httt35

Thơ chữ Hán (Bài 44 - Bài 48)

HÀ TRÌ THI TẬP 

44

留 柬 詩

宦 途 跋 涉 廿 年 來

報 答 皇 恩 未 滴 埃

南 北 東 西 從 所 命

催 科 撫 字 愧 無 才

寸 心 曷 寄 三 春 草

方 面 虛 持 兩 度 梅

槃 郡 親 朋 分 袂 後

黃 昏 喜  得  補 南 陔

潘 春賢

 

Phiên âm:

Lưu giản thi

Hoạn đồ bạt thiệp trấp niên lai

Báo đáp hoàng ân vị trích ai

Nam bắc đông tây tùng sở mệnh

Thôi khoa phủ tự quí vô tài

Thốn tâm hạt ký tam xuân thảo

Phương diện hư trì lưỡng độ mai

Bàn quận thân bằng phân mệ hậu

Hoàng hôn hỉ đắc bổ nam cai .

Phan Xuân Hiền

 

Dịch nghĩa:

Thơ viết để lại cho bạn bè

Lặn lội trên đường làm quan đã vài mươi năm nay

Báo đáp ơn vua thì công nhỏ nhít như giọt nước cũng chưa lập được

Ra bắc vào nam xuống đông lên tây đều phải tuân theo mệnh vua sai khiến.

Thẹn mình không tài đôn đốc mọi người làm việc và an ủi vỗ về dân chúng an cư lạc nghiệp.

Sao chẳng nhớ nỗi lòng tấc cỏ muốn trả ơn ánh nắng tháng ba mùa xuân?1

Tài chẳng xứng mà giữ chức vụ đứng đầu một địa phương tới hai mùa mai nở

Chia tay bạn thân ở quận Bàn2

Bù lại, được gần thềm nam mà sớm chiều thăm viếng mẹ3

 

Nguyên chú: Phan Xuân Hiền đang làm tri huyện huyện Phù Cát thì được gọi về triều thăng chủ sự bộ Lễ.

Chú thích: 1. Thơ Mạnh Giao đời Đường có câu:

Thuỳ ngôn thốn thảo tâm

Báo đắc tam xuân huy

Dịch:     Ai rằng lòng tấc cỏ

Trả được nắng tháng ba?

2. Thành Đồ Bàn là kinh đô của nước ChamPa từ năm 1000 dưới đời vua Indra Vacman II đến năm 1470 dưới đời vua Trà Toàn. Thành này hiện còn di tích tại hai thôn Nam An và Bắc Thuận thuộc xã Nhơn Hậu huyện An Nhơn tỉnh Bình Định. Trong văn chương xưa thường gọi là Bàn thành hoặc Bàn quận để chỉ cho tỉnh Bình Định.

3. Nam cai là bậc thềm phía Nam. Bà mẹ ở chái Bắc nhà nên con muốn đến thăm mẹ phải leo lên bậc thềm phía Nam nhà. Do đó từ Nam cai cũng dùng trỏ nơi mẹ ở.

 

 

Dịch thơ:

Thơ viết để lại cho bạn bè

Trường quan lặn lội bấy lâu nay

Ơn chúa chưa từng đáp mảy may

Tài kém thẹn vì nan phủ đốc

Mệnh vâng nên trải khắp đông tây

Ôm hoài bão nhớ ba xuân cỏ

Trót lạm vu* qua mấy độ mai

Xa bạn thành Bàn tuy nuối tiếc

Sớm hôm gần mẹ đáng mừng thay !

 

Chú thích: * Theo Hàn Phi tử: Nam Quách Sử Sĩ không biết thổi cái vu mà cũng dự vào đám 300 nhạc công của Tề Tuyên Vương. Vua này muốn nghe 300 người cùng thổi một lượt nên Sử Sĩ đã qua mặt được vua Tề. Đến đời Mân Vương thì ông vua này chỉ thích nghe từng người một thổi, Sử Sĩ sợ lộ bèn bỏ trốn. Để chỉ trích kẻ bất tài mà có chức vụ, văn học cổ có điển gọi là lạm vu = lạm dự thổi vu.

 

45

步 韻 和 之

香 屏 英 氣 毓 鍾 來

一 片 銜 靈 不 染 埃

百 里 牧 芻 歸 特 簡

二 年 槃 錯 見 真 才

談 心 久 剪 巴 山 燭

贈 友 行 吟 驛 使 梅

南 省 北 堂 相 密 邇

公 餘 晨 夕 賦 蘭 陔

 

Phiên âm:

Bộ vận hoạ chi

Hương Bình anh khí dục chung lai

Nhất phiến hàm linh bất nhiễm ai

Bách lý mục sô qui đặc giản

Nhị niên bàn thác kiến chân tài

Đàm tâm cửu tiễn Ba sơn chúc

Tặng hữu hành ngâm Dịch sứ mai

Nam tỉnh Bắc đường tương mật nhĩ

Công dư thần tịch phú lan cai.

