Thơ chữ Hán (Bài 26 - Bài 35)
HÀ TRÌ THI TẬP
26
回 休 留 柬
光 祿 寺 少 卿 林 增 森作
馳 逐 名 場 十 幾 年
家 山 回 首 夢 重 圓
催 耕 勸 稼 饒 真 趣
嘯 月 栖 霞 適 性天
駕 馬 縱 然 懷 棧 裡
鳴 鴻 奈 已 托 雲 籩
親 朋 惜 別 無 多 話
珍 重 留 題 一 短 篇
Phiên âm:
Hồi hưu lưu giản
Quang lộc tự thiếu khanh Lâm Tăng Sum tác
Trì trục danh trường thập kỷ niên
Gia sơn hồi thủ mộng trùng viên
Thôi canh khuyến giá nhiêu chân thú
Khiếu nguyệt thê hà thích tánh thiên
Giá mã túng nhiên hoài sạn lý
Minh hồng nại dĩ thác vân biên
Thân bằng tích biệt vô đa thoại
Trân trọng lưu đề nhất đoản thiên
Dịch nghĩa:
Viết để lại cho bạn bè lúc về hưu
Lâm Tăng Sum, hàm Quang lộc tự thiếu khanh làm 1
Theo đuổi công danh ở hoạn trường đã mười mấy năm
Ngoảnh về quê cũ mà hình ảnh thường hiện đầy trong mộng
Đôn đốc cày bừa, khuyến khích gieo trồng mới thật là những việc làm mang lại nhiều hứng thú;
Gọi trăng lên, ngăn ráng lại để ngâm vịnh cho thoả cái sở thích được trời phú bẩm.
Ngựa đã đóng vào xe rồi chợt nhớ con đường lát gỗ qua núi 2 rất khó đi mà ngại sao?
Chim hồng cất tiếng kêu há nại bay tới bờ mây?
Tiếc vì phải xa cách bạn thân nhưng cũng không thể nhiều lời
Chỉ trân trọng viết để lại một bài thơ ngắn.
Chú thích: 1 . Lâm Tăng Sum người xã Minh Hương, nay thuộc xã Phước Hoà, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định. Sinh năm 1869. Chân Tú tài đỗ Cử nhân khoa Quí Mão (1903). Quan chức đến Hồng Lô tự Thiếu khanh, phẩm tòng tứ (4 – 2) thì về hưu.
2. Sạn lý: Bên trong sạn đạo. Đất Thục xung quanh núi non, đường đi hiểm trở xưa người ta phải bắc cầu qua núi gọi là sạn đạo. Đây trỏ con đường qua đèo Hải Vân phía Nam kinh đô Huế, để về Bình Định.
Dịch thơ:
Về hưu, viết để lại cho bạn bè
Mười mấy năm trời vướng lợi danh
Quê xưa ngoảnh lại mộng nay thành
Ráng dồn nguyệt gọi, vui trời phú
Cày nhắc gieo khuyên, thú đất dành
Ngựa đóng chi nài đường gỗ hiểm
Hồng kêu há ngại khoảng mây xanh
Bạn bè từ biệt lời không lắm
Thơ ngắn lưu liên tỏ tấc thành.
