thì chim oanh càng kêu vang lừng
Nơi xứ lạ, giấc mơ mùa thu khiến hồn bướm đê mê *
Để tiêu sầu bèn đi tản bộ ngoài cầu sông Hương
Thấy cây đào nở đầy hoa bèn đề thơ phẩm bình.
Chú thích: * Trang tử chiêm bao thấy mình hoá bướm. Tỉnh dậy tự hỏi mình là bướm hay bướm là mình?
Dịch thơ:
Hoạ theo vần
Thuyền đầy sông nước, phố đầy đê
Xe lửa còi vang, điện sáng loè
Thừa kế sơn hà Lâm Ấp trước
Ganh đua nhân vật Mỹ Âu kề
Làng xưa xuân đến oanh inh ỏi
Xứ lạ thu sang bướm mộng mê
Thả bộ ngoài cầu Hương giải muộn
Sum suê đào nở có thơ đề.
13
聞 友 登 小 科題 寄
我 在 長 安 君故 鄉
聞 君 人 作 嫁衣 裳
家 山 雁 奏 雝 鳴 韻
客 地 詩 裁 好 合 章
敬 仲 已 徵 諧占 鳳
相 如 寧 復 鼓求 凰
桃 花 洞 裏 奇緣 送
辰 遇 知 君 有所 將
潘茂 才
Phiên âm :
Văn hữu đăng tiểu khoa đề ký
Ngã tại Trường An , quân cố hương
Văn quân nhân tác giá y thường
Gia sơn nhạn tấu Ung minh vận
Khách địa thi tài Hảo hợp chương
Kính Trọng dĩ trưng hài chiếm phụng
Tương Như ninh phục cổ cầu hoàng
Đào hoa động lý kỳ duyên tống
Thời ngộ tri quân hữu sở tương.
Phan Mậu tài
Dịch nghĩa :
Nghe tin bạn cưới vợ, làm thơ gởi về
Tôi ở Trường An 1, anh ở quê cũ
Nghe anh được người gả con gái cho
Ở núi quê,đôi nhạn cùng hót có vần có điệu thật vui vẻ2
Nơi đất khách, tôi làm bài thơ chúc mừng sự kết hợp tốt đẹp 3
Kính Trọng đời Xuân Thu bói được quẻ Phụng Hoàng nên cưới được vợ hiền4
Tương Như5 đời Hán chỉ lặng lẽ đáp lại bằng cách tấu bản Cầu hoàng mà Trác Văn Quân chịu theo làm vợ.
Duyên nợ lạ lùng đã đưa người vào động Đào hoa6
Lúc này mới biết anh đã được như thế
Chú thích: 1. Trường An ở tỉnh Thiểm Tây, xưa nhà Hán đóng đô tại đây, sau Trường An thành từ chỉ nơi vua đóng đô, đây trỏ kinh đô Huế.
2. Kinh Thi, thơ Quốc phong, bài Bào hữu khổ diệp có đoạn “Ung ung minh nhạn, Húc nhật thuỷ đán. Sĩ như qui thê, Đãi băng vị phán” = Chim nhạn cất tiếng kêu hoà ái, vào lúc rạng đông. Nếu anh muốn rước vợ, nên lo kịp lúc băng chưa tan”. Cho nên 3 chữ ung minh vận ngoài nghĩa đã dịch còn có nghĩa “vần thơ Ung minh” này đây, nói về việc cưới vợ.
3. Kinh Thi, thơ Quốc phong, bài Quan Thư, bốn câu mở đầu “Quan quan thư cưu, tại hà chi châu, yểu điệu thục nữ, quân tử hảo cầu”= chim thư cưu kêu quan quan tại bãi giữa sông. Cô gái hiền dịu dàng thuỳ mị với chàng quân tử nên đôi lứa tốt”. Cho nên Hảo hợp chương ngoài nghĩa đã dịch, còn có nghĩa “Bài thơ hảo hợp” này đây, nói về việc cưới vợ.
4. Tả truyện: Trần Kính Trọng chạy sang Tề, quan đại phu nước Tề là Ý Thị muốn gả con cho Kính Trọng, bà vợ bói được quẻ tốt, lời lựu quẻ ấy có câu: “Phụng hoàng vu phi, Hoà minh tương tương = Chim phượng (trống) với chim hoàng (mái) cùng bay, cùng cất tiếng hoà vang”.