 

 

Dịch nghĩa:

Hoạ y vần

Khí anh linh của sông Hương núi Ngự chung đúc lại

Một tấm linh hồn chẳng nhuốm bụi

Chăn dắt dân chúng trong trăm dặm vuông1 lại có lệnh đặc biệt gọi về

Sắp đặt việc công trong hai năm đã chứng tỏ cho người thấy mình thật sự tài giỏi.

Cùng ngồi bên cửa sổ cắt tàn cho nến sáng, lặng lẽ chẳng nói gì vì đã hiểu lòng nhau như đôi bạn ở núi Ba thuở xưa2. Ngày ấy đã lâu rồi nhỉ?

Tặng bạn khúc ngâm Mai dịch 3

Sảnh đường bộ Lễ ở phía Nam, nhà anh ở phía Bắc, cả hai nơi đều gần gũi.

Sớm chiều rảnh việc công ở Bộ rồi thì lui về nhà phụng dưỡng mẹ như người con trong thơ Lan cai4.

 

Chú thích: 1.  Kinh Dịch, lời thoán quẻ Chấn: “Chấn kinh bách lý = Sấm động trăm dặm”, tiếng sấm phát ra trong vòng 100 dặm vuông lấy đó làm cương vực một ấp tức một huyện sau này.

2. Lý Thương Ẩn đời Đường có bài thơ:

`                               Dạ vũ ký Bắc

Quân vấn qui kỳ vị hữu kỳ

Ba sơn dạ vũ trướng thu trì

Hà đương cộng tiễn Tây song chúc

Khước thoại Ba sơn dạ vũ thì.

            Dịch:     Đêm mưa viết gởi về Bắc

Anh hỏi ngày về chửa định đâu

Non Ba mưa tới nước đầy ao

Bao giờ cùng cắt song tây nến

Nói chuyện non Ba mưa tối nào.

3. Lục Khải thời Nam Bắc triều đã nhờ dịch sứ chuyển đến bạn là Phạm Việp ở Lũng Đầu cành mai và bài thơ:

Chiết mai phùng dịch sứ

Ký dữ Lũng đầu nhân

Giang Nam hà sở hữu

Liêu tặng nhất chi xuân.

Dịch:     Bẻ mai vừa gặp trạm

Gởi bạn Lũng đầu nhân

Giang Nam vật hiếm lắm

Cầm tạm một cành xuân.

4. Thúc Triết đời Tấn làm Bổ vong thi, trong số có bài Lan cai, trong bài có câu: Tuân bỉ Nam Cai, Ngôn thái kỳ lan. Nghĩa là: Men dọc thềm Nam kia, Nói là hái rau lan. Ý nói người con có hiếu, hái rau về phụng dưỡng cha mẹ. Do đó lan cai thành từ trỏ việc làm của hiếu tử.

 

Dịch thơ:

Bài hoạ

Hương Bình tú khí đúc nên anh

Chút bụi không hoen hồn vẫn thanh

Trăm dặm vỗ về tuân lệnh Thánh

Hai năm gánh vác thấy tài lành

Non Ba xưa nhớ câu đàm cựu

Sứ dịch giờ trao vận tiễn hành

Nhà Bắc sở Nam gần gũi nhỉ

Sớm hôm tiện báo đức sanh thành.

 

46

留 柬 詩

屈 指 於 今 幾 度 秋

槃 城 備 位 敢 賒 求

追 思 舊 業 惶 惶 恐

每 念 君 恩 耿 耿 憂

局 外 徒 聞 移 巨 鎮

痴 人 妄 說 戀 新 州

寧 知 瘧 鬼 難 堪 受

京 國 重 來 早 預 籌

平 富 總 督 某

 

Phiên âm:

Lưu giản thi

Khuất chỉ ư kim kỷ độ thu

Bàn thành bị vị cảm xa cầu

Truy tư cựu nghiệp hoàng hoàng khủng

Mỗi niệm quân ân cảnh cảnh ưu

Cục ngoại đồ văn di cự trấn

Si nhân vọng thuyết luyến Tân Châu

Ninh tri ngược quỉ nan kham thụ

Kinh quốc trùng lai tảo dự trù

Bình Phú tổng đốc mỗ

 

 

Dịch nghĩa:

Thơ viết để lại

Lần tay mà đếm, cho đến nay đã trải mấy thu

(chẳng tài cán gì mà) choán chỗ ở thành Bàn há dám trông mong quá mức như thế đâu

Nhớ lại cơ nghiệp cũ thì quá đỗi sợ hãi

Mỗi lần nghĩ tới ơn vua thì băn khoăn lo lắng

Kẻ ngoài cuộc bảo rằng ta được đổi đến trấn lớn

Kẻ khờ dại nói càn rằng ta lưu luyến Tân Châu1 không nỡ rời

Chỉ có ta tự biết mình bị bệnh sốt rét hành hạ khó đương nhiệm vụ

Nên sớm toan tính trở lại kinh đô.