27
奉 和
薊 北 荊 南 近 廿 年
功 名 一 路 夢 纔 圓
宦 程 靜 帖 波 濤 海
卿 署 稠 霑 雨 露 天
秋 想 蓴 纑 歸 恰 好
閑 來 風月 興 無 籩
州 情 宦 旅 雙 難 遣
貂 續 驪 歌 重 一 篇
Phiên âm :
Phụng hoa
Kế Bắc Kinh Nam cận trấp niên
Công danh nhất lộ mộng tài viên
Hoạn trình tĩnh thiếp ba đào hải
Khanh thự trù triêm vũ lộ thiên
Thu tưởng thuần lô qui kháp hảo
Nhàn lai phong nguyệt hứng vô biên
Châu tình hoạn lữ song nan khiển
Điêu tục ly ca trọng nhất thiên
Dịch nghĩa :
Kính hoạ
Làm quan trải Kế châu ở phía Bắc, Kinh châu ở phía Nam đã gần hai mươi năm 1
Một đường công danh vừa trọn vẹn như ao ước
Trên đường làm quan đã đi qua đều yên ổn như biển lặng sóng
Tại dinh quan khanh, mưa móc từ trời rơi xuống đầm đìa2
Khéo sao được về hưu vừa gặp tiết thu sang khiến nhớ canh rau thuần và gỏi cá vược3
Lúc rảnh rỗi, trăng và gió gợi hứng khôn cùng
(Tôi với ông có) tình người cùng tỉnh và cùng làm quan nơi đất khách; cả hai cái tình đó (khiến giờ chia tay) khó nguôi buồn
Trịnh trọng có một bài vụng về nối khúc ly ca4.
Chú thích: 1. Kế Châu ở phía Bắc Biện Kinh (nơi nhà Tống đóng đô), Kinh Châu ở phía Nam Biện Kinh, dùng ví với hai huyện ở phía bắc và nam kinh đô Huế nơi mà ông Lâm Tăng Sum từng làm tri huyện trước khi về Kinh làm Tự quan.
2. Ý nói từng chịu nhiều ân sủng của hoàng gia
3. Theo Tấn thư, đời Tấn có Trương Hàn ở Ngô quận làm quan tại Lạc Dương. Nhân một hôm gió thu bắt đầu thổi, Hàn nhớ canh rau rút và gỏi cá vược (Thuần canh lô khoái) ở quê nhà mà bỏ quan về.
4. Theo Thông chí, về đời Tấn có Triệu Vương Luân làm phản, chiếm được ngôi rồi thì phong cho bè đảng nhiều kẻ làm khanh làm tướng. Khi triều hội, bọn chúng đội mũ có gắn đuôi con điêu ngồi đầy triều. Thời nhân cho rằng bọn chúng tài bất xứng chức nên chế giễu rằng: “Điêu bất túc, cẩu vĩ tục = Đuôi điêu chẳng đủ thì lấy đuôi chó thế vào”, sau thành thành ngữ “Tục điêu” dùng với ý khiêm tốn rằng mình không xứng đáng tiếp nối việc làm của người trước. Truyện Kiều có câu: “Hư hèn lẽ cũng nối điêu” và ở đây “Điêu tục ly ca” đều dùng theo ý ấy.
Điêu: loài chuột to như con rái cá, đuôi to lông rậm dài hơn một tấc, sắc vàng và đen, sinh ở xứ rét, da nó làm áo mặc rất ấm nên rất quí báu (Thiều Chửu, Hán Việt Tự điển, Đuốc Tuệ xb, Hà Nội – 1942, tr. 642)
Ly ca: Tên khúc hát xưa dùng hát khi chia tay. Đây dùng ví với bài xướng của ông Sum.
Dịch thơ :
Bài hoạ
Hai chục năm hàm tới Thiếu khanh
Ước mơ vừa trọn nẻo công danh
Hoạn đồ yên ổn, ba đào lặng
Quan thự đầm đìa vũ lộ dành
Thu nhớ thuần lô hưu khéo kịp
Nhàn trông phong nguyệt hứng thêm sanh
Đồng hương đồng hoạn nguôi ngoai khó
Ca nối xin dâng vận tiễn hành.
28
春 夜 夢 與 斿
欄 楯 寒 侵 玉 漏 沉
思 君 無 那 夢中 尋
琴 敲 月 下 撚新 曲
酒 對 花 前 醒舊 吟
屏 嶺 幾 天 春樹 翠
捍 江 何 處 暮雲 深
文 曹 剩 喜 於文 地
及 早 歸 鞍 更盍 簪
少 芝胡 得 合
Phiên âm:
Xuân dạ mộng dữ du
Lan thuẫn hàn xâm ngọc lậu trầm
Tư quân vô ná mộng trung tầm
Cầm xao nguyệt hạ niên tân khúc
Tửu đối hoa tiền tỉnh cựu ngâm
Bình lãnh kỷ thiên xuân thọ thúy
Hãn giang hà xứ mộ vân thâm
Văn tào thặng hỷ ư văn địa
Cập tảo qui an cánh hạp trâm.