5. Sử ký: Tư Mã Tương Như dự tiệc nhà họ Trác, gảy khúc “Phượng cầu kỳ Hoàng” khiến cô gái goá nhà này là Trác Văn Quân cảm tiếng đàn mà bỏ nhà trốn theo Tương Như.
6. Đào hoa nguyên ký: Ở Vũ Lăng có người đánh cá, ngược dòng nước có hoa đào trôi mà vào động hoa Đào, gặp cư dân nói là tổ tiên họ tránh loạn đời Tần vào đây lập nghiệp. Sau người ấy về rồi có lần trở lại nơi này nhưng không tìm được lối vào, ai cũng cho người ấy trước lạc vào cõi tiên. Ngư phủ lạc Đào nguyên e không hợp. Ngờ rằng tác giả muốn nói tới: “Lưu Nguyễn nhập Thiên Thai”.
Dịch thơ :
Mừng bạn cưới vợ
Tôi ở Trường An, anh cố hương
Nghe anh khăn túi có người đương
Non quê nhạn hót Ung minh vận
Đất khách thơ mừng Hảo hợp chương
Kính Trọng gieo nên quẻ bói phượng
Tương Như lặng gảy khúc cầu hoàng
Duyên kỳ đưa tới Đào hoa động
Anh được như ri, nay mới tường.
14
步 韻 和 之
笑 我 貪 名 別梓 鄉
君 今 日 舞 衣裳 笑
高 山 流 水 古今 韻
弄 笛 吹 簫 前後 章
月 點 花 陰 留睡 鶴
晴 輝 梧 樹 待棲 凰
新 婚 遠 別 兩相 好
煩 語 家 妻 歸日 將
Phiên âm :
Bộ vận hoạ chi
Tiếu ngã tham danh biệt tử hương
Tiếu quân kim nhật vũ y thường
Cao sơn lưu thủy cổ kim vận
Lộng địch xuy tiêu tiền hậu chương
Nguyệt điểm hoa âm lưu thụy hạc
Tình huy ngô thụ đãi thê hoàng
Tân hôn viễn biệt lưỡng tương hảo
Phiền ngữ gia thê qui nhật tương.
Dịch nghĩa:
Theo vần hoạ lại
Cười tôi tham danh mà xa quê hương
Cười anh ngày nay múa khúc Nghê thường vũ y 1
Non cao nước chảy là vần điệu xưa nay2
Thổi sáo thổi tiêu có bài trước bài sau
Trăng rọi xuống bóng hoa, nơi ấy có con hạc ngủ
Trời tạnh ráo và sáng sủa, cây ngô đồng đợi chim hoàng về đậu3
Anh vui duyên mới còn tôi xa cách quê nhà nhưng cả hai người đều tốt đẹp.
Phiền anh nói cùng vợ tôi rằng ngày tôi về cũng sắp tới
Chú thích: 1. Dị văn lục: Đêm trung thu, Đường Minh Hoàng được đạo sĩ La Công Viễn làm phép đưa lên chơi cung trăng. Tại đó, bầy tiên nga mặc áo lông hạc và xiêm màu cầu vồng đang múa cạnh cây quế theo điệu nhạc não nùng. Khi về cõi trần, nhà vua nhớ lại vũ khúc này mà chế tác thành điệu múa Nghê Thường vũ y (Xiêm màu cầu vồng ,áo lông chim)
2. Theo Liệt tử, Bá Nha gảy đàn nghĩ tới núi cao, Tử Ký nghe liền nói : “Nguy nguy hồ! Chí tại cao sơn = vòi vọi thay! Chí ở non cao!”. Bá Nha gảy đàn nghĩ tới sông rộng, Tử Kỳ nghe liền nói : “Hạo hạo hồ! Chí tại lưu thủy! = Mên mông thay! Chí tại nước chảy!”. Sau bốn từ cao sơn lưu thủy nhằm trỏ những bản đàn có âm điệu du dương. Ở nước ta, nhạc cổ có hai bản mang tên Hành vân và Lưu thủy, có làn điệu như mây bay nước chảy, ở đây tác giả có ý muốn nhắc tới hai bản đàn này.
