Thơ chữ Hán (Bài 36 - Bài 43)
HÀ TRÌ THI TẬP
36
題 松 鹿 山 水 雙 盆
其 一
孔 門 歲 往 寒 知 橾
大 舜 山 深 日 與 遊
山 水 有 情 來 貢 狀
高 清 遺 像 永 千 秋
Phiên âm:
Đề tùng lộc sơn thuỷ song bồn
Kỳ nhất
Khổng môn tuế vãng hàn tri tháo
Đại Thuấn sơn thâm nhật dữ du
Sơn thủy hữu tình lai cống trạng
Cao thanh di tượng vĩnh thiên thu.
Dịch nghĩa :
Thơ đề hai chậu vẽ cảnh núi sông thông nai
Bài một
Đứng trước cửa Khổng tử đến cuối năm mới biết sức chịu rét giỏi1,
Trong núi sâu, cùng vua Thuấn chơi suốt ngày2
Non nước có tình với người nên đã đến đây hiến hình dáng cho người xem
Hình tượng cao thanh lưu lại mãi ngàn năm sau.
Chú thích : 1. Luận ngữ: Tử viết: “Tuế hàn, nhiên hậu tri tùng bách chi bất điêu dã” = Đức Khổng tử nói: “Tới mùa đông lạnh lẽo, mới biết loài tùng bách chẳng điêu tàn”
2. Theo Nhị thập tứ hiếu, Thuấn bị cha ghét, sai vào núi sâu cày ruộng để cho thú dữ hại, nhưng lòng hiếu thảo của Thuấn đã cảm hoá được loài vật nên chẳng những không bị hại mà còn được hươu nai tới kéo cày, chim chóc xuống nhặt cỏ giúp Thuấn.
Dịch thơ:
Đề chậu vẽ cảnh núi sông thông nai
Cửa Khổng tỏ tài cây chịu rét
Dạo non ngày ấy Thuấn cùng nai
Hữu tình sông núi phô hình sắc
Tùng lộc cao thanh với tháng ngày.
37
其 二
傲 雪 凌 霜 不 老 年
亭 亭 勁 節 翠 參 天
樹 邊 獸立 知 非 馬
妄 指 何人 學 倒 顛
Phiên âm:
Kỳ nhị
Ngạo tuyết lăng sương bất lão niên
Đình đình kính tiết thuý tham thiên
Thụ biên thú lập tri phi mã
Vọng chỉ hà nhân học đảo điên?
Dịch nghĩa:
Bài hai
Khinh thường sương tuyết, chẳng biết già
Đứng sừng sững, phô khí tiết cứng cỏi, màu lá xanh lẫn với màu da trời.
Con thú đứng bên cây, biết rằng nó chẳng phải ngựa
Sao người học thói đảo điên, chỉ nai bảo xằng là ngựa?*
Chú thích: Theo Sử ký, Tần Thỉ Hoàng đế chết, con là Hồ Hợi lên ngôi xưng Tần Nhị Thế, dùng Triệu Cao làm Tể tướng. Cao muốn thử xem triều thần ai theo mình, ai chống mình. Một hôm y dắt vào triều một con hươu, nói với Nhị Thế : “Thần có con ngựa tốt, xin hiến nhà vua”. Nhị thế ngạc nhiên nói: “Đây là hươu, sao bảo là ngựa?”. Cao hỏi triều thần, lắm kẻ xu nịnh theo Cao thì nói là ngựa, số ít người trung chính không nói theo Cao mà bảo là hươu. Cao ghi tên những người nói trái lời y để sau đó có dịp thì hãm hại dần.
Dịch thơ:
Bài hai
Ngạo tuyết khinh sương chẳng biết già
Tán hoà trời thẳm , dáng nguy nga
Bên cây thú ấy không là ngựa
Điên đảo thay miệng lưỡi kẻ tà !
38
題 梅 鳥山 水
太 公 垂 釣 雙 盆
其 一
渭 水 絲 竿 娛 歲 月
磻 溪 芳 餌 釣 公 侯
飛 熊 入 夢 逢 周 聖
莫 向 斜 陽 嘆 白 頭
Phiên âm:
Đề mai điểu sơn thủy
Thái Công thùy điếu song bồn
Kỳ nhất
Vị thủy ti can ngu tuế nguyệt
Bàn khê phương nhĩ điếu công hầu
Phi hùng nhập mộng phùng Châu thánh
Mạc hướng tà dương thán bạch đầu.
Dịch nghĩa:
Đề hai chậu cảnh vẽ cảnh núi sông chim mai, có Lã Vọng buông câu
Bài một
(Lấy trúc làm) cần (lấy tơ làm) nhợ (ngồi bên bờ) sông Vị mà vui với năm tháng.