Thiếu chi Hồ Đắc Hiệp
Dịch nghĩa:
Đêm xuân mơ cùng đi chơi
Khí lạnh xâm nhập tràn qua lan can, qua then cửa (tiếng đồng hồ treo kêu tích tắc như tiếng) đồng hồ nước nhỏ giọt âm trầm.
Nhớ anh, tìm gặp trong giấc mơ ngắn ngủi.
Dưới trăng gảy khúc đàn mới.
Trước hoa cùng uống, ngâm bài cũ mà cả hai đều nhớ.
Cây xanh trên núi Ngự Bình đã trải mấy mùa xuân?
Tôi từ sông Thạch Hãn trông vào Nam chẳng biết anh ở nơi nào dưới đám mây dày đặc của buổi chiều*?
Bạn làng văn có thừa nỗi vui mừng vì có chỗ dùng văn
Tôi mong mình sớm quay ngựa về cho kịp nhóm họp.
Chú: Hồ Đắc Hiệp hiệu Thiếu Chi, bạn thân của ông Hà Trì. Chưa rõ tiểu sử. Theo nguyên chú thì ông Hiệp nằm mơ thấy mình đi chơi với bạn là Hà Trì, tỉnh dậy làm bài thơ này gửi đến Hà Trì.
* Núi Ngự Bình ở Huế, nơi ông Hà Trì đang ở. Thạch Hãn là sông lớn ở Quảng Trị, nơi ông Thiếu Chi đang ở.
Hai câu 5, 6 tác giả mượn ý thơ Đỗ Phủ đời Đường. Trong bài Xuân nhật hoài Lý Bạch, Đỗ có hai câu:
Vị bắc xuân thiên thọ
Giang đông nhật mộ vân
渭 北 春 天 樹
江 東 日 暮雲
Cây xuân ngày Vị bắc
Mây chiều tối Giang đông
Sau thành điển “Xuân thọ mộ vân” để nói sự nhớ bạn.
Dịch thơ:
Đêm xuân mơ cùng đi chơi
Giọt rồng đều đặn, lạnh len song
Nhớ bạn tìm nhau một giấc nồng
Dưới nguyệt đàn ca tân chế tác
Trước hoa thơ rượu cựu tương thông
Non Bình cây thắm xuân bao trải
Sông Hãn mấy mờ xứ khó trông
Mừng lắm làng văn nay đắc dụng
Sớm về hội họp kịp như mong.
29
步 韻 和 之
偶 接 佳 音 日未 沉
知 君 千 里 夢相 尋
詩 傳 芳 稿 宜新 筆
句 會 梅 花 合浪 吟
痲 郡 蹉 跎 緣事 冗
皇 州 消 息 重情 深
歸 來 正 喜 春猶 早
紅 粉 香 迎 沛滿 簪
Phiên âm:
Bộ vận hoạ chi
Ngẫu tiếp giai âm nhật vị trầm
Tri quân thiên lý mộng tương tầm
Thi truyền phương cảo nghi tân bút
Cú hội mai hoa hợp lãng ngâm
Ma quận tha đà duyên sự nhũng
Hoàng châu tiêu tức trọng tình thâm
Qui lai chánh hỉ xuân do tảo
Hồng phấn hương nghinh bái mãn trâm.
Dịch nghĩa :
Theo vần hoạ lại
Chợt tiếp được bài thơ có âm vận đẹp vào lúc ngày chưa tàn
Mới biết anh ở ngoài ngàn dặm đã tìm gặp tôi trong mơ
Hương thơ truyền qua bản thảo thơm phức, ngờ là thơ mới làm
Câu thơ nhắc tới bài thơ cũ vịnh mai mà tôi và anh đều nhớ, thích hợp cho ta ngâm tràn
Anh ở huyện Ma Linh1 bận vì công việc nhiều nên cái hẹn vào thăm tôi cứ lần lữa mãi.