3. Phượng hoàng là giống chim rất quí hiếm, con trống gọi là phượng, con mái gọi là hoàng. Người xưa cho rằng giống chim này trống mái đi từng cặp, chỉ ăn hạt bông tre, chỉ đậu trên cây ngô đồng (cây vông), chỉ xuất hiện khi nào thiên hạ thái bình! Văn học cổ dùng chúng ví với vợ chồng.
Dịch thơ :
Hoạ theo vần
Cười tớ tham danh biệt cố hương
Cười anh giờ lại múa nghê thường
Non cao nước chảy xưa nay điệu
Sáo thổi tiêu hoà sau trước chương
Hạc ngủ hoa râm vừng nguyệt rọi
Hoàng về trời mát nhánh ngô giương
Anh – Tôi vui vẻ. Phiền anh chút:
Cũng sắp về rồi – Nhắn vợ thương.
15
桂
天 上 仙 娘 好自 栽
定 知 丹 桂 所由 來
花 濃 玉 殿 朝霞 印
根 扥 銀 宮 夜露 培
影 伴 素娥 迎 曉 日
香 隨 紅友 入 金 盃
四 辰 不改 繁 花 色
長 向 丹霄 炤 月 開
潘茂 才
Phiên âm :
Quế
Thiên thượng tiên nương hảo tự tài
Định tri đơn quế sở do lai
Hoa nùng ngọc điện triêu hà ấn
Căn thác ngân cung dạ lộ bồi
Ảnh bạn Tố nga nghênh hiểu nhật
Hương tùy Hồng hữu nhập kim bôi
Tứ thời bất cải phồn hoa sắc
Trường hướng đơn tiêu, chiếu nguyệt khai
Phan Mậu tài
Dịch nghĩa:
Quế *
Nàng tiên trên trời khéo tự trồng
Mới biết quế đỏ do đây mà có
Hoa thơm lừng điện ngọc, hình cây in trên ráng buổi sớm mai
Rễ bám nơi cung bạc, được sương đêm bồi dưỡng cho
Hình ảnh làm bạn với cô gái trắng trẻo (là mặt trăng) mà đón mặt trời buổi sáng
Mùi hương theo ông bạn Đỏ (là mặt trời) mà nhập vào chén vàng
Bốn mùa chẳng đổi cái sắc có nhiều vẻ đẹp
Khiến người thường hướng lên không, nhìn cây quế đỏ, khi có trăng sáng.
Chú thích: * Trong mặt trăng có vết đen giống hình cổ thụ. Văn học cổ bảo đó là cây quế. Bài này tác giả vịnh cây quế ấy. Tác giả tên Phan Quế nên mượn quế mà nói về mình.
Dịch thơ:
Quế
Nàng tiên thượng giới khéo trồng thay!
Quế đỏ nơi này, nay mới hay
Điện ngọc hoa nồng, hình hiện ráng
Cung ngân rễ bám, móc vun cây
Tố nga bạn với nghinh ngày rạng
Hồng hữu hương theo nhập chén cay
Ấy sắc phồn hoa năm chẳng đổi
Từng không luôn dõi nguyệt vơi đầy.
16
步 韻 和 之
玉 花 仙 萼 謂誰 栽
引 得 天 香 入面 來
雲 外 飄 飄 紅子 落
月 中 朗 朗 翠根 培
靈 波 武 帝 迎香 殿
甘 露 仙 翁 捧玉 盃
願 向 煙 霄 承雨 露
丹 心 一 點 為君 開
Phiên âm:
Bộ vận hoạ chi
Ngọc hoa tiên ngạc vị thuỳ tài
Dẫn đắc thiên hương nhập diện lai
Vân ngoại phiêu phiêu hồng tử lạc
Nguyệt trung lãng lãng thuý căn bồi
Linh ba Vũ đế nghinh hương điện
Cam lộ Tiên ông phủng ngọc bôi
Nguyện hướng yên tiêu thừa vũ lộ
Đơn tâm nhất điểm vị quân khai.
Dịch nghĩa :
Theo vần hoạ lại
Cánh hoa trắng như ngọc, đài hoa đẹp như tiên, hỏi ai trồng?