Nơi khe Bàn, dùng mồi thơm mà câu lấy tước công tước hầu.
Nhờ giấc mơ thấy gấu bay gặp vị vua thánh nhà Châu
Chẳng còn hướng về ánh mặt trời sắp lặn mà than đầu mình đã bạc*
Chú thích: * Trong Điển cố tầm nguyên trích yếu, soạn giả Trần Đình Tân đã viết, tôi dịch như sau: Phi hùng nhập mộng: Gấu bay vào mộng. Thơ Hồ Tăng: Ngạn thảo thanh thanh Vị thuỷ lưu, Tử Nha tằng thử độc thuỳ câu, Đương thời vị nhập phi hùng mộng, Kỷ hướng tà dương thán bạch đầu = Bờ cỏ xanh xanh dòng Vị Thuỷ, Tử Nha từng tới đó buông câu, Đương thời gấu chửa bay vào mộng, Mải ngắm tà dương than bạc đầu!
(Nguồn gốc điển tích: sách Lục thao, Văn thao, Văn sư ghi: “Chu Văn Vương sắp đi săn, sư ghi bói rằng : “Săn ở bờ Bắc sông Vị, sẽ được lớn. Chẳng phải rồng, chẳng phải li (theo truyền thuyết, li là loài giống rồng), chẳng phải hổ, chẳng phải bi (bi: một loại gấu), điềm báo được công hầu, trời cho bậc thầy để giúp sự hưng thịnh. Văn vương bèn ăn chay ba ngày, lên xe săn, khớp ngựa săn, săn ở bờ bắc sông Vị thuỷ, rốt cuộc gặp Thái Công (tức Lã Vọng) ngồi trên cỏ tranh câu cá”. Cùng nói chuyện rất vui, bèn đem ông cùng về lập làm thầy. Người đời sau có kẻ hiểu nhầm phi (chẳng phải) thành phi (bay), bói săn thành đoán mộng.
Sau bèn dùng “phi hùng nhập mộng” (gấu bay vào mộng), điềm gửi gấu bi, chẳng phải điềm gấu, điềm gấu bi, chẳng phải vận gấu, mộng chẳng phải bi, mộng gấu bay... là để chỉ những nhân vật ra sức giúp vào việc cai trị của một đất nước.
Từ điển Từ Hải cũng ghi : “Phi hùng nhập mộng (Gấu bay vào mộng): Sử ký, Tề Thái công thế gia: Tây Bá (Chu Văn Vương) tương xuất lạp, bốc chi viết “Sở hoạch phi long, phi li, phi hổ, phi bi, sở hoạch Bá vương chi phụ. Vu thị, Chu Tây bá lạp, quả ngộ Thái công vu Vị chi dương”. Tiếp “phi hổ”, Tống thư, Phù đoan chí tác phi hùng. Hậu do phi hùng ngoa vi phi hùng, nhân hữu Chu Văn Vương mộng phi hùng nhi ngộ Thái công Vọng đích truyền thuyết. Vũ vương phạt Trụ bình thoại, Phong thần diễn nghĩa đẳng thư đô chuyên chương diễn thuật giá nhất truyền thuyết. Cựu thời nhân dụng “phi hùng nhập mộng” vị đế vương đắc hiền thần đích trưng hiệu” (Từ Hải, Thượng Hải từ thư xuất bản xã, 1989, tr.290, tập Thượng) = Sách Sử ký, phần Tề Thái công thế gia, Chu Văn Vương sắp đi săn, bói rằng: “Bắt được không phải rồng, không phải li, không phải hổ, không phải bi, được là kẻ giúp Bá Vương. Sau đó, Chu Tây bá đi săn quả nhiên gặp Thái công (tức Lã Vọng) ở bờ Bắc sông Vị. Sau “phi hổ” (chẳng phải hổ), sách Tống thư, Phù đoan chí viết phi hùng (chẳng phải gấu). Về sau do nhầm chẳng phải gấu thành gấu bay, nhân có truyền thuyết Chu Văn Vương mộng thấy gấu bay mà gặp Thái công Vọng. Sách Vũ Vương phạt trụ bình thoại và Phong thần diễn nghĩa đều có chương nói về truyền thuyết đó. Người xưa dùng điển “gấu bay vào mộng” để nói về điềm đế vương tìm được hiền thần.) – Nguyễn Mạnh Suý hiệu đính.