Tôi ở châu Hoàng2 nhận được tin thì biết anh coi trọng tình bạn
Hy vọng anh trở về đúng vào dịp vui đầu xuân
Đón tiếp anh có khách hồng phấn hương đượm đầy trâm.
Chú thích: 1. Tên quận Chàm xưa, nay là tỉnh Quảng Trị
2. Châu Vua, nơi vua đóng đô, đây trỏ Huế.
Dịch thơ:
Bài hoạ theo vần
Tiếp được giai âm ngày chửa tắt
Biết anh ngàn dặm mộng tìm nhau
Thơ truyền phương cảo ngờ vừa viết
Ngâm nhắc mai hoa đã thuộc làu
Việc lắm, sa đà quên cựu ước
Tình thâm tin tức gửi Hoàng châu
Hãy về đúng dịp vui xuân mới
Người đón hương thơm đẫm mái đầu.
30
新 月 戲 作 寄女 醫
嫦 娥 仙 藥 最靈 奇
占 得 長 生 不老 姿
可 惜 一 輪 天月 上
每 逢 缺 處 未全 醫
少 芝 胡 得 合
Phiên âm :
Tân nguyệt hý tác ký nữ y
Thường Nga tiên dược tối linh kỳ
Chiếm đắc trường sinh bất lão ti (tư)
Khả tích nhất luân thiên nguyệt thượng
Mỗi phùng khuyết xứ vị toàn y
Thiếu chi Hồ Đắc Hiệp
Dịch nghĩa:
Đầu tháng có trăng non, viết đùa gửi nữ y
Thuốc tiên của Thường Nga rất hay rất lạ
Giữ được dáng dấp trẻ mãi không già
Khá tiếc cho một vành trăng ở trên trời
Chỉ có khuyết mà chưa có phương thuốc chữa cho đầy đặn được.
Nguyên chú: Bà thầy thuốc tên Quít, bị bệnh đậu mùa nên rỗ mặt từ nhỏ.
Bổ chú: Thường Nga còn gọi là Hằng Nga. Theo Hoài Nam tử, Hậu Nghệ xin được thuốc của bà Tây Vương Mẫu, bị vợ là Hằng Nga lấy trộm rồi trốn lên cung trăng.
Dịch thơ :
Giễu nữ y
Hằng Nga chị có thuốc tiên hay
Bất lão trường sinh giữ khéo thay
Khá tiếc trăng kia còn chỗ khuyết
Thuốc đâu không chữa để trăng đầy?
31
答 和
望 穿 缺 處 世間 奇
堪 羨 騷 翁 大眼 姿
二 七 鍊 成 丹桂 後
十 全 大 補 月中 醫
Phiên âm:
Đáp hoạ
Vọng xuyên khuyết xứ thế gian kỳ
Kham tiện tao ông đại nhãn ti (tư)
Nhị thất luyện thành đơn quế hậu
Thập toàn đại bổ nguyệt trung y.
Nữ y
Dịch nghĩa:
Bà thầy theo vần hoạ đáp lại
Thông thấu chỗ khuyết, đáng gọi là người kỳ lạ trên thế gian
Chỉ có ông là người tao nhã, có tầm nhìn rộng, mới làm được việc đó.
Sau ngày mồng bảy tháng bảy, quế đỏ luyện thành
Thì có đủ thuốc mà bổ thang Thập toàn đại bổ cho trăng thì đến giữa tháng trăng tròn đầy không còn chỗ khuyết nữa.