Dẫn được hương trời vào trong mặt trăng
Bên ngoài đám mây bay, gió cuốn theo hạt hồng rụng,
Bên trong vừng trăng sáng, gốc xanh được bồi đắp
Vua Hán Vũ đế cho lập điện nghinh hương để đón Tiên Tây Vương mẫu vượt sóng linh từ biển Đông tới.
(Trước điện có tượng) Tiên ông bưng chén ngọc hứng móc ngọt từ trên trời rơi xuống (để vua uống với kim đơn cho sống lâu)
Nguyền hướng lên khoảng không có khó`i mây mà đón mưa móc
Lòng son một điểm, vì anh mà mở.
Dịch thơ:
Hoạ theo vần
Đài tiên cánh ngọc, hỏi ai trồng?
Dẫn được hương trời nhập nguyệt cung
Ngoài áng mây bay , hạt đỏ rụng
Trong vừng trăng sáng, gốc xanh vun
Ông tiên bưng chén chờ cam lộ
Vua Vũ tựa lầu ngóng thánh dung
Nguyền hướng trời cao cầu móc ngọt
Lòng son một điểm vị anh thông.
17
漫 遊
清 宵 無 事 訂朋 儔
穿 屩 相 將 汗 漫 遊
足 櫪 紅 樓 嬌 態 媚
手 拋 青 果 淡香 浮
投 桃 自 笑 多情 是
報 李 人 能 有意 掊
曾 記 盈 車 交擲 我
遺 來 一 果 重相 酬
Phiên âm :
Mạn du
Thanh tiêu vô sự đính bằng trù
Xuyên cược tương tương hãn mạn du
Túc lịch hồng lâu kiều thái mị
Thủ phao thanh quả đạm hương phù
Đầu đào tự tiếu đa tình thị
Báo lý nhân năng hữu ý phầu?
Tằng ký doanh xa giao trịch ngã
Di lai nhất quả trọng tương thù.
Dịch nghĩa :
Dạo chơi đây đó
Đêm mát mẻ, rỗi việc, hẹn cùng bạn đồng trang lứa
Xỏ giày cùng nhau dạo chơi cho thoả, không gì ràng buộc
Chân dạo khắp lầu hồng, nơi có các cô gái dáng dấp xinh đẹp
Tay ném trái xanh có mùi thơm nhàn nhạt
Ném trái đào cho người, tự cười mình là kẻ nhiều tình cảm
Được người ném trả trái mận thì có ý gì chăng?1
Từng nhớ trái ném đầy xe ta2
Nhưng phải để lại một quả dành đáp người trọng thị mình.
Chú thích : 1. Thi Kinh: Đầu ngã dĩ đào, báo chi dĩ lý = Ném cho ta quả đào, ta biếu lại quả mận.
2. Đời Tấn có Phan Nhạc vừa đẹp trai vừa hay chữ. Mỗi lần Phan Nhạc ra đường thì đàn bà con gái vây quanh, lấy trái cây ném vào xe, chẳng mấy chốc mà xe đầy trái.
Dịch thơ :
Dạo chơi
Đêm thanh rỗi việc vui trang lứa
Xỏ dép kề vai dạo khắp đường
Chân trải hồng lâu cùng gái lịch
Tay tung thanh quả đượm hơi hương
Ném đào, cười tớ đa tình nhỉ
Trả mận, ngờ người hữu ý chăng?
Từng nhớ xe ta đầy trái ném
Nhưng dành một quả tặng người thương.
18
席 中 偶 興
夜 靜 天 光 一望 清
相 將 散 步 訪雲 英
傾 壺 不 少 懷春 意
對 盞 添 多 愛月 情
勸 有 人 供 碩果 勸
消 愁 與 我 吸長 鯨
何 當 共 淺 瓊漿 約
長 醉 香 閨 不願 醒
少 芝胡 得 合
Phiên âm :
Tịch trung ngẫu hứng
Dạ tĩnh thiên quang nhất vọng thanh
Tương tương tản bộ phỏng Vân Anh
Khuynh hồ bất thiểu hoài xuân ý
Đối trản thiêm đa ái nguyệt tình
Khuyến ẩm hữu nhân cung thạc quả
Tiêu sầu dữ ngã hấp trường kình
Hà đương cọng thiển Quỳnh tương ước
Trường tuý hương khuê bất nguyện tinh.