Dịch thơ :
Đề chậu vẽ cảnh Lã Vọng câu cá
Năm tháng buông cần Vị thuỷ sâu
Mồi thơm câu lấy tước công hầu
Gấu bay vào mộng, xe Châu gặp
Thôi ngắm tà dương thán bạc đầu!
39
其 二
梅 占 先 春 呈 骨 格
鳥 迎 和 氣 真 詩 歌
水 山 草 樹 多 奇 勝
爭 似 天 然 一 樣 羅
Phiên âm:
Kỳ nhị
Mai chiếm tiên xuân trình cốt cách
Điểu nghinh hoà khí chân thi ca
Thuỷ sơn thảo thụ đa kỳ thắng
Tranh tự thiên nhiên nhất dạng la
Dịch nghĩa:
Bài hai
Mùa xuân đến, hoa mai nở trước các loài hoa khoe cốt cách
Chim đón khí hoà hoãn, khí ấy như bản chất của thi ca
Sông núi cỏ cây thật lạ lùng !
(Tượng Lã Vọng như) tranh với thiên nhiên mà phô bày một dạng khác.
Dịch thơ :
Bài hai
Mai sớm trình xuân trước bách hoa
Chim nghinh hoà khí, chất thơ ca
Núi sông cây cỏ phô kỳ thắng
Tranh với thiên nhiên: tượng Lã già!
40
歲 旦 寄 探 家 母 並 兄 弟
春 來 雨 露 慶 滂 沱
春 到 門 闌 藹 瑞 多
萱 樹 春 深 堂 蔭 茂
春 回 百 福 又 星 羅
Phiên âm:
Tuế đán ký thám gia mẫu tịnh huynh đê
Xuân lai vũ lộ khánh bàng đà
Xuân đáo môn lan ái thuỵ đa
Huyên thụ xuân thâm đường ấm mậu
Xuân hồi bách phúc hựu tinh la
Dịch nghĩa:
Sáng mùng một đầu năm,
gởi thăm mẹ cùng anh em
Xuân trở lại, mừng cho mưa móc ràng rụa
Xuân đến cửa, nhiều điềm lành hiện ra
Cây cỏ huyên vẻ xuân già dặn1, cây đường đệ cành lá tốt tươi bóng râm toả rộng 2
Mùa xuân đem về nhiều phúc lộc như sao giăng trên trời.
Chú thích: 1. Kinh Thi: An đắc huyên thảo ngôn thụ chi bối = Làm sao có được cây cỏ huyên, nói rằng để trồng chái bắc nhà ăn cỏ huyên khỏi buồn phiền. Chái bắc nhà là nơi mẹ ở. Do đó có từ huyên đường (nhà huyên) trỏ mẹ.
2. Kinh Thi: Đường đệ chi hoa, mạc bất vỹ vỹ. Phàm kim chi nhân, mạc như huynh đệ = Đường đệ nở hoa, đài thơm rậm rạp. Phàm người đời nay, chẳng bằng anh em. Cho nên đường đệ (cũng gọi thường đệ) dùng trỏ anh em.
Dịch thơ:
Đầu năm thăm mẹ cùng anh em
Xuân tới mừng mưa móc xiết bao
Xuân bày điều tốt giữa nhà cao
Cây huyên chẳm hẳm, cây đường rậm
Phúc lộc theo xuân đến tợ sao.
41
又 寄 探 族 屬
梅 魁 嶺 上 報 先 春
泰 爾 天 君 一 筆 新
遙 禱 族 中 皆 萃 祉
桃 芳 醉 月 緒 天 倫
Phiên âm:
Hựu ký thám tộc thuộc
Mai khôi lãnh thượng báo tiên xuân
Thái nhĩ thiên quân nhất bút tân
Dao đảo tộc trung giai tuỵ chỉ
Đào phương tuý nguyệt tự thiên luân.
Dịch nghĩa:
Lại gửi thăm bà con trong họ
Trên đỉnh núi, mai đứng đầu các loài hoa báo tin xuân sớm nhất
Trong tâm hồn yên vui như thế nên có bài thơ mới này
Từ phương xa, cầu nguyện cho mọi người trong họ đều được lắm phước
Sống theo luân thường đạo lý, kể cả khi thưởng hoa ngắm trăng uống rượu.
Dịch thơ:
Thăm bà con trong họ
Đầu non mai nở báo tin xuân
Bút mới, lòng vui, mực thắm dần
Xa ước họ ta nhiều phúc lộc
Trăng say đào thích nhớ thiên luân.