Ông mỗ làm Tổng đốc Bình Định, Phú Yên2

 

Chú thích: 1. Từ Tàu gọi Champa, cũng gọi Đồ Bàn (Đồ còn đọc là Xà)

2. Chưa rõ là ai.

 

 

Dịch thơ:

Thơ viết để lại

Lần tay tính đã mấy thu qua

Choán chỗ thành Bàn dám ước xa

Nhớ lại nghiệp xưa thương nỗi nước

Nghĩ hoài ơn Chúa xót lòng ta

Kẻ ngoài đoán hão đổi nơi lớn

Người dại đồn xằng mê đất Xà

Chỉ biết khó khăn cùng bệnh quỉ

Kinh đô về lại sớm toan mà!

 

47

奉 和  

其 一

重 鎮 雄 藩 恰 幾 秋

臣 忠 子 孝 兩 能 求

諸 侯 節 傳 宜 繼

天 下 經 綸 樂 後 憂

輔 地 重 來 依 北 闕

新 城 任 說 戀 南 州

天 顏 咫 尺 承 恩 厚

黼 黻 皇 猷 懋 展 籌

 

Phiên âm:

Phụng hoạ

Kỳ nhất

Trọng trấn hùng phiên cáp kỷ thu

Thần trung tử hiếu lưỡng năng cầu

Chư hầu tiết việt truyền nghi kế

Thiên hạ kinh luân lạc hậu ưu

Phụ địa trùng lai y Bắc khuyết

Tân thành nhậm thuyết luyến Nam châu

Thiên nhan chỉ xích thừa ân hậu

Phủ phất hoàng du mậu triển trù.

 

Dịch nghĩa:

Kính hoạ - Bài một

Giữ phiên trấn lớn và quan trọng đã mấy mùa thu

Tôi trung con hiếu, cả hai đều làm được như nguyện ước

(Trọng thần làm) chư hầu truyền lại ấn tín phủ việt cho người kế tiếp

Sắp đặt việc trong thiên hạ thì lo trước vui sau

Trở lại cõi đất làm phụ dực cho đô vua mà nương nhờ cửa Bắc cung vua

Nơi thành mới mặc kệ lời đồn mà còn lưu luyến châu Nam

Gần vua trong tấc thước thì nhận được ơn vua ban cho dày dặn

Mặc lễ phục là áo phủ áo phất mà mưu giúp vua, gắng sức triển khai trù toán.

 

Dịch thơ :

Bài một

Trọng nhậm hùng phiên trải mấy thâu

Hiếu trung một gánh vẹn hai đầu

Kinh luân lo trước vui sau vậy

Tiết việt trên truyền dưới kế nhau

Đã tính chuyển về nương Bắc khuyết

Mặc cho lời nói luyến Nam châu

Hầu trong gang tấc nên ơn nặng

Đem quách sở tồn báo nghĩa sâu

 

48

其 二

制 閫 平 藩 歷 幾 秋

惟 思 借 置 豈 他 求

文 章 節 光 家 券

朝 郡 經 綸 為 國 憂

重 到 春 京 依 玉 闕

高 登 屏 嶺 勝 瀛 洲

良 宵 當 屬 情 留 戀

悶 殺 雞 人 報 曉 籌

 

Phiên âm:

Kỳ nhị

Chế khổn bình phiên lịch kỷ thu

Duy tư tá trí khởi tha cầu

Văn chương tiết việt quang gia khoán

Triều quận kinh luân vị quốc ưu

Trùng đáo xuân kinh y ngọc khuyết

Cao đăng Bình lãnh thắng Doanh châu

Lương tiêu đương thuộc tình lưu luyến

Muộn sát kê nhân báo hiểu trù

 

Dịch nghĩa:

Bài hai

Làm nhiệm vụ chế ngự biên khổn, bình định phiên trấn trải đã mấy thu

Duy chỉ mình ngài sắp xếp đặt để, há cầu kẻ khác?

Thơ phú văn chương do ngài làm ra cùng ấn làm tin và búa tỏ quyền uy của vua trao đã làm rạng rỡ khoán sắt vua ban cho gia đình ngài từ trước.

Ngài sắp đặt việc chính trị trong triều ngoài quận vì nước mà lo toan.

Nay trở lại kinh đô Phú Xuân, nương tựa dưới cửa ngọc cung vua,

Trèo lên núi cao Ngự Bình mà thưởng ngoạn thì cảnh sắc nơi này cũng nổi tiếng có thua gì Doanh châu ở cõi tiên.

Đêm nay trời trong gió mát, quan lại dưới quyền quyến luyến ngài,

Lòng họ buồn muốn chết người khi được người giữ việc báo giờ báo rằng trời đã sáng.

 

 

Dịch thơ:

Bài hai

Giữ an phiên khổn mấy năm rày

Há cậy nhờ ai? Chỉ một tay

Triều quận kinh luân vì nghĩa nước

Văn chương tiết việt rạng tờ mây

Xuân kinh ngọc khuyết về nương náu

Doanh đảo, Bình sơn khá sánh tày

Lưu luyến đêm nay tình thuộc hạ

Chợt nghe gà gáy, não lòng thay!

 

Copyright by TranHaNam 2007 - translated into Vietnamese by Dang Qui Dich