Thiếu chi Hồ Đắc Hiệp
Dịch nghĩa:
Trong tiệc chợt hứng
Đêm lặng trời trong, một mình hóng mát
Thong thả dạo tìm thăm nàng Vân Anh1
Uống đến nghiêng bầu mà rót thì rượu gợi chẳng ít ý nhớ tiếc tuổi xuân đã qua
Cùng người cụng ly thì tình cảm nghiêng nhiều về ý yêu thích vầng trăng.
Có người mang đến trái cây lớn2 làm thức nhắm mời ta uống thêm rượu
Để tiêu sầu, ta đã uống như cá voi lớn hút nước
Sao đương (uống nhiều) lại nhớ đến chút hẹn nhắp chén Quỳnh tương3?
Và muốn say mãi hương vị phòng khuê, chẳng muốn tỉnh.
Chú thích : 1. Vợ Bùi Hàng, sau thành tiên.
2. Theo nguyên chú là “Thanh trà quả”, ta gọi bưởi Thanh trà, đặc sản của xứ Huế.
3. Tên một thứ rượu tiên.
Dịch thơ :
Trong tiệc chợt hứng
Hóng mát mình ta, đêm lặng thanh
Thong dong tản bộ kiếm Vân Anh
Nghiêng bầu không ít hoài xuân ý
Cụng chén càng nhiều ái nguyệt tình
Khuyến tửu, người đem thêm thạc quả
Tiêu sầu, ta uống tợ trường kình
Sao đương bỗng nhớ Quỳnh tương hẹn
Say mãi hương khuê, tỉnh chẳng đành!
19
奉 和
良 宵 恰 值 夏天 清
攜 手 相 將 訪女 英
風 遞 蘭 香 和麴 味
月 籠 桃 臉 暢春 情
豪 吟 對 景 思翻 鶻
狂 興 令 人 欲誇 鯨
迷 景 不 應 長使 醉
勸 君 當 作 醉中 醒
Phiên âm :
Phụng hoạ
Lương tiêu kháp trị hạ thiên thanh
Huề thủ tương tương phỏng Nữ Anh
Phong đệ lan hương hoà khúc vị
Nguyệt lung đào kiểm sướng xuân tình
Hào ngâm đối cảnh tư phiên cốt
Cuồng hứng linh nhân dục khoá kình
Mê cảnh bất ưng trường sử tuý
Khuyến quân đương tác tuý trung tinh.
Dịch nghĩa :
Kính hoạ
Đêm mát, lại đúng vào mùa hè trời trong vắt
Dắt tay nhau tìm thăm nàng Nữ Anh1
Gió mang tới mùi thơm hoa lan trộn lẫn mùi men rượu
Vầng trăng gồm cả hình dáng gò má mơn mởn của cô gái đẹp lẫn tình cảm tươi trẻ của tuổi xuân.
Đứng trước cảnh, hào hứng ngâm thơ lại nghĩ tới chim cưu lượn.2
Hứng như điên dại khiến người muốn cưỡi con cá kình3
Cảnh thì mê nhưng không muốn để mình say mãi
Mà muốn khuyên anh làm người tỉnh giữa những kẻ say.
Chú thích : 1. Vợ vua Thuấn, sau chết làm thần sông Tương.
2. Cốt cưu, còn gọi là ban cưu, thường bay lượn nhởn nhơ
3. Lý Bạch đời Đường tự xưng là “Hải thượng kỵ kình khách”. Thơ Lý Hiếu Quang: “Trích tiên bị tửu kỵ kình khứ = Trích tiên mang rượu cưỡi kình đi”.
Dịch thơ :
Bài hoạ
Đêm lành gặp tiết Hạ trời thanh
Tay dắt tay tìm thăm Nữ Anh
Gió thoảng lan hương hoà tửu vị
Trăng in đào kiểm lẫn xuân tình
Ngâm tràn xúc cảnh mơ vươn cánh
Hứng dại xui ai muốn cưỡi kình
Mê cảnh, chẳng ưng dài luý tuý
Người say, ta tỉnh – Dám khuyên anh.