Dịch thơ :
Đáp hoạ
Chỉ có tao ông đại nhãn quan
Nhìn xuyên chỗ khuyết hơn thế gian
Chờ xong quế đỏ sau song thất
Giữa tháng cho trăng uống thập toàn
32
步 韻 和 之
竊 藥 飛 昇 事正 奇
廣 寒 歲 月 艷芳 姿
虧 盈 自 是 長生 術
不 識 神 仙 漫說 醫
荷 池
Phiên âm:
Bộ vận hoạ chi
Thiết dược phi thăng sự chánh kỳ
Quảng Hàn tuế nguyệt diễm phương ti (tư)
Khuy doanh tự thị trường sinh thuật
Bất thức thần tiên mạn thuyết y.
Hà Trì
Dịch nghĩa :
Theo vần hoạ lại
Trộm thuốc bay lên, việc thật lạ
Năm tháng ở trong cung lãnh lẽo mà giữ được dáng dấp đẹp đẽ thơm tho
Khuyết bổ cho đầy, tự cho là biết thuật sống lâu
Chẳng biết thần tiên không phí lời nói về phép làm thuốc.
Dịch thơ :
Bài hoạ theo vần
Trộm thuốc lên trăng, việc rất kỳ
Quảng Hàn năm tháng vẫn phương phi
Đầy vơi tự bảo trường sanh thuật
Chẳng biết thần tiên chán nói y !
33
示 表 弟
塊 儡 年 來 半 已 平
兩 間 位 置 一 梅 兄
別 家 煙 爨 稱 僧 宦
空 紙 鶯 花 訝 再 生
似 與 情 痴 香 一 辮
每 隨 意 到 筆 雙 莖
蹉 跎 莫 厭 名 山 寂
幾 劫 桑 滄 也 鍊 成
白 梅潘 玉 環
Phiên âm:
Thị biểu đệ
Khối lỗi niên lai bán dĩ bình
Lưỡng gian vị trí nhất mai huynh
Biệt gia yên thoán xưng tăng hoạn
Không chỉ oanh hoa nhạ tái sinh
Tự dữ tình si hương nhất biện
Mỗi tùy ý đáo bút song hành
Ta đà mạc yếm danh sơn tịch
Kỷ kiếp tang thương dã luyện thành
Bạch Mai Phan Ngọc Hoàn
Dịch nghĩa:
Bảo em1
Thân bù nhìn đã yên ổn trải nửa đường đời
Anh Mai (của em cũng có được) một chỗ đứng giữa đất với trời
Về hội hoạ thì biệt riêng một phái xưng là Tăng hoạn2
(Vẫy bút trên) giấy còn bỏ trống thì chim oanh và hoa (hiện ra linh động ngỡ như) sống lại.
Ta mê vẽ như say mùi thơm của cả một bó hương
Mỗi khi cao hứng thì bút theo ý đón mà cất lên nhanh nhảu như sức của hai cây bút cùng vẽ một lúc.
Lần lữa tháng năm la cà nơi danh sơn vắng vẻ mà không chán
Trải bao kiếp tang thương biến đổi mới rèn luyện được nhân sinh quan như thế.
Chú thích :Phan Ngọc Hoàn người thôn Thượng Yên, huyện Phú Vang ,tỉnh Thừa Thiên. Sinh năm 1893. Đỗ Cử nhân cùng khoa với ông Hà Trì , Ất Mão (1915) đời Duy Tân. Cùng xuất sĩ một lần với ông Hà Trì, cả hai người vừa là bạn đỗ cùng khoa, bạn cùng làm quan và bạn thơ rượu.
Theo nguyên chú thì Bạch Mai Phan Ngọc Hoàn chẳng những thơ hay mà vẽ cũng đẹp.