42
雲 南 寺 落 成
雲 南 山 寺 景 天 成
隱 隱 龜 形 地 上 生
梵 宇 幾 經 風 動 蕩
蓮 臺 高 掛 月 圓 明
素 娥 厚 意 碑 留 績
明 遠 前 功 石 勒 名
佛 境 喜 今 重 起 色
千 秋 長 響 法 鐘 聲
香 樵
Phiên âm:
Vân Nam tự lạc thành
Vân Nam sơn tự cảnh thiên thành
Ẩn ẩn qui hình địa thượng sanh
Phạm vũ kỷ kinh phong động đãng
Liên đài cao quải nguyệt viên minh
Tố Nga hậu ý bi lưu tích
Minh Viễn tiền công thạch lặc danh
Phật cảnh hỷ kim trùng khởi sắc
Thiên thu trường hưởng pháp chung thanh.
Hương Tiều
Dịch nghĩa:
Chùa Vân Nam trùng tu lạc thành
Cảnh chùa Vân Nam ở trong núi là cảnh do trời sanh,
Mặt đất nổi hình con rùa chỗ ẩn chỗ hiện
Chùa từng trải qua bao phen gió giật
Còn đài sen cao vút treo vầng trăng tròn đầy sáng láng
Bà Tố Nga1 có lòng đôn hậu còn để dấu trên bia
Sư Minh Viễn2 trước kia có công nên tên được ghi trên đá
Nay mừng cảnh Phật khởi sắc như thuở xưa
Từng tiếng chuông huyền diệu vang vọng đến ngàn thu.
Nguyên chú: 1. Tố Nga là tên pháp của bà ngoại ở thôn Ngọc Thạnh (Bà tên Trần Thị Hạnh, tục gọi bà Bá Liên, hỉ cúng tài vật lập nên Vân Nam tự)
2. Minh Viễn là tên pháp ông thầy Bảy.
Dịch thơ : Hương Tiều là biệt hiệu của ông Tú Trần Trọng Giải, anh ruột ông Hà Trì, ông Tú tự dịch ra thơ Nôm, tôi phiên âm như sau:
Mừng chùa Vân Nam trùng tu xong
Thợ trời khéo đúc cảnh chùa non
Đặt để hình qui dấu hãy còn
Cửa Phạm xưa lồng cơn gió kép
Đài sen nay giọi bóng trăng tròn
Tố Nga lòng thiện bia nên tạc
Minh Viễn công cao đá chẳng mòn
Cõi Phật rày mừng hương khói đượm
Tiếng chuông ngàn thuở gióng bon bon.
Hương Tiều
43
步 韻 和 之
寺 掛 山 阿 故 址 成
塗 丹 彩 耀 五 雲 生
煙 封 禪 院 經 蕪 沒
燈 伴 沙 門 復 燦 明
慈 德 無 量 詩 有 榜
佛 碑 不 老 字 留 名
雲 南 古 剎 千 秋 在
鐘 鐸 元 音 呷 偈 聲
Phiên âm:
Bộ vận hoạ chi
Tự quải sơn a cố chỉ thành
Đồ đơn thể diệu ngũ vân sanh
Yên phong Thiền viện kinh vu một
Đăng bạn Sa môn phục xán minh
Từ đức vô lường thi hữu bảng
Phật bi bất lão tự lưu danh
Vân Nam cổ sát thiên thu tại
Chung đạc nguyên âm hiệp kệ thanh.
Dịch nghĩa:
Theo vần hoạ lại
Chùa đứng trên sườn núi, nhân nền cũ mà dựng thành
Mây năm màu như son đỏ, như ánh sáng rực rỡ
Khói vây quanh Thiền viện, nơi vừa trải hoang tàn
Ngọn đèn làm bạn với nhà sư, ánh sáng tỏ rõ như lúc trước
Công đức của bà không thể lường, đã có thơ khắc lên bảng gỗ
Bia Phật chẳng mòn, tiếng tăm lưu mãi nơi hàng chữ
Chùa cổ Vân Nam ngàn thu còn mãi
Với chính tiếng chuông mõ hoà cùng tiếng tụng kinh đọc kệ.
Dịch thơ: Tác giả tự dịch thành thơ Nôm, hoạ lại theo vần bài thơ dịch Nôm của ông Hương Tiều, tôi phiên âm như sau:
Bài hoạ
Chùa cũ sùng tu ở cạnh non
Mây năm thức vẽ dấu xưa còn
Cõi Thiền khói toả trông đà mãn
Cửa Bụt đèn lu bóng lại tròn
Trân trọng công bà thơ đáp để
Lâu dài bia Phật chữ không mòn
Cảnh chùa Eo Mén ngàn năm vững
Chuông mõ công phu gióng cốc bon.
Copyright by TranHaNam 2007 - Translated into Vietnamese by Dang Qui Dich