1. Biểu đệ : Em con cô, con cậu, con dì
2. Tăng hoạn : chưa rõ.
Dịch thơ :
Bảo em
Trơ trơ tượng gỗ nửa đời người
Một chỗ anh Mai giữa đất trời
Tăng hoạn riêng nhà đường lối khác
Oanh hoa trên giấy ảnh hình tươi
Với tranh mê mẩn mùi hương bó
Gặp hứng vẽ vời sức bút đôi
Năm tháng la cà non chẳng chán
Biển dâu bao kiếp đúc nên rồi
34
步 韻 和 之
自 喜 靈 襟 囿 太 平
晨 昏 家 樂 有 賢 兄
怡 情 山 水 琴 中 趣
得 意 雲 煙 筆 下 生
累 報 佳 音 魚 遞 札
多 承 厚 澤 露 霑 莖
此 身 自 有 天 陶 鑄
宦 況 風 流 福 履 成
Phiên âm :
Bộ vận hoạ chi
Tự hỷ linh khâm hựu thái bình
Thần hôn gia lạc hữu hiền huynh
Di tình sơn thủy cầm trung thú
Đắc ý vân yên bút hạ sinh
Luy báo giai âm ngư đệ trát
Đa thừa hậu trạch lộ triêm hành
Thử thân tự hữu thiên đào chú
Hoạn huống phong lưu phúc lý thành.
Dịch nghĩa:
Hoạ theo vần
Tự mừng tâm hồn mình được nhiều yên ổn lâu dài
Trong nhà suốt ngày được vui vẻ vì nhờ có anh hiền
Lòng thấy vui, trong cái thú gảy đàn đã gởi chí ở non cao, gởi tình theo dòng nước chảy;
Khi đắc ý, vẩy bút lên thì dưới bút hiện hình mây khói
Cá mangthư liên tiếp đến báo tin tốt *
Thừa hưởng phúc trạch dồi dào như cây ướt dầm sương móc
Thân này tự được trời nặn đúc
Phương chi làm quan thì được nhiều phong lưu và được nhiều phúc lộc.
Chú thích : * Ngư thư : 1. Xưa bì thư được xếp hình con cá. 2. Cá mang thư: Cổ thi: “Khách tòng viễn phương lai, di ngã song lý ngư, Hô đồng phanh lý ngư, Trung tàng xích tố thư = Khách từ phương xa đến, Tặng ta đôi lý ngư, Gặp trẻ mổ bụng cá, Trong có một tờ thư”
Dịch thơ:
Bài hoạ theo vần
Tâm hồn yên ổn đáng mừng thay
Vui vẻ nhờ anh được suốt ngày
Đàn địch tình hoà non với nước
Vẽ vời ý thích bút sanh mây
Giai âm tới tấp thư trong cá
Phúc trạch đầm đìa móc đẫm cây
Vốn được thân này trời nặn đúc
Quan thì nhàn nhã, lộc thì đầy.
35
遊 夜 偶 興
春 宵 偶 興 漫 尋 春
乘 興 相 將 訪 故 人
詩 搨 風 流 談 夜 月
歸 來 清 趣 夢 中 頻
Phiên âm :
Du dạ ngẫu hứng
Xuân tiêu ngẫu hứng mạn tầm xuân
Thừa hứng tương tương phỏng cố nhân
Thi tháp phong lưu đàm dạ nguyệt
Qui lai thanh thú mộng trung tần
Dịch nghĩa:
Đêm đi chơi, chợt hứng thành thơ
Đêm xuân chợt hứng tìm xuân cho thoả thích
Nhân dịp đi chơi này, cùng bạn đến thăm cố nhân
Thong thả ngồi trên chiếc chõng của nhà thơ mà bàn luận dưới trăng
Được về hưu hưởng thú thanh nhàn là điều ta hằng mơ ước.
Nguyên chú: Đêm xuân cùng Thiếu Chi nhân hứng đến thăm Bạch Mai, chợt làm thành bài này.
Dịch thơ :
Đêm đi chơi chợt hứng thành thơ
Đêm xuân chợt hứng dạo tìm xuân
Cùng bạn hứng tìm thăm cố nhân
Trên chõng dưới trăng bàn bạc thú
Về hưu hưởng lạc ước bao lần.
Copyright by TranHaNam - Translated into Vietnamese by Dang Qui